Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển cơ cấu dân số vàng của việt nam, cơ hội và thách thức để phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.6 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ lâu, các nhà nghiên cứu đã nỗ lực tìm hiểu tác động qua lại giữa dân số và kinh
tế. Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu càng quan tâm đến các hiện tượng dân số
với nhiều thuật ngữ như “cửa sổ dân số”, “cơ hội dân số”, “cơ cấu dân số vàng” và “lợi
tức dân số”. Xét tình hình trong nước, dân số Việt Nam đã đạt ở con số 90 triệu người –
đứng thứ 14 trên thế giới và đứng thứ 8 ở châu Á, bên cạnh đó, Việt Nam đã chính thức
bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ năm 2007, với lực lượng lao động trẻ dồi dào,
và từ đó đến nay, sau 10 năm, nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong tăng trưởng kinh
tế. Vậy thì “cơ cấu dân số vàng” có ảnh hưởng như thế nào đến phát triển kinh tế? Nó
có thể mang lại những cơ hội và thách thức nào cho sự phát triển của đất nước? Nhận
thức rõ được vai trò quan trọng của cơ cấu dân số vàng đối với đất nước ta hiện nay,
nhóm 10 chúng em quyết định lựa chọn đề tài: Cơ cấu dân số vàng của Việt Nam, cơ
hội và thách thức để phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là làm sao giải quyết được những
thách thức cũng như tận dụng được cơ hội vàng mà cơ cấu “dân số vàng” mang lại.
Với đề tài: “Cơ cấu dân số vàng của Việt Nam, cơ hội và thách thức để phát triển
kinh tế”, nhóm hướng đến tìm hiểu và giải quyết được những thách thức cũng như tận
dụng được những lợi thế mà cơ cấu “dân số vàng” mang lại. Tìm hiểu những tác động ở
cả hai mặt tích cực và tiêu cực của yếu tố đó đến phát triển kinh tế, cũng như những
khó khăn Việt Nam gặp phải trên con đường tiến gần tới mục tiêu phát triển bền vững.
Cuối cùng nhóm muốn tìm hiểu những giải pháp tận dụng cơ cấu dân số vàng để phát
triển kinh tế nước nhà.
Bài tiểu luận nghiên cứu của chúng em gồm ba chương:
Chương I: Lý thuyết chung về cơ cấu dân số vàng.
Chương II: Thực trạng cơ cấu dân số vàng của Việt Nam và những tác động đến phát
triển kinh tế.
Chương III: Giải pháp tận dụng cơ cấu dân số vàng để phát triển kinh tế.
2


Trong quá trình làm bài và hoàn thành bài tiêu luận. chúng em còn có những vấn đề
nội dung chưa thực sự hoàn thiện, chúng em mong cô có những góp ý để bài tiểu luận


của chúng em được hoàn thiện hơn.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CƠ CẤU DÂN SỐ VÀNG
1.1

Khái niệm chung
Cơ cấu dân số:
Cơ cấu dân số là sự phân chia dân số thành các bộ phận theo những tiêu chí nhất

định, độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ, nghiên cứu sinh học
Theo cách xác định trên, cơ cấu dân số nhằm phản ánh các đặc trưng của mỗi người
dân và của toàn bộ dân số. Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về nhân khẩu học,
các đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn phản ánh về mặt
kinh tế. Ngoài ra các đặc trưng khác về giai cấp, thành phần xã hội nhằm phân loại tập
hợp người theo các khía cạnh của đời sống xã hội
Cơ cấu dân số vàng:
Theo định nghĩa của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương, “cơ
cấu dân số vàng” là thời kỳ mà tỉ trọng trẻ em dưới 15 tuổi giảm xuống dưới 30% và tỉ
trọng người già từ 65 tuổi trở lên còn ở mức dưới 15% trong tổng dân số
Còn theo định nghĩa của Liên hợp quốc, dân số của một quốc gia đạt cơ cấu “dân số
vàng” khi tỷ số phụ thuộc chung nhỏ hơn 50%, hay nói cách khác có trên 2 người trong
độ tuổi lao động trên 1 người trong độ tuổi phụ thuộc.
(Tổng tỷ suất phụ thuộc: Là đại lượng được xác định bởi số người trong độ tuổi (014) cộng với số người trong độ tuổi (65+) chia cho số người trong độ tuổi (15-64)
1.2

Tác động của dân số đến phát triển kinh tế ở Việt Nam
Dân số - Lao động - Việc làm phát triển đồng đều, cân bằng, phù hợp phát triển kinh


tế xã hội là lý tưởng.


