Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển căn bệnh hà lan, biểu hiện nhiễm căn bệnh hà lan của việt nam và bài học kinh nghiệm từ các nước khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.28 KB, 29 trang )

ĐỀ TÀI: Căn bệnh Hà Lan, biểu hiện nhiễm Căn bệnh Hà Lan của Việt Nam
và bài học kinh nghiệm từ các nước khác

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CĂN BỆNH HÀ LAN
I.

Nguồn gốc và khái niệm:

1.

Nguồn gốc:
Trong suốt thời gian từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến trước những năm

1960, Hà Lan đã đạt được thành công đáng kể trong hầu hết các lĩnh vực. Lạm phát
ít khi vượt quá 3%/năm, tốc độ GNP thường trên 5% và nạn thất nghiệp dao động
quanh tỉ lệ 1%. Bí quyết của những thành công này nằm ở chỗ khu vực xuất khẩu
truyền thống của nước này có sức cạnh tranh mạnh so với những đối thủ cạnh tranh
của mình trên toàn thế giới, như sản phẩm nông nghiệp và hàng điện tử.
Tuy nhiên, nên kinh tế Hà Lan đã gặp những thay đổi lớn. Thời gian này, trong
các cuộc thăm dò, các nhà địa chất đã phát hiện ra một nguồn khí đốt với trữ lượng
rất lớn ở Groningen, vùng Biển Bắc. Chính phủ Hà Lan đã ngay lập tức quyết định
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên này nhằm thu ngoại tệ phục vụ cho việc
phát triển kinh tế. Nhờ đó, nền kinh tế Hà Lan đã phát triển một cách nhanh chóng,
xuất khẩu tăng vọt. Từ năm 1973 đến năm 1978, Hà Lan đã xuất khẩu một lượng
lớn khí đốt làm tăng 10% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và 4% GNP. Chính phủ
Hà Lan đã tăng chi tiêu ngân sách, đầu tư vào nhiều lĩnh vực kém hiệu quả, sản
xuất hàng hóa phi ngoại thương không có sức mạnh cạnh tranh thay vì tiếp tục đầu
tư cho nông nghiệp và điện tử. Nhưng khi nguồn khí đốt được khai thác hết, nguồn
tiền không đủ để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu quốc gia, cầu trong nước giảm, đồng
thời nền kinh tế Hà Lan gặp nhiều khó khăn khi phải hấp thụ một lượng ngoại tệ
rất lớn từ xuất khẩu, đồng nội tệ lên giá mạnh đã khiến hàng hóa trong nước trở


1


nên đắt hơn, mất khả năng cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài, xuất khẩu các
ngành sản xuất truyền thống như nông nghiệp và điện tử giảm sút, chí phí sản xuất
trong nước tăng, lạm phát ở mức cao, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập thấp, tỷ lệ thất
nghiệp tăng. Những điều này làm cho tỉ lệ lạm phát tăng từ 2% năm 1970 đến 10%
năm 1975 và tốc độ GNP giảm từ 5% xuống còn 1%. Điều này làm cho nền kinh tế
Hà Lan trì trệ và để lại hậu quả nặng nề.
Từ đó, thuật ngữ “căn bệnh Hà Lan” được The Economist đặt ra vào năm 1977
để miêu tả sự suy giảm của khu vực chế tạo của Hà Lan khi nước này đẩy mạnh
xuất khẩu khí thiên nhiên. Và “căn bệnh Hà Lan” đã trở thành một thuật ngữ được
sử dụng trong các trường hợp tương tự.
2.

Khái niệm:
Căn bệnh Hà Lan là một hiện tượng thường xảy ra ở các nước đang phát triển

mà ở đó việc tập trung khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu thường hủy
hoại hoặc làm giảm mạnh sự phát triển của khu vực sản xuất. Nguyên nhân chính
là do các nguồn lực từ tài nguyên đã làm giảm tỷ giá hối đoái thực (tăng giá nội tệ)
và từ đó làm cho khu vực sản xuất trở nên kém cạnh tranh hơn.
Ban đầu căn bệnh Hà Lan chỉ đề cập đến việc khai thác tài nguyên nhưng sau
này nó đã được mở rộng ra để đề cập tới mọi nguồn thu ngoại tệ khổng lồ, bao
gồm cả việc tăng giá hàng xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngaoài.

2


II.


Mô hình 4 khu vực về căn bệnh Hà Lan

1.

Nội dung:

Mô hình 4 khu vực chia nền kinh tế quốc dân thành bốn khu vực như sau:

Khu vực xuất
khẩu

Khu vực không
xuất khẩu

Khu vực đang
bùng nổ là khu
vực khai thác tài
nguyên

Khu vực sản xuất
hàng tư bản

Khu vực đang trì
trệ là khu vực chế
tạo

Khu vực sản xuất
hàng tiêu dùng.


Về cách phân chia nền kinh tế, mô hình này đã chia nền kinh tế thành khu
vực xuất khẩu với khu vực đang bùng nổ chính là khu vực khai thác tài nguyên
xuất khẩu. Bên cạnh đó, thay vì nghiên cứu nông nghiệp như một khu vực đơn nhất
giống mô hình 2 khu vực, mô hình 4 khu vực xem khu vực nông nghiệp gồm khu
vực sản xuất nhằm xuất khẩu thu lợi nhuận (cash crops) và khu vực sản xuất lương
thực tiêu dùng trong nước (food crops). Việc sử dụng mô hình này sẽ phần nào
giúp chúng ta nhìn nhận được tác động của “căn bệnh Hà Lan” một cách chi tiết.

3


3.