Kinh tế tăng chậm trong khi dân số tăng còn cao sẽ kìm hãm sự phát triển kinh
tế làm tăng số người thiếu việc làm, thất nghiệp.Gây sức ép lớn đối với giáo dục, y tế, văn
hóa. Các vấn đề giải phóng phụ nữ, việc làm, nhà ở ….không đáp ứng được.
Gia tăng dân số nhanh đã tạo nên sức ép lớn trong việc việc phát triển kinh tế, nâng
cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ tài nguyên, môi trường Chính sách phát triển dân số
phải hợp lí và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Bên cạnh đó, việc làm đang một vần đề
xã hội ở nước ta, hiện nay đang được tập trung giải quyết và bước đầu thu hiệu quả
tốt. Nền kinh tế tăng trưởng cao có tác động tích cực đến vấn đề việc làm thông qua sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, sự can
thiệp của nhà nước thông qua các chương trình việc làm, chương trình kinh tế xã hội,
phát triển các làng nghề…
1.2.1 Mối quan hệ giữa dân số và lao động
Dân số và nguồn lao động có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Dân số là cơ
sở tự nhiên hình thành nên nguồn lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong tuổi lao động và có khả năng lao động - bộ phận
dân số chủ lực và năng động nhất trong dân số, nó quyết định và chi phối toàn bộ hoạt
động sản xuất của xã hội.
Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), hiện
nay, Việt Nam còn khoảng 70% lao động chưa được đào tạo nghề. Bên cạnh đó, khoảng
70% dân số Việt Nam sinh sống và làm việc ở nông thôn, trong khi nông dân hiện nay
mới sử dụng 40% thời gian cho sản xuất nông nghiệp, còn lại 60% thời gian là nông
nhàn. Thu nhập thấp, thiếu việc làm, chất lượng sống và chất lượng dân số chưa cao, tốc
độ già hóa nhanh, chi phí an sinh xã hội lớn cũng là những thách thức đặt ra đối với Việt
Nam.
1.2.2 Mối quan hệ giữa dân số và việc làm
Dân số vừa là yếu tố của sản xuất nhưng đồng thời nó còn đóng vai trò như là yếu
tố của tiêu dùng. Là yếu tố của sản xuất, dân số được xem xét như là chủ thể quyết định

quy mô, phân bố cơ cấu và chất lượng nguồn lao động (cung lao động). Là yếu tố của


tiêu dùng, quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số quy định quy mô, cơ cấu chất
lượng và sự phân bố các ngành, nghề các lĩnh vực hoạt động sản xuất của xã hội, chi phối
nội dung, tính chất của việc làm (cầu về lao động) trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.3 Mối quan hệ giữa dân số và an sinh xã hội và y tế
Dân số tăng nhanh hay tốc độ chuyển tiếp dân số nhanh chóng cũng sẽ đặt ra thách
thức cho hệ thống an sinh xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nếu không bắt kịp tốc độ
dân số tăng, thì an sinh xã hội sẽ không đủ để đảm bảo đời sống cho người dân. Điển
hình là với người cao tuổi, trong khi đời sống vật chất của người cao tuổi còn gặp rất
nhiều khó khăn, các vấn đề như trợ cấp nhà nước, lương hưu cho người cao tuổi sẽ không
đáp ứng được nhu cầu thiết yếu. Đối với Việt Nam trong 2016, chỉ có 35,6% người cao
tuổi ở thành phố và 21,9% người cao tuổi ở nông thôn có lương hưu hoặc trợ cấp từ nhà
nước. Có tới 70 - 80% người cao tuổi phải tự kiếm sống hoặc nhờ vào sự nuôi dưỡng và
chăm sóc của con cái.
Và an sinh xã hội luôn đi liên với y tế. Và trong trường hợp này, dân số tăng nhanh,
an sinh xã hội không đảm bảo cũng tác động đến vấn đề y tế nói chung, khiến chất lượng
trong khám chữa bệnh không thể đạt mức tối đa do các vấn đề về tiền phí, bảo hiểm y
tế… Cũng theo số liệu về an sinh xã hội Việt Nam 2016, người cao tuổi ở Việt Nam sống
già nhưng không khỏe, bình quân một người cao tuổi có 2, 3 bệnh mãn tính. Theo kết quả
Điều tra Quốc gia về người cao tuổi Việt Nam, chỉ có 4,8% người cao tuổi có sức khỏe
tốt, 26,1% người cao tuổi không có bất cứ loại bảo hiểm y tế nào, trên 51% người cao
tuổi không đủ tiền chi trả cho việc điều trị, dẫn đến không điều trị. Hệ thống dịch vụ
chăm sóc người cao tuổi còn rất thiếu trong khi nhu cầu điều trị của người cao tuổi ngày
càng tăng; cơ cấu tổ chức và năng lực chăm sóc người cao tuổi chưa đáp ứng yêu cầu;
chưa có chính sách tốt trong khám và chăm sóc người cao tuổi tại nhà...