Tác động:
Trên thực tế, một ngành bùng nổ có thể liên quan tới bất kỳ ngành khác của

nền kinh tế do ngành này thu được các khoản tiền hay dòng chảy ngoại tệ chảy vào
nền kinh tế, do đó, nó gây ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế khác. Trong nguyên
lý chính của “căn bệnh Hà Lan”, một ngành phát triển bùng nổ sẽ làm lu mờ các
ngành khác trên hai phương diện, thứ nhất qua việc chuyển nguồn lực qua ngành
đang bùng nổ (hiệu ứng chuyển dịch nguồn lực) và làm tăng chi tiêu ở các ngành
phi thương mại (hiệu ứng tiêu dùng.)
Việc sử dụng mô hình 4 khu vực có thể giải thích về căn bệnh Hà Lan qua 2
hiệu ứng chính như sau:
a. Hiệu ứng di chuyển nguồn lực:
Khi các ngành khai thác tài nguyên bùng nổ, lượng cầu về lao động của khu
vực này tăng lên, lao động từ khu vực sản xuất sẽ chuyển sang khu vực khai thác
này làm cho khu vực sản xuất bị thiếu cung lao động và trở nên suy thoái. Quá
trình này được gọi là phi công nghiệp hóa trực tiếp. Tuy nhiên, tác động này có thể
là không hiện hữu bởi vì các lĩnh vực khai thác mỏ và dầu khí thường tuyển dụng

rất ít lao động.
Mặt khác khi xét cụ thể từng ngành, hiệu ứng di chuyển nguồn lực chỉ ra
rằng: Đối với ngành nông nghiệp, do đồng nội tệ tăng giá, hàng hóa trong nước trở
nên đắt tương đối so với hàng hóa nước ngoài, do đó làm giảm sức cạnh tranh, khu
vực sản xuất nhằm xuất khẩu sẽ bị thu hẹp lại trong lúc khu vực sản xuất tiêu dùng
trong nước lại có xu hướng được mở rộng hơn vì nhu cầu trong nước có xu hướng
tăng lên nhờ vào dòng ngoại tệ làm cầu tăng.
Hiệu ứng di chuyển nguồn lực cũng diễn ra tương tự như vậy trong khu vực
công nghiệp. Các ngành công nghiệp sản xuất xuất khẩu có dấu hiệu suy thoái do
4


mức độ cạnh tranh giảm. Nguồn nhân lực sẽ di chuyển ra khỏi ngành này. Ngoài
ra, mô hình 4 nhân tố cũng chỉ ra rằng, các ngành sản xuất hàng tư bản thường có
mức tăng trưởng cao hơn các ngành hàng tiêu dùng do dòng ngoài tệ thường được
ưu tiên cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực khai thác đã làm tăng thu nhập của
người lao động trong lĩnh vực này. Nhu cầu tiêu dùng của họ vì thế cũng tăng lên.
Đây là nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực không xuất
khẩu. Sự tăng trưởng này lại kéo theo sự di chuyển nguồn lực từ khu vực chế tạo
và khiến cho khu vực này ngày càng trì trệ hơn. Quá trình này được gọi là phi công
nghiệp hóa gián tiếp. Việc di chuyển nguồn lực trong thực tế không chỉ là nhân tố
lao động mà còn có các nhân tố khác như vốn, khoa học công nghệ...
b. Hiệu ứng tiêu dùng:
Thu nhập cao hơn của người dân sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng tăng cao.
Nhu cầu cao hơn tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng tăng cao, thúc đẩy những
ngành sản xuất phục vụ tiêu dùng phát triển.
Mô hình 4 khu vực chia thị trường thành 2 thành phần:
-


N (nontradable) bao gồm những hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước chỉ

phục vụ nhu cầu trong nước như dịch vụ, xây dựng,... và không tham gia xuất khẩu
hay nhập khẩu.
-

T (Tradable) là các loại hàng hóa dịch vụ sản xuất trong nước để phục vụ

hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như nhu cầu nội địa.
Hiệu ứng tiêu dùng xảy ra khi những người có thu nhập từ khu vực có sự
bùng nổ tăng lên, và lượng thu nhập này sẽ được chi cho cả hai thành phần trong
thị trường đã nêu trên. Nếu cầu của hàng hóa không tham gia xuất nhập khẩu so
5


với thu nhập là co dãn thì tăng thu nhập tăng sẽ khiến cầu tăng do đó, để tăng lợi
nhuận, các nhà sản xuất sẽ đẩy giá những mặt hàng này tăng. Khi giá những mặt
hàng này tăng nghĩa là nguồn cầu với đầu vào của hàng sản xuất cũng tăng theo vì
giá của nguyên, nhiên liệu hay lương nhân công cũng tăng theo giá của hàng sản
xuất phục vụ trong nước. Tuy nhiên giá của hàng xuất nhập khẩu lại cố định bởi
chúng bị thị trường quốc tế chi phối về giá. Do vậy, khi chi phí sản xuất tăng, lợi
nhuận của các nhà sản xuất hàng xuất nhập khẩu sẽ bị giảm. Lợi nhuận giảm đến
một lúc nào đó sẽ khiến cho các nhà đầu tư rời bỏ khu vực sản xuất hàng hóa xuất
khẩu và chuyển sang khu vực sản xuất hàng hóa tiêu dùng trong nước. Đồng thời,
sau một thời gian, khi đồng ngoại tệ yếu đi thì các mặt hàng nhập khẩu trở nên rẻ
hơn và vì vậy cầu T tăng sẽ được thay thế bằng các mặt hàng nhập khẩu. Như vậy
hiệu ứng tiêu dùng trên không những sẽ làm tăng giá các mặt hàng N trong nước,
gây áp lực lạm phát; đồng thời nó còn làm các ngành sản xuất các mặt hàng T xuất
khẩu khác bị suy yếu và lượng nhập khẩu lại gia tăng. Điều này dẫn đến tình trạng
các ngành sản xuất trong nước không còn cạnh tranh được với hàng hóa nước

ngoài. Dần dần, công nghệ tụt hậu do không được chú trọng cộng với giá đầu vào
tăng cao sẽ khiến các quốc gia mắc “Căn bệnh Hà Lan” giảm công nghiệp hóa
CHƯƠNG II: BIỂU HIỆN NHIỄM BỆNH Ở VIỆT NAM
Mặc dù chưa thật sự mắc phải “căn bệnh Hà Lan” nhưng trên thực tế Việt
Nam cũng đã từng có thời kì bắt đầu có những biểu hiện có khả năng nhiễm bệnh.
I. Biểu hiện nhiễm “Căn bệnh Hà Lan” đến từ xuất khẩu dầu mỏ
Sau đổi mới, Việt Nam đã có những chính sách thúc đẩy xuất khẩu rất hiệu
quả và đã đạt được những sự phát triển rất lớn về quy mô và tốc độ tăng trưởng,
đóng góp một phần không nhỏ vào GDP cũng như làm cân bằng cán cân thanh
toán. Không chỉ tăng lên về tổng sản lượng xuất khẩu, xuất khẩu của Việt Nam
cũng có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu với sự gia tăng
6


mạnh mẽ của công nghiệp nặng và khoáng sản trong cơ cấu các mặt hàng xuất
khẩu, đặc biệt là dầu thô. Và biểu hiện của Căn bệnh Hà Lan xuất phát từ việc tăng
nhanh trong sản lượng xuất khẩu dầu thô.

Kim ng ạch xuất khẩu c ủa Việt Nam giai đoạn
1986 - 2015
180000
160000
140000
120000

Triệu USD

100000
80000
60000

40000
20000
0
m


87
19

89
19

91
19

93
19

95
19

97
19

99 001 003 005 007
19
2
2
2
2


20

09

20

11

20

13

Năm 1989, chúng ta bắt đầu xuất khẩu dầu thô với số lượng là 1,5 triệu tấn. Trước
năm 2009, sản lượng sản xuất và xuất khẩu dầu thô luôn xấp xỉ nhau và ở mức rất
cao. Tuy nhiên, kể từ năm 2009 xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đã giảm đáng kể,
nguyên nhân do khủng hoảng kinh tế năm 2009 và việc Nhà máy lọc dầu Dung
Quất bắt đầu đi vào hoạt động. Khối lượng dầu thô xuất khẩu từ năm 2010 đến nay
chỉ dao động từ 8-9 triệu tấn trong khi lượng sản xuất cũng dao động từ 15 đến 17

7

20

15


triệu tấn..

Năm

2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015

Giá trị xuất khẩu dầu thô
(Triệu USD)
5.666
7.387
8.323
8.477
10.450
6.210
4.944
7.236
8.212
7.278
7.229
3.720
(Tổng cục Hải quan)
8



Trong giai đoạn 2004 – 2008, trị giá xuất khẩu dầu thô của Việt Nam tăng
lên một cách chóng mặt. Chỉ trong vòng 4 năm giá trị dầu thô của Việt Nam đã
tăng gần gấp đôi, điều này có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Giai đoạn này,
xuất khẩu dầu thô tăng mạnh khiến cho nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào dầu
mỏ, thu từ ngành dầu khí đóng góp từ 20-30% thu ngân sách nhà nước, kéo theo đó
lượng ngoại tệ lớn đổ vào ngành khai thác dầu khí gây tình trạng giảm công nghiệp
hóa mà “căn bệnh Hà Lan” đã đề cập.
Biểu hiện của căn bệnh Hà Lan ngày càng rõ khi mà năm 2009 và 2010, trị
giá dầu thô xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh do khủng hoảng kinh tế cũng như
sự bùng phát của thị trường dầu khí thế giới. Đặc biệt, năm 2015 lượng dầu thô
xuất khẩu của Việt Nam đạt 9,18 triệu tấn, giảm 1,3% nhưng kim ngạch chỉ đạt
3,72 tỷ USD, giảm tới 48,5% so với năm trước do giá dầu thô giảm mạnh. Giá dầu
giảm dẫn đến việc thu ngân sách giảm mạnh sẽ tác động tiêu cực tới chi tiêu Chính
phủ và GDP.
Nói tóm lại, từ sau năm 2009, kim ngạch xuất khẩu dầu thô đã giảm, do đó
chúng ta không rơi vào “căn bệnh Hà Lan” nhưng biểu hiện nhiễm bệnh thì có. Ở
cấp quốc gia thì nhẹ nhưng ở một số địa phương thì nặng, nhất là các địa phương
mà cơ cấu thu chi ngân sách được đóng góp lớn bởi nguồn dầu mỏ. Mở rộng ra với
các địa phương quá chú trọng khai thác tài nguyên, lúc hết tài nguyên, sẽ có nhiều
nơi rơi vào cảnh hụt hẫng, cân đối thu chi ngân sách bị ảnh hưởng lớn. Hay như
một số địa phương ở miền Trung đã chọn khai thác titan, thay vì du lịch, để thu lợi
nhanh. Cách làm như vậy càng khiến làn sóng khai khoáng tăng mạnh, nhất là khai
thác thô, bán ngay.
Tư duy khai thác và xuất khẩu tài nguyên đã không còn phù hợp trong bối
cảnh hiện nay. Điều đó không đồng nghĩa với việc đoạn tuyệt công nghiệp khai

9



khoáng mà cần hướng tới tăng cường giá trị gia tăng, nhất là phục vụ các ngành
công nghiệp nội địa.
III.

Biểu hiện mắc căn bệnh Hà Lan ở Việt Nam từ FDI
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, dòng vốn đầu tư từ nước

ngoài đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Trong vòng 10 năm kể từ khi gia nhập WTO, nước ta càng tiếp nhận nhiều
vốn ngoại tệ hơn, đặc biệt phải kể đến FDI. Nguồn vốn này đang tác động mạnh
đến cán cân thương mại, cơ cấu kinh tế,…. ở Việt Nam. Nếu không có các chính
sách, chiến thuật sử dụng hiệu quả, sự gia tăng nhanh chóng về ngoại tệ có thể sẽ
gây ra các tác động tiêu cực, dẫn đến các triệu chứng của căn bệnh Hà Lan đối với
nền kinh tế.
FDI là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mang lại nhiều lợi ích như bổ sung
nguồn vốn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu lao động, tăng ngân sách nhà nước, cải thiện nguồn nhân lực,…. Mặt
khác, FDI có thể kéo theo các hậu quả như thâm hụt cán cân thương mại, lạm phát,
mất cân đối giữa các ngành nghề, vùng lãnh thổ, ô nhiễm môi trường,…
FDI được ưu tiên hướng đến là FDI sạch - nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, phải đáp ứng
được các nhu cầu: lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội, lợi ích môi trường. Cụ thể:
- Lợi ích kinh tế: Nguồn vốn FDI một khi được tiến hành đầu tư thì phải
đảm bảo lợi ích cho cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Đối với nước đầu
tư khi tiến hành đầu tư phải nhận được các lợi ích kinh tế như nguồn lao động
và nguyên vật liệu rẻ hơn, tạo ra được lợi nhuận trong quá trình đầu tư. Đối với
nước tiếp nhận đầu tư phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và bền