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CẤU DÂN SỐ VÀNG CỦA VIỆT NAM

VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
2.1

Thực trạng cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam

Hình 2.1: Dân số Việt Nam qua các năm từ 1950 - 2017
(Nguồn: Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình (www.gopfp.gov.vn))

Quy mô dân số nước ta từ 25 triệu người năm 1950 đã lên 90 triệu người năm 2013,
và ở theo thống kế mới nhất năm 2017 nước ta đã đạt 95.991.472 người, đứng thứ 14 trên
thế giới. Nhờ thành công của chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình từ hàng thập kỷ
trước, Việt Nam đang có cơ cấu dân số vàng, chính thức bước vào giai đoạn dân số vàng
từ năm 2007 với hơn 62 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 68,5% dân số. Số
người bước vào tuổi lao động gấp 5,71 lần số người bước ra (nếu so với tuổi 65) và gấp
3,46 lần số người bước ra (so với tuổi 60).
Xét theo cơ cấu dân số theo nhóm tuổi:


Hình 2.2: Tháp dân số năm 1999, 2009 và 2014
(Nguồn: Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc 2016)

Tháp dân số phản ánh sự biến động trong cơ cấu tuổi - giới tính cho thấy Việt Nam
đã trải qua nhiều giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học trong ba thập kỷ qua. Trong khi
tháp dân số năm 1999 đặc trưng cho sự chuyển đổi nhân khẩu học từ mức sinh và mức
chết cao giảm nhanh xuống mức sinh và mức chết thấp, thì tháp dân số năm 2009 đặc
trưng cho dân số ở giai đoạn cuối của quá độ dân số với mức sinh và mức chết thấp và
đang ở giai đoạn đầu của già hóa dân số. Hậu quả của chiến tranh tới thay đổi cơ cấu tuổi
của dân số trở nên mờ nhạt hơn, và chỉ còn nhận thấy ở nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên.
Mức sinh và mức chết đã ổn định ở mức thấp trong thập kỷ qua. Tháp dân số năm 2014
phản ánh sự già hóa dân số ở Việt Nam.


Bảng 2.1: Tỷ trọng dân số theo độ tuổi ở Việt Nam


198

199

200

201

9
9
9
0
Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi
39,2 33,1 24,5 24,7
Tỷ trọng dân số từ 15-64 tuổi
56,1 61,1 69,1 68,5
Tỷ trọng dân số từ 60 tuổi trở
7,1
8,0
8,7
9,4
lên
Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở
lên
Chỉ số già hoá


2011 201

201

201

2
3
4
24,0 23,9 24,2 23,5
69,0 69,0 68,5 69,4
9,9 10,2 10,5 10,2

4,7

5,8

6,4

6,8

7,0

7,1

7,2

7,1

18,2


24,3

35,5

37,9

41,1

42,7

43,5

43,3

(Nguồn: Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình (www.gopfp.gov.vn))

Cơ cấu dân số theo tuổi là sự phân chia tổng số dân theo từng độ tuổi hay nhóm
tuổi. Từ bảng trên có thể thấy có sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu dân số theo độ tuổi ở
nước ta trước và sau thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi năm 2009 so
với 1999 đã giảm 8,6% còn 24,5% (dưới 30%). Tỉ lệ này tuy có biến động nhưng vẫn
được duy trì ở mức dưới 30% từ 2009 đến 2014 (23,5%). Ngược lại nhóm tuổi lao động
(15-64 tuổi) và ngoài lao động (từ 65 tuổi trở lên) đều có sự gia tăng. Trong đó, nhóm 1564 tuổi tăng 8% trong 10 năm, nhóm từ 65 tuổi trở lên tăng lên 6.4% vào 2009 (dưới
15%). Quy mô dân số độ tuổi lao động tăng thêm 16,1 triệu, từ 46,7 triệu vào năm 1999
lên đến 62,8 triệu năm 2014 đã tạo ra một lực lượng lao động tiềm năng để phát triển
kinh tế đất nước. Như vậy theo định nghĩa của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở
Trung ương thì suốt giai đoạn 2009 – 2014, Việt Nam ở trong giai đoạn “cơ cấu dân số
vàng”, nghĩa là số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ thuộc.
Xét theo tỷ lệ phụ thuộc của trẻ em, người già và tỷ lệ phụ thuộc chung:
Bảng 2.2: Tỷ trọng dân số theo độ tuổi ở Việt Nam

198
Tý lệ phụ thuộc trẻ em (0–14 tuổi)
Tỷ lệ phụ thuộc người già (65+)
Tý lệ phụ thuộc chung

199

200

201

9
9
9
0
69,8 54,2 35,4 36,1
8,4
9,4
9,3
9,9
78,2 63,6 44,7 46,0

2011 2012 201
34,9
10,1
45,0

201

3

4
34,6 35,4 33,8
10,3 10,6 10,2
44,9 46,0 44,0

(Nguồn: Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình (www.gopfp.gov.vn))


Hình 2.3: Tỷ số phụ thuộc và tỷ số già hóa ở Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc 2016)

Xét theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc về “cơ cấu dân số vàng” thì cũng có kết
quả tương tự. Qua bảng có thể thấy Việt Nam năm 2009 đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân
số vàng với tỷ số dân số phụ thuộc ở mức dưới 50%.
Cụ thể tỉ số dân số phụ thuộc đã giảm mạnh từ 63,6% năm 1999 xuống còn 44,7%
năm 2009. Trong đó có sự biến đổi ngược chiều giữa tỉ số phụ thuộc trẻ và già: Tỉ số phụ
thuộc trẻ giảm mạnh từ 54,2% năm 1999 xuống còn 35,4% năm 2009 và có chiều hướng
giảm dần các năm sau đó trong khi tỉ số phụ thuộc già tuy có giảm nhẹ từ 9,4% (1999)
xuống 9,3% (2009) nhưng có xu hướng tăng dần giai đoạn 2009 – 2014. Trước thời kì cơ
cấu dân số vàng, 1 người lao động phải lo cho 1 người phụ thuộc nhưng ở thời kỳ “vàng”
hiện nay thì hai người lao động chỉ phải lo cho 1 người phụ thuộc. Tính đến 1/4/2014, 52
trong số 63 tỉnh thành bước vào thời kỳ này, tăng 9 tỉnh so với năm 2009. Nếu có những
chính sách phù hợp để tận dụng cơ hội này, cơ cấu dân số vàng có thể biến thành lợi tức
dân số.


2.2

Dự báo cơ cấu dân số Việt Nam thời gian tới


Hình 2.4: Tháp dân số Việt Nam: Hiện tại và dự báo
(Nguồn: United Nation (2014))

Bảng 2.3: Dự báo biến động dân số Việt Nam theo cơ cấu tuổi 2014 – 2049

Tổng số dân
Dưới 15 tuổi (%)
15 – 64 tuổi (%)
65 tuổi trở lên

Năm 2014
90,5
23,4
69,4
7,1

Năm 2019
94,6
22,7
66,3
11,0

Năm 2049
108,5
17,8
64,0
18,1
(Nguồn: United Nation (2014))

Theo dự báo, dân số trong độ tuổi lao động ở Việt Nam sẽ giảm dần từ 69,4%

(2014) xuống chỉ còn 64,0% vào 2049. Cùng trong khoảng thời gian đó, tỷ lệ trẻ em sẽ
giảm từ 23,4% (2014) xuống 17,8% (2049), ngược lại tỷ lệ dân số cao tuổi sẽ bắt đầu
tăng mạnh từ 2019 và đạt mức 18,1% dân số vào 2049.
Theo một dự báo khác của United Nation năm 2007, tỷ số phụ thuộc chung sẽ ở
mức dưới 50% từ năm 2009 và kéo dài cho đến khoảng năm 2039. Giai đoạn này đặc
trưng bởi tỷ số phụ thuộc chung giảm xuống là do mức giảm của tỷ số phụ thuộc trẻ em
lớn hơn mức tăng tỷ số phụ thuộc người già. Nói cách khác, dân số Việt Nam đạt cơ cấu


“vàng” trong giai đoạn 2009-2039 (30 năm) với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt ở
mức cao nhất khoảng 65% tổng dân số trong giai đoạn 2015-2025. Cơ cấu “vàng” sẽ kết
thúc từ năm 2040 khi tỷ số phụ thuộc chung tăng lên, cao hơn 50% và bị chi phối chủ yếu
do tỷ số phụ thuộc người già tăng nhanh.

Hình 2.5: Dự báo tỉ số phụ thuộc dân số Việt Nam đến 2050
(Nguồn: United Nation)

2.3

Những tác động của Cơ cấu dân số vàng đến kinh tế Việt Nam trong thời gian
qua
Việt Nam đã chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ năm 2007, với lực

lượng lao động trẻ dồi dào. Nếu lực lượng này được tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động
thì sẽ tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ, tạo ra giá trị tích lũy lớn cho tương lai,
đảm bảo an sinh xã hội khi đất nước bước vào giai đoạn “dân số già”.