10



vững; phát triển sản xuất theo hướng thân thiện môi trường, công nghiệp hóa,
phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững, phát triển công nghiệp sạch.
- Lợi ích xã hội: thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm các mục tiêu: tiến
bộ và công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm, tăng thu nhập;
nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp, chăm sóc
sức khỏe…
- Bảo vệ môi trường, xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất
lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác tài nguyên bừa
bãi.
Dòng vốn FDI đổ dồn vào Việt Nam quá lớn khiến nền kinh tế Việt Nam
không thể hấp thu nổi và kéo theo nhiều hệ quả là triệu chứng của Căn bệnh Hà
Lan, đó là: sự suy yếu của đồng nội tệ, gây ra lạm phát nghiêm trọng; sự chuyển
dịch lao động dẫn đến suy yếu của ngành sản xuất và ảnh hưởng đến ngành xuất
khẩu của Việt Nam; sự khánh kiệt của các nguồn tài nguyên và hủy hoại môi
trường
1.

Sự suy yếu của đồng nội tệ và lạm phát đỉnh điểm ở Việt Nam giai đoạn
2007 - 2008
Biểu hiện đầu tiên và rõ ràng nhất phải kể đến là tình trạng lạm phát ở nước

ta trong giai đoạn 2007 - 2008. Dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI ồ ạt đổ vào
nước ta từ năm 2007 - năm đầu tiên nước ta gia nhập WTO đã khiến tổng lượng
ngoại tệ lên đến khoảng 25 tỉ USD tràn vào thị trường. Con số này còn tăng lên gần
3 lần vào năm 2008 khi nước ta đón nhận 71 tỉ USD vốn FDI. Vốn FDI đổ vào với
số lượng lớn và quá nhanh khiến cho hệ thống quản lí kinh tế Việt Nam không kịp
trở tay. Chính sách tài chính, tiền tệ còn lỏng lẻo, chưa hợp lý, quản lý còn nhiều
thiếu sót dẫn đến không kiểm soát được dòng tiền, làm cung tiền tăng lên đáng kể,
gây ra lạm phát nghiêm trọng. Lạm phát hai năm này đã lên tới 2 chữ số, đỉnh điểm
11



là năm 2008 thậm chí đã lên đến 19,8%. Thời kì này cũng chính là giai đoạn sóng
gió trong công tác kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam.

Nguồn: Tổng Cục Thống kê
4.

Sự chuyển dịch lao động dẫn đến sự suy yếu của ngành sản xuất và xuất
khẩu của Việt Nam
Sự chuyển dịch lao động gián tiếp và trực tiếp giữa các vùng và các ngành

trong nền kinh tế xuất phát từ sự đầu tư không đồng đều của lượng vốn FDI vào thị
trường Việt Nam.
Về sự chuyển dịch lao động giữa các vùng, các tỉnh thành trong nước và các
ngành trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ để thu hút vốn FDI trong khi Nhà
nước chưa có định hướng đúng đắn sẽ dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa
các vùng và phân bố nguồn FDI cân đối cho các ngành. Những khu vực tập trung
nhiều thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, Hải Phòng và các vùng lân cận thường
thu hút được một lượng rất lớn đầu tư nước ngoài trong khi các khu vực như Tây
Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc lại không được hưởng nguồn vốn để phát
12


triển. Điều này sẽ gây ra hai tác động. Một là sự phát triển không đồng đều giữa
các vùng miền của Việt Nam. Điều này đi ngược lại với định hướng phát triển và
gây trở ngại lớn cho các chính sách phát triển vùng sâu vùng xa của chính phủ. Hai
là, nguồn vốn FDI đầu tư vào các dự án được tiến hành ở các vùng thu hút FDI lớn
sẽ tạo ra hàng loạt công việc và thu hút lao động đến với các vùng này. Lao động ở
các khu vực ít thu hút vốn hơn sẽ rời bỏ khu vực này và khiến các ngành sản xuất

trong khu vực ít thu hút vốn hơn bị trì trệ, không phát triển.
Dưới đây là cơ cấu FDI theo vùng đến năm 2014 theo nguồn của Tổng cục
thống kê. Nhìn vào biểu đồ, ta nhận thấy sự mất cân đối lớn về lượng vốn FDI đổ
vào từng vùng. Tây Nguyên chỉ nhận được 0,36% lượng FDI trong khi 44,52% rơi
vào Đông Nam Bộ và 24,44% vào Đồng bằng sông Hồng.

Cơ cấu FDI theo vùng đến năm 2014

4.99% 3.42% 0.36%
22.27%

44.52%

Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung
Đồng bằng sông Cửu Long
Trung du và miền núi phía
Bắc
Tây Nguyên