Cơ cấu “dân số vàng” tạo ra nhiều thuận lợi, thế mạnh cho Việt Nam với lực lượng
lao động trẻ, dồi dào. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa tiến hành điều tra

dân số và nhà ở giữa kỳ. Kết quả cho thấy, nhóm dân số trong độ tuổi lao động khá đông,
trong số 100 dân thì có 56 người trong độ tuổi lao động, số người trong độ tuổi phụ thuộc
(trẻ em chưa đủ 14 tuổi và người già từ 65 tuổi trở lên) là 44 người. Trước đây, một người
trong độ tuổi lao động phải lo cho một người phụ thuộc (trẻ em dưới 15 tuổi và người
trên 60 tuổi), “thời kỳ vàng” hiện nay thì hai người lao động chỉ phải lo cho một người
phụ thuộc. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, đây được xem như một lợi thế cho
phát triển kinh tế đất nước nếu năng suất lao động của nhóm dân số trong độ tuổi lao
động tăng lên.
Qua số liệu thống kê bởi WDI (World Development Indicators) cho thấy, tỉ lệ tăng
trưởng GDP của nước ta liên tục tăng từ năm 2012 đến 2015, từ 5,24% đến 6,68%. Đồng
thời, nhờ vào nguồn nhân lực trẻ của thời kì Dân số vàng và giá thành lao động tương đối
rẻ, Việt Nam ngày càng thu hút được nguồn vốn trực tiếp từ nước ngoài, được thể hiện
qua chỉ số FDI tăng mạnh từ năm 2013 (8900 triệu đô la Mỹ), lên tới 14100 triệu đô la
Mỹ trong năm 2017. Năng suất tăng, tỉ lệ người lao động tăng giúp cho tỉ lệ tích lũy trong
nước lớn hơn, trong 2 năm 2010 và 2014 tăng hơn 17484 triệu đô la Mỹ, một con số đáng
kể với nền kinh tế Việt Nam, nhờ đó các lĩnh vực như xã hội, giáo dục được cải thiện.
Dân số trong độ tuổi lao động lớn, cùng với sự phát triển của khu vực công nghiệp
và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về đào tạo nghề, việc làm. Về phát triển thị trường lao động:
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, theo kết quả sơ bộ điều tra thực trạng việc làm và
thất nghiệp năm 2007, lực lượng lao động cả nước là 46,61 triệu người (chiếm 54,8% dân
số cả nước), tăng 2,27% so với năm 2006, lao động nữ chiếm 49%. Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động đạt khoảng 70%, trong đó nữ là 66,5%. Nhìn chung, lao động Việt Nam
vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 74,57%), làm việc trong khu vực nông
nghiệp nên việc chuyển dịch cơ cấu lao động nói chung, cơ cấu lao động ở nông thôn nói
riêng theo hướng công nghiệp hoá thực sự là một thách thức lớn, đặc biệt là trong bối
cảnh hội nhập. Cả nước hiện có gần 45,6 triệu lao động có việc làm, tăng 2,31% so với
năm 2006; cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ lệ lao động


làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp và tăng trong khu vực công nghiệp, xây

dựng và thương mại dịch vụ. Lực lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn
lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm bảo việc làm và cải thiện
được năng suất lao động.
Bảng 2.4: Hệ số co giãn tỉ lệ thất nghiệp từ 2001 - 2014
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014

Tỉ lệ thất nghiệp (%)
6,28
6,01
5,78
5,6
4,3
4,82
4,64
4,65
4,66

2,88
2,27
1,99
2,2
2,08
(Nguồn: Tự tính toán dựa trên các số liệu của Tổng cục Thống kê qua các năm)

Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh còn giúp cho thị trường tiêu thụ được mở
rộng. Bởi dân số trong thời kỳ này vừa là lực lượng sản xuất chủ lực vừa là lực lượng tiêu
dùng chính. Nhiều nghiên cứu trong những năm gần đây đã chứng minh, chi phí tiêu
dùng tăng nhanh theo tuổi và đạt mức lớn nhất trong nhóm tuổi từ 25-29 và duy trì ở mức
cao cho đến 45 tuổi thì giảm gần tới mức trung bình. Theo WDI, chi phí tiêu dùng cuối
cùng của Việt Nam tăng liên tục từ năm 2010 (khoảng 84113 triệu USD), đến 2017 đã lên
tới 129724 triệu USD, thể hiện sự mở rộng lớn trong thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên, kết quả của nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng “cơ hội dân số” và
“lợi tức dân số” không tự động, không tất yếu đem lại tác động tích cực, mà nó phải được
giành lấy bằng các hành động chính sách, chiến lược cụ thể trong điều kiện cụ thể của
từng nước. Không có môi trường chính sách phù hợp và ổn định thì ngay cả trong điều
kiện tốt nhất, đất nước sẽ bỏ lỡ cơ hội tăng trưởng cao trong dài hạn khi cơ hội dân số bắt