24.44%

Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Trên phương diện cơ cấu ngành, lượng vốn FDI cũng không có sự đồng đều
giữa các ngành, suy yếu ngành sản xuất và xuất khẩu của Căn bệnh Hà Lan. Thứ
nhất, nông nghiệp là khu vực nhận được rất ít đầu tư từ nước ngoài, trong khi Việt
Nam vẫn là một nước nông nghiệp. Việc này dẫn đến nông nghiệp Việt Nam còn
13



phát triển tương đối chậm so với tốc độ phát triển của ngành Công nghiệp, Dịch
vụ... Nguồn vốn FDI khiến cho nhóm ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ
tăng trưởng quá nóng mà không có sự tăng trưởng tương tự từ ngành nông nghiệp;
dẫn đến sự mất cân đối về cơ cấu ngành kinh tế, kinh tế phát triển lệch lạc. Ngoài
ra, lao động trong ngành nông nghiệp cũng sẽ có sự dịch chuyển sang ngành công
nghiệp và dịch vụ do nông nghiệp không được đầu tư và phát triển sẽ dẫn đến sự trì
trệ, mức lương cho lao động trong ngành nông nghiệp thấp hơn so với mức lương
tron ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, ngành sản xuất, cụ thể là mặt hàng
xuất khẩu truyền thống của Việt Nam trong ngành nông nghiệp như cà phê, gạo
cũng bị ảnh hưởng do kết quả của việc chuyển dịch lao động.
Cũng như những phân tích trong mô hình 4 khu vực ở Chương I, nguồn vốn
FDI lớn đổ vào Việt Nam cũng khiến lượng ngoại tệ trong nước tăng lên, nội tệ yếu
đi và lên giá, khiến cho ngành xuất khẩu bị ảnh hưởng. Người dân tăng sử dụng
hàng hóa nhập khẩu vào trong nước thay cho hàng hóa sản xuất trong nước nên
khiến khu vực sản xuất suy yếu.
Phần lớn nguồn vốn này đầu tư vào các toà nhà văn phòng, trung tâm thương
mại, khu mua sắm, giải trí chứ không tập trung vào các công trình công cộng như
trường học, bệnh viện, đường xá… Đây cũng là một sự mất cân đối mà nguồn vốn
FDI gây ra.
Biểu đồ dưới đây sẽ cho ta thấy cơ cấu lĩnh vực đầu tư FDI vào Việt Nam
năm 2013:

14


Cơ cấu lĩnh vực đầu tư FDI vào Việt Nam năm 2013

0.39%


Công nghiệp - xây dựng
Dịch vụ
Nông - lâm - thủy sản

41.21%

58.40%

Nguồn: Tổng Cục Thống kê
5.

Sự khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường
FDI là một kênh quan trọng để thu hút công nghệ nguồn từ các nước có nền

công nghiệp tiên tiến vào Việt Nam, góp phần đổi mới, nâng cao trình độ công
nghệ của khu vực sản xuất, kinh doanh và toàn bộ nền kinh tế. Nhờ việc thu hút
các công nghệ này, Việt Nam đã sản xuất được nhiều sản phẩm mới, chất lượng
cao, hình thức mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý, được người tiêu dùng ưu tiên sử dụng.
Tuy nguồn vốn FDI dù mang đến cho nước ta nhiều công nghệ nhưng chưa
chuyển giao các công nghệ đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và theo kịp được
sự phát triển công nghệ của thế giới. Theo thống kê vào năm 2015 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho thấy: hơn 80% số doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ ở
mức trung bình của thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu, chỉ có 5% đến 6% sử
dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào những lĩnh vực mà họ bị hạn chế ở nước họ do gây ô nhiễm môi
trường hoặc ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cộng đồng,… Theo Tổng cục Môi trường
Việt Nam, hiện nay đang có tình trạng dịch chuyển các ngành gây ô nhiễm môi
15



trường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua FDI. Việc
“xuất khẩu ô nhiễm” này mang lại cho các tập đoàn đa quốc gia lợi thế cạnh tranh
nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân là do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi
trường tại các nước phát triển là rất cao.
Một điều đáng kể đến nữa là việc nguồn vốn FDI cũng tập trung chủ yếu vào
ngành khai thác dầu khí nhưng các doanh nghiệp lại không đầu tư vào công nghệ
lọc dầu. Lợi ích trước mắt lớn đã khiến các công ty nước ngoài đầu tư vào việc
khai thác dầu khí mà không chú trọng đến việc nâng cao công nghệ chế biến để tiết
kiệm chi phí. Điều này đã khiến nguồn tài nguyên dầu khí ở nước ta suy kiệt nhanh
chóng trong khi nguồn lợi được hưởng cho nước nhà thì không hề tương xứng.
Như vậy, FDI kéo theo những công nghệ lạc hậu và tình trạng ô nhiễm môi
trường ngày càng trầm trọng. Các công nghệ này không những có năng suất thấp,
lượng chất thải ra môi trường rất lớn, gây ô nhiễm môi trường mà còn nhanh chóng
mất khả năng sử dụng, trở thành phế liệu. Vì vậy, chính phủ cần có các biện pháp
quản lí và chính sách phù hợp, chặt chẽ trong việc tiếp nhận dự án đầu tư từ nước
ngoài, tránh tình trạng “trải thảm đỏ” tràn lan tại một số địa phương.
Vậy, trước những biểu hiện có nguy cơ mắc phải “căn bệnh Hà Lan” như
vậy, Việt Nam cần phải làm gì? Dưới đây là thực tế các quốc gia đã mắc và thoát
khỏi “căn bệnh” này, là bài học quý cho nền kinh tế Việt Nam.

16


CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC KHÁC
I.

Bài học kinh nghiệm cho căn bệnh Hà Lan về dầu mỏ của Nigeria
Nigeria - một thuộc địa cũ của Anh đã giành được độc lập từ năm 1960.


Nigeria nằm ở bờ biển phía Tây của lục địa Châu Phi. Mặc dù ban đầu, Nigeria là
một nền kinh tế cơ bản dựa trên sản xuất nông nghiệp. Vào đầu những năm 1970,
Nigeria phát hiện ra trữ lượng dầu mỏ khổng lồ thì đây là nguồn tài nguyên quan
trọng bậc nhất đối nền kinh tế cúa đất nước này. Với lợi thế về mặt địa lý, Nigeria
có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất Châu Phi, đứng thứ 8 trong lĩnh vực xuất khẩu dầu
mỏ trên thế giới và cũng là một trong những thành viên của tổ chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ. Thị trường chứng khoán của quốc gia này cũng xếp thứ 2 Châu lục.
Với tiềm năng kinh tế như vậy cộng với nguồn đầu tư tài chính dồi dào từ Hoa Kỳ,
Nigeria được xem là một nền kinh tế thị trường có triển vọng phát triển thành nền
kinh tế đứng đầu Châu Phi.
1.