đầu. Trong điều kiện kém thì kinh tế có thể trì trệ, chính trị, xã hội bất ổn bởi quá tải dân
số dẫn đến nạn thất nghiệp tràn lan và an sinh xã hội kiệt quệ. Nếu cơ hội dân số, đặc biệt
là giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, diễn ra trùng với thời kỳ kinh tế ổn định và cất cánh
thì nguồn lao động có sức khỏe và kỹ năng sẽ trở thành động lực mạnh mẽ của nền kinh
tế.
Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cho biết, cơ cấu “dân số vàng” thực sự là
cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản cho thanh niên, vị thành niên,
sử dụng nguồn lao động dồi dào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu “dân số
vàng” tạo cơ hội cho tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục,

việc làm trong tương lai. Điều này được thể hiện rõ qua sự tăng lên đáng kể về chi phí
dành cho giáo dục và y tế từ 2010 đến nay, trong đó giáo dục tăng từ 5020 triệu USD năm
2011 đến 9090 triệu USD năm 2017, và chi phí bình quân mỗi người dành cho y tế tăng
lên khoảng 40 USD từ năm 2010 đến 2017.
Mặt khác, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
thông qua việc giảm tỷ số giữa học sinh và giáo viên, qua đó nâng cao chất lượng chăm
sóc y tế cho trẻ em, cải thiện chất lượng sức khỏe dân số tương lai.
2.4

Những thách thức mà Cơ cấu dân số vàng đặt ra cho Việt Nam trong thời
gian tới
Cơ cấu “dân số vàng” tạo ra nhiều thuận lợi, cơ hội song cũng đặt ra không ít những

khó khăn, thách thức cần phải giải quyết.
Áp lực giải quyết việc làm cho người lao động:
Với dân số ước tính khoảng 94 triệu người vào năm 2018; trong đó lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên là 54,61 triệu người, chiếm 59,5%, Việt Nam vẫn đang trong thời
kỳ dân số vàng với nguồn cung lao động dồi dào và ổn định.
Biểu đồ 2.6 cho thấy dân số từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam vẫn gia tăng (từ Q2/ 2012
đến quý 2/2017 dân số tăng 3,4 triệu người), lực lượng lao động trong giai đoạn này vẫn
tăng trên1,9 triệu người) và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn duy trì ở mức ổn định.


Đơn vị tính: nghìn người

Hình 2.6: Dân số 15 tuổi trở lên và lực lượng lao động Việt Nam
(Q2/2012, Q2/2017)
(Nguồn: Điều tra lao động việc làm, Tổng cục thống kê)

Tốc độ tăng nhanh của dân số trong độ tuổi lao động sẽ là nguồn lực quan trọng cho

phát triển kinh tế nhưng sẽ trở thành gánh nặng nếu quốc gia đó có tỷ lệ thất nghiệp cao
và năng suất lao động thấp.
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy, số người lực lượng lao động đông về số lượng
nhưng chất lượng chưa cao do thiếu lao động có tay nghề cao, sức bền còn hạn chế, kỹ
năng quản lý còn nhiều bất cập. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2009,
chỉ có 13,4% dân số 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật (con số này ở
thành thị là 25,4% và nông thôn là 8%). Trong nhóm dân số từ 25 tuổi trở lên thì chỉ
18,9% đạt được trình độ học vấn bậc trung và chưa đầy 5,5% dân số trong độ tuổi trên
đạt trình độ học vấn bậc cao.
Theo thống kê của Tổng cục dạy nghề (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội),
hiện nay, Việt Nam còn khoảng 70% lao động chưa được đào tạo nghề. Bên cạnh đó,
khoảng 70% sinh sống và làm việc ở nông thôn, trong khi chỉ có 40% thời gian dùng cho
sản xuất nông nghiệp, còn lại là thời gian nông nhàn.


Bảng 2.5: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã
qua đào tạo phân theo một số ngành nghề
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Công nghiệp chế biến, chế tạo
Xây dựng

4,2%
17,7%
14,9%
(Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))

Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ lao động tốt nghiệp đại học, cao đẳng cũng rơi
vào tình trạng thất nghiệp. Những năm gần đây, lao động tốt nghiệp đại học, cao đẳng
còn có tỉ lệ thất nghiệp cao hơn nhóm lao động khác. Nguyên nhân thứ nhất của tình
trạng này là do việc phổ cập đại học không còn là chuyện hiếm. Cử nhân đại học, cao

đẳng tràn lan khiến cho bằng cử nhân không còn quá giá trị như xưa, không tạo ra sự
khác biệt và lợi thế cạnh tranh khi xin việc. Nguyên nhân thứ hai là do một bộ phận cử
nhân đòi hỏi quá cao so với năng lực của mình. Nhiều trường hợp có tâm lý cầm tấm
bằng cử nhân thì phải có vị trí cao, mức lương cao, công việc nhẹ nhàng, nên họ từ chối
nhiều công việc có thể làm ngay để bổ sung kinh nghiệm, kỹ năng. Tiếp đến là việc đào
tạo không sát với thực tế. Nhiều trường đại học, cao đẳng không hướng đến đào tạo
những kỹ năng thực tế được xã hội cần đến, chương trình kiến thức còn quá nặng nề,
nghiêng về lý thuyết, thực hành còn hạn chế. Cuối cùng, thị trường lao động của Việt
Nam đã được hình thành nhưng còn sơ khai, chưa có đủ thể chế để hoạt động hiệu quả.
Bảng 2.6: Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động và tỷ lệ thất nghiệp của
thanh niên (15 - 24 tuổi)
Đơn vị: %

Chỉ tiêu
Thời gian
2015
2016

Q1
Q2
Q3
Q4
Q1
Q2
Q3

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh


tuổi lao động

niên (15 - 24 tuổi)

2,43
2,42
2,35
2,18
2,25
2,29
2,34

6,6
6,68
7,3
7,21
6,63
7,1
7,86


2017
2018

Q4
Q1
Q2
Q3
Q4
Q1


2,31
2,3
2,26
2,23
2,21
2,2

7,28
7,29
7,67
7,8
7,26
7,07

Nguồn: Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam (cập nhật qua các quý)

Hình 2.7: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động phân chia theo
nhóm tuổi năm 2015
(Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))

Phải đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, trình độ của nhà tuyển dụng:
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng
chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2015, số lao động trên 15 tuổi chưa được
đào tạo về chuyên môn kỹ thuật lên tới 80,1%. Tỷ lệ lao động đại học, cao đẳng lần lượt
chỉ là 8,5% và 2,5%. Thậm chí, một bộ phận không nhỏ các cử nhân đại học cũng lâm
vào tình trạng thất nghiệp hoặc làm những công việc không đòi hỏi chuyên môn cao như
một lựa chọn tạm thời.



Bảng 2.7: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua
đào tạo phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật
Dạy nghề
Trung cấp chuyên nghiệp
Cao đẳng
Đại học trở lên

80,1%
5,0%
3,9%
2,5%
8,5%
(Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))

Tuy nhiên, nhìn chung lao động có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng tăng,
giảm tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Cụ thể như sau:

Hình 2.8: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động từ quý 2/2012 đến
quý 2/2017
(Nguồn: Điều tra lao động việc làm, TCTK)

Nguyên nhân chủ yếu là bởi lực lượng lao động không được đào tạo bài bản, không
có nhiều kinh nghiệm trong khi làm việc, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, đa số lao
động trẻ còn thiếu kiến thức chuyên môn cũng như chưa được tiếp cận nhiều với các thiết
bị công nghệ tiên tiến, hiện đại, dẫn đến năng suất lao động rất thấp, không đáp ứng được
yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập. Hơn nữa, số lao động trẻ tăng nhanh nhưng
các chính sách lao động, việc làm và các dịch vụ xã hội liên quan không kịp thay đổi nên
cũng dẫn đến nhiều bất cập.

Nguy cơ già hóa dân số nhanh chóng: Thời kì “dân số vàng” và “già hóa dân số” ở
nước ta diễn ra cùng một thời điểm. Khi đời sống vật chất của người dân được nâng cao


cùng với đó tuổi thọ con người cũng được nâng lên, trong khi tỷ suất sinh tăng thấp, thậm
chí giảm, dẫn đến già hóa dân số là tất yếu.
16000
14000

Nghìn người

12000
10000
8000
6000
4000
2000
0
15-19

20-24

25-29

30-34

35-39

40-44


45-49

50+

Độ tuổi
Năm 2015

Hình 2.9: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm
phân theo nhóm tuổi
Nguồn: Tổng cục thống kê (2015))

Theo dự báo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), dân số Việt Nam đến năm
2040 sẽ đạt khoảng 104 triệu người. Đây là cũng thời điểm Việt Nam kết thúc thời kỳ "cơ
cấu dân số vàng" và dân số bắt đầu già hóa nhanh. Việt Nam là một trong những nước