“Căn bệnh Hà Lan”ở Nigeria:
Dễ dàng nhận thấy Nigeria là một quốc gia quá phụ thuộc vào dầu mỏ, các

sản phẩm từ dầu mỏ chiếm tới 80% nguồn thu của chính phủ, 90% ngoại tệ kiếm
được và 95% tổng thu nhập từ xuất khẩu là nhờ vào dầu mỏ nhất là vào giai đoạn
73 – 74 :giá dầu tăng lên gấp 4 lần so với trước đó, giai đoạn 79 – 80 : giá dầu lại
tăng thêm gấp đôi). Điều này khiến Nigeria mắc “ căn bệnh Hà Lan” từ rất sớm.

17


Các nhà khai thác ồ ạt tăng sản lượng dầu xuất khẩu, nhưng cũng chính điều
này làm cho giá trị đồng nội tệ tăng lên do cung nội tệ không đáp ứng đủ lượng
cung ngoại tệ tăng nhanh quá mức, kết quả là tỷ giá hối đoái bị tác động thay đổi
khó lòng kiểm soát. Và do đó, người dân bắt đầu đổ xô vào việc tiêu dùng hàng
nhập khẩu do hàng hóa nhập khẩu rẻ đi một cách tương đối so với hàng nội địa do
giá nội tệ tăng. Lao động từ các khu vực sản xuất khác đổ xô vào khu vực khai thác
tài nguyên gây nên sự mất cân bằng. Còn sức sản xuất hàng hóa công nghiệp và

nông nghiệp trong nước không thể cạnh tranh với thế giới do chi phí sản xuất tăng
cao quá mức,hàng nhập lại rẻ mạt, nền sản xuất nội địa gần như bị thủ tiêu. Đặc
biệt, với nguồn lợi nhuận khổng lồ thu được từ dầu mỏ, chính phủ nước này đã
tăng cường đầu tư cho quốc phòng (trang bị vũ khí, lực lượng quân sự), giải quyết
vấn đề nội chiến sắc tộc, phung phí tiền của để đầu tư vào các dự án không hiệu
quả…Có thể thấy rõ điều trên đây qua biểu đồ 2 về tỷ lệ chi tiêu công của chính
phủ trên khỏan “Oil windfall” này.

18


Hậu quả là vào đầu những năm 80, thâm hụt thương mại gia tăng (giai đoạn
81 – 84 thâm hụt ngân sách chiếm 12% so với GDP), lạm phát tăng cao, tỷ giá hối
đoái tăng không thể kiểm soát (tỷ giá hối đoái thực giai đoạn này tăng gấp 3 lần so
với giai đoạn 70 – 72), vấn đề thất nghiệp, tăng trưởng GDP (không kể dầu) chỉ đạt
5.3% (tương đương với 60% của 5 năm trước khi khám phá ra dầu), GDP/người
giảm sút trầm trọng, sự giàu có chỉ tập trung vào một số ít người trong khi người
lao động sản xuất trong các khu vực công nghiệp và nhất là nông nghiệp chịu ảnh
hưởng nặng nề và sống trong sự nghèo khổ, bần cùng (Theo Ngân hàng Thế giới
(WB), tại Nigeria phần lớn tài sản liên quan đến dầu mỏ thuộc về 1% dân số, trong
khi đa số dân còn lại sống ở mức 1 USD/người mỗi ngày. Người ta ước tính
khoảng 300-400 tỉ USD đã được các chính phủ Nigeria tham nhũng và chi tiêu
phung phí kể từ khi phát hiện ra dầu mỏ vào những năm 1960, tức bằng tổng số
tiền viện trợ của phương Tây cho toàn châu Phi trong cùng thời gian ấy), nền kinh
tế bị suy thoái nặng nề không thể vực dậy, và cho đến bây giờ những hậu quả đó
vẫn còn. Mặc dù mỗi ngày Nigeria sản xuất được 2 triệu 4 thùng dầu thô, phần lớn
dân chúng vẫn sống trong nghèo đói, phân biệt tôn giáo và săc tộc gay gắt, nợ nước
19



ngoài rất lớn. Giờ đây, quốc gia đã từng là nhà xuất khẩu ngũ cốc này đang thiếu
quan tâm tới nông nghiệp tới mức phải nhập khẩu hầu hết nhu cầu lương thực. Đất
nước Nigeria được biết đến không phải bởi ấn tượng xuất khẩu dầu mỏ thứ năm
trong OPEC mà là một trong những nước nghèo nhất thế giới, đất nước có biểu
hiện rõ rệt của căn bệnh Hà lan.
6.

Bài học cho Việt Nam

Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh Hà Lan
tại các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó chính là tình trạng xuất
khẩu sản phẩm thô một cách quá mức, không chú trọng đầu tư sản xuất các sản
phẩm tinh. Căn bệnh Hà Lan sẽ phát tác một khi nguồn tài nguyên trong nước đã
cạn kiệt hoặc có sự biến động giảm giá tài nguyên trên thị trường thế giới. Khi đó
việc khai thác tài nguyên để bán gặp khó khăn, các ngành sản xuất khác trong nước
hầu như đã tê liệt vì tụt hậu kĩ thuật khi không được đầu tư trong một thời gian dài.
Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Từ thực trạng của Nigeria như vậy, những bài
học cấp thiết được rút ra cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần phát triển công nghệ công nghệ chế biến và dịch vụ các
nguyên liệu thô mà ở đây là dầu thô. Như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trong
Tại lễ ra mắt và triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2007 của PVN “Dầu
khí Việt Nam không thể cứ tiếp tục xuất mãi dầu thô, Tập đoàn cần phát triển lĩnh
vực chế biến và dịch vụ để có nhiều giá trị gia tăng cao”, là một hướng đi mà
chúng ta đã làm nhưng vẫn chưa tốt. Thị trường tiêu thụ xăng, dầu trong nước với
số dân hơn 90 triệu người đòi hỏi một nguồn cung rất lớn với đầy đủ các chủng
loại xăng, dầu. Từ trước đến nay, hằng năm lượng dầu thô khai thác đều xuất khẩu
trong khi nguồn xăng, dầu cho sản xuất và tiêu dùng hằng ngày hoàn toàn dựa vào
nguồn nhập khẩu (mỗi dịp giá xăng, dầu thế giới biến động, gây khó khăn cho
nhập khẩu và tiêu dùng). Trong điều kiện tiềm năng dầu thô của nước ta vào cỡ
20



trung bình, tập đoàn đã hoạch định và triển khai kế hoạch xây dựng ba nhà máy lọc
hóa dầu ở các khu vực bắc – trung - nam. Tổ hợp lọc hóa dầu Bình Sơn (Khu kinh
tế Dung Quất - Quảng Ngãi) với nhà máy lọc dầu công suất 6,5 triệu tấn/năm đã
được đưa vào vận hành cuối tháng 2-2009. Nhà máy lọc dầu đầu tiên của nước ta
khi vận hành sẽ mở đầu cho sự hình thành nền công nghiệp lọc hóa dầu Việt Nam
hoàn chỉnh. Sau Dung Quất, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã triển khai
đầu tư xây dựng hai tổ hợp lọc hóa dầu ở Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Long Sơn (Bà
Rịa - VũngTàu). Tổ hợp lọc hóa dầu Long Sơn cũng sử dụng 100% nguồn nguyên
liệu dầu thô là nhập khẩu, với công suất khoảng 10 triệu tấn/năm (giai đoạn 1) và
có khả năng mở rộng ở giai đoạn 2 (2015 – 2025) với tổng công suất đạt khoảng 50
- 55 triệu tấn sản phẩm/năm.
Thứ hai, Nhà nước nên có các chính sách để thu hút vốn và công nghệ đầu
tư vào nước ta nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế trong nước, đặc biệt là ngành
khai thác và chế biến dầu mỏ, phát triển. Nước ta là một nước có tiềm năng, có
nguồn lực, vấn đề chỉ là làm sao phát huy được những nguồn lực ấy một cách tối
đa.
Qua những phân tích về thực trạng xuất khẩu dầu thô ở nước ta - một trong
những đặc điểm nhận dạng căn bệnh Hà Lan, chưa đến mức thật sự nguy hiểm, hay
nói cách khác, chưa đến mức tất cả chúng ta có thể nhìn rõ và hiểu một cách sâu
sắc về nó. Tuy vậy, điều chúng ta cần ý thức đó là phải hành động từ bây giờ.
Chiến lược phát triển hiệu quả chính là phương thức duy nhất cứu chúng ta.

21


II.
1.


BÀI HỌC VỀ VỐN FDI Ở TRUNG QUỐC:
Thực trạng và cách xử lí căn bệnh Hà Lan của Trung Quốc qua vốn FDI.

Trong những năm trở lại đây nền kinh tế Trung Quốc đã có những bước nhảy
vọt đầy ấn tượng vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới. Có thể nói rằng, sự thành công của quốc gia này được hình thành trên cơ
sở tác động của nhiều nhân tố và trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
nhân tố quan trọng không thể thiếu được.
a. Thực trạng về căn bệnh Hà Lan bên trong Trung Quốc
Ở Trung Quốc, “căn bệnh Hà Lan” bắt nguồn từ kim ngạch xuất khẩu khổng
lồ về hàng hóa đòi hỏi nhiều sức lao động cộng với nguồn vốn đầu tư dồi dào từ
nước ngoài - là yếu tố không chỉ ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái mà còn tới quy trình
ra quyết định của chính phủ. Trong khi đó, các định chế tài chính chưa đủ hoàn
thiện để phản ứng lại tình trạng này. Lượng ngoại tệ đổ vào dồn dập liên tục trong
khi tỷ giá hối đoái vẫn được định giá quá thấp và cố định một cách tương đối cùng
với những định chế tài chính yếu kém không chỉ khiến cho chính quyền trung ương
mất khả năng kiềm chế sự bùng nổ đầu tư đang liên tục diễn ra mà bên cạnh đó,
tình trạng này còn khuyến khích những hành động tìm kiếm đặc lợi, tham nhũng và
bất ổn ở nông thôn. Hơn nữa, với lượng dự trữ ngoại tệ trên một nghìn tỷ USD,
chính phủ Trung Quốc cảm thấy khó khăn trong việc hạ nhiệt nền kinh tế. Hiện tại,
các khoản đầu tư đã tương đương với 40% GDP.
FDI đổ vào thị trường Trung Quốc, không kể FDI rót vào lĩnh vực tài
chính, đạt 74,8 tỷ USD năm 2007, tăng 13,6% so với năm 2006. Cuối năm 2008,
do cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu mà nguồn vốn FDI thu hút được của các nước
trên thế giới đều có xu hướng giảm mạnh nhưng lượng vốn này chảy vào Trung
Quốc vẫn tăng tới 23,6% lên mức 92,4 tỷ USD. Với tác động kéo dài của cuộc
khủng hoảng kinh tế và tài chính lớn nhất trong vòng 80 năm qua, đầu tư trực
tiếp nước ngoài toàn cầu trong năm 2009 lại tiếp tục giảm 38,7% so với năm
22