đông dân, vì vậy nếu dân số tăng cao, đồng thời tỉ lệ người già chiếm tỉ lệ lớn sẽ gây khó
khăn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, để phát huy lợi thế của cơ cấu “dân số vàng” cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp. Đó là, duy trì mức sinh hợp lý nhằm kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”,
làm chậm quá trình “già hóa dân số”; tăng cơ hội việc làm, hướng đến những việc làm
tạo giá trị gia tăng cao dựa trên năng suất lao động, đa dạng hóa ngành nghề ở nông thôn,
các ngành sử dụng nhiều lao động; mở rộng nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu
cầu thị trường lao động. Phát triển thị trường lao động trong giai đoạn đến năm 2020
phải kết hợp giữa chiến lược phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, hướng về xuất
khẩu, phát huy được các lợi thế so sánh và tiềm năng của lực lượng lao động với chiến
lược tập trung vào nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ
yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập. Thúc đẩy thực hiện cơ chế
thương lượng, thỏa thuận về tiền lương nhằm đảm bảo tiền lương thực tế được trả đúng
theo cơ chế thị trường đồng thời phù hợp với sự đóng góp của người lao động vào quá

trình tăng trưởng. Thúc đẩy quá trình tự do lựa chọn việc làm và dịch chuyển lao
động (dịch chuyển dọc theo các cấp trình độ, dịch chuyển ngang giữa các thành phần sở
hữu, khu vực, vùng và quốc tế) đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị
trường lao động (hướng nghiệp, dịch vụ việc làm, thông tin và dự báo thị trường lao
động) và tổ chức cung cấp các dịch vụ công về việc làm có hiệu quả... Đặc biệt, tận dụng
và phát huy lợi thế cơ cấu “dân số vàng” thông qua các chương trình phối hợp liên ngành.


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ CẤU DÂN SỐ VÀNG ĐỂ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
Phân tích từ các dự báo dân số trên thực tế xu hướng biến động dân số Việt Nam
trong thời gian tới thì rõ ràng cơ hội để tận dụng “cơ cấu dân số vàng” của Việt Nam sẽ
đến trong một vài năm nữa. Có cơ cấu “vàng” cũng đồng nghĩa với việc có cơ hội “vàng”
trong việc sử dụng nguồn nhân lực trẻ, dồi dào cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo của
nền kinh tế, đặc biệt là giai đoạn bản lề 2011-2020 thực hiện chiến lược đưa Việt Nam cơ
bản trở thành một quốc gia công nghiệp và xếp vào nhóm các nước có thu nhập trung
bình. Vậy để hiện thực hóa cơ hội này, Việt Nam cần chú trọng vào chiến lược và chính
sách nào? Trong bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam hiện nay và trước cơ hội “vàng”
của dân số, nhóm em cho rằng có bốn nhóm chính sách quan trọng, mang tính chiến lược
cần được thực hiện để hiện thực hóa cơ hội này, đó là (1) chính sách giáo dục và đào tạo
(2) chính sách lao động, việc làm và nguồn nhân lực; (3) chính sách dân số và y tế; và (4)
chính sách an sinh xã hội toàn diện, hướng đến dân số đang già hóa nhanh và già trong
một vài thập kỷ tới.
3.1

Chính sách giáo dục và đào tạo
Một điều hết sức rõ ràng là cơ hội dân số vàng chỉ có thể phát huy sức mạnh khi

Việt Nam thực sự có dân số “vàng” – khỏe về thể chất, tinh thần, mạnh về trí lực. Con

người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội
phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về
thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Để có được điều
này, vai trò ngày càng quan trọng của giáo dục và đào tạo là điều không thể phủ nhận.
Thứ nhất, cần có chiến lược giáo dục, đào tạo có trọng điểm, dựa trên nhu cầu của
thị trường, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động ở khu vực nông thôn và các ngành sản
xuất. Tỷ lệ thất nghiệp tạm thời của sinh viên ra trường khá cao là một câu hỏi lớn cần
được các nhà quản lý giáo dục, đào tạo trả lời đối với việc không tương thích giữa cung
và cầu lao động. Hệ thống đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật cần được cải cách, điều
chỉnh cho phù hợp với nhu cầu về nhân công có chất lượng. Bài học của Hàn Quốc về dư
thừa lao động có trình độ đại học nhưng chất lượng có xu hướng giảm sẽ luôn có giá trị


cho Việt Nam trong việc xác định chiến lược nguồn nhân lực. Một trong những việc cần
làm hiện nay là phải bỏ chỉ tiêu về lượng cho hệ thống giáo dục, đào tạo bởi các chính
sách đó có thể dẫn đến “chỗ thiếu vẫn thiếu, chỗ thừa vẫn thừa”. Vì thế, tạo sự gắn kết
của các chính sách thị trường lao động với các chính sách giáo dục đào tạo phải là ưu tiên
hàng đầu trong hoạch định chiến lược, kế hoạch hiện nay.
Thứ hai, đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, hành vi và kiến thức xã hội trong hệ thống
giáo dục ở các cấp. Sự chú ý đặc biệt cần dành cho giáo dục về giới tính và sức