2008, xuống còn 1.040 tỷ USD, trong đó Trung Quốc vẫn giữ ở vị trí thứ hai sau
Mỹ với tổng lượng vốn FDI thu hút được là 90 tỷ USD (chỉ giảm 2.6%).
Năm 2010, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã tăng một cách
chóng mặt lên mức cao kỷ lục, theo thông tin Bộ Thương mại Trung Quốc công
bố so với năm 2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc năm 2010 tăng
17,4% lên 105,7 tỷ USD.
Trung Quốc đang dần khẳng định vị trí của mình là một điểm đến đáng
tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cũng chính lượng vốn đầu tư
nước ngoài quá lớn đã gây ra những biến động không nhỏ tới nền kinh tế xã hội
Trung Quốc như: lạm phát tăng cao, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, sự phát
triển bất cân bằng giữa các vùng và khu vực, ô nhiễm môi trường trầm
trọng...Trung Quốc đã có những chính sách gì để giải quyết vấn đề thu hút FDI
vì sự phát triển bền vững nền kinh tế?
c. Cách xử lí căn bệnh Hà Lan của Trung Quốc về vốn FDI:
Trung Quốc đã thực hiện chủ trương hướng đến FDI sạch và hạn chế đến
mức tối thiểu những dự án FDI có ảnh hưởng xấu. Cụ thể, Trung Quốc đã triển
khai những chính sách sau để hiện thực hóa đường lối của mình:
- Chính phủ Trung Quốc ban hành các chính sách hợp lý để hoàn thiện cơ
cấu sản xuất ngang bằng giữa các ngành và khu vực trong nước với những chiến
lược đầu tư cụ thể trong từng gia đoạn và những quy định hướng dẫn đầu tư đối
với thương nhân nước ngoài và danh mục hướng dẫn về ngành sản xuất để thu
hút FDI.
Trong thời kỳ đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc thành lập 4 đặc khu kinh
tế, mở cửa 14 thành phố ven biển, đẩy mạnh thu hút vốn và kỹ thuật của nước
ngoài với những ưu đãi về thuế, đất đai, lao động... Trong giai đoạn này, FDI
23


vào Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào các ngành gia công, chế tạo, sử dụng nhiều

lao động. Đồng thời tích cực hướng dẫn thương nhân nước ngoài đầu tư vào địa
phương này bằng các biện pháp như: Ban hành “danh mục ngành sản xuất ưu
thế của miền Trung và Miền tây kêu gọi thương nhân nước ngoài đầu tư”, gia
tăng một cách thích đáng nguồn vốn tín dụng trong nước, các khoản vay chính
phủ nước ngoài và các khoản vay ưu đãi của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
nhằm sử dụng chủ yếu vào xây dựng các công trình hạ tầng, công trình bảo vệ
môi trường trọng điểm, các dự án thân thiện môi trường, ngành công nghiệp ít
các bon; đối với những hạng mục trong danh mục khuyến khích đầu tư nước
ngoài, nếu đầu tư vào miền trung và miền Tây Trung Quốc, sau khi hết thời hạn
được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp thì tiếp tục được giảm 15%
thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm tiếp theo.
Trong giai đoạn 1992 - 2000, chủ trương xây dựng thể chế kinh tế thị
trường được đẩy mạnh, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc tăng nhanh. Năm
1993, Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia thu hút FDI nhiều nhất
thế giới (chỉ sau Hoa Kỳ). Phương thức "lợi dụng vốn ngoại" của Trung Quốc
trong giai đoạn này là cùng góp vốn với công ty nước ngoài, khuyến khích
doanh nghiệp FDI nghiên cứu và thực nghiệm tại Trung Quốc. Từ năm 1995,
FDI của Trung Quốc tập trung vào nhóm ngành công nghiệp, xây dựng (chiếm
khoảng 70%), trong đó ngành chế tạo chiếm tỷ trọng lớn…
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào cuối năm
2001, chính sách thu hút FDI của Trung Quốc có sự điều chỉnh phù hợp với các
quy định của WTO với việc từng bước mở cửa thu hút đầu tư FDI vào các ngành
dịch vụ, bất động sản, tiền tệ…

24


Trong giai đoạn 2010 - 2020, Trung Quốc nêu rõ quan điểm thu hút FDI
vào các ngành kỹ thuật cao, kinh nghiệm quản lý, nhân lực chất lượng cao.
Trung Quốc cũng tiến hành sửa đổi bổ sung "Danh mục hướng dẫn ngành nghề

đầu tư nước ngoài", đồng thời cho phép chính quyền địa phương được phê
chuẩn dự án đầu tư từ 100 triệu USD lên 300 triệu USD.
- Đồng thời chính phủ ban hành nhiều chính sách ưu đãi về khoản tín
dụng như: Xí nghiệp đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc có nhu cầu về vốn sẽ
được vay vốn của các ngân hàng tại Trung Quốc với thời hạn, lãi suất và phí vay
về cơ bản áp dụng như các xí nghiệp của Trung Quốc; các khoản tiền vốn ngoại
tệ của các đơn vị này có thể dùng để thế chấp vay vốn; cho phép xí nghiệp nước
ngoài đầu tư dùng tài sản của họ ở hải ngoại để thế chấp vay vốn tại các chi
nhánh ngân hàng Trung Quốc ở nước ngoài; các xí nghiệp nước ngoài ở Trung
Quốc nếu có đủ tiêu chuẩn được xin phép phát hành cổ phiếu căn cứ theo
nguyên tắc chủ động và thoả đáng.
- Chính phủ xây dựng hệ thống pháp luật khá chặt chẽ về các tiêu chuẩn
môi trường, thủ tục pháp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài đã phần nào
giúp quốc gia này ngày càng chắt lọc được những nguồn vốn FDI sạch đảm bảo
cho sự phát triển bền vững. Trong thời gian gần đây, do thấy được tác hại của
các ngành khai thác mỏ bất hợp pháp đã hủy hoại đến môi trường nghiêm trọng,
quốc gia này đã đưa ra các chính sách nhằm tăng cường giám sát, kiểm soát các
ngành luyện kim và cắt giảm xuất khẩu khoáng sản, điển hình như cuộc đại suy
thoái toàn cầu vừa qua đã làm cho nhiều quốc gia điêu đứng do dòng vốn FDI
giảm mạnh nhưng nước này đã mạnh dạn với kế hoạch chấn hưng kinh tế 486 tỉ
USD gấp hơn hai lần EU, quyết định dùng 70% chương trình đầu tư công cộng
vào cơ sở hạ tầng nhằm hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và tạo công ăn việc làm cho
hàng triệu lao động… đã biến Trung Quốc trở thành cái máy hút FDI khổng lồ
trên toàn thế giới trong giai đoạn thực sự khó khăn của nền kinh tế toàn cầu.
25


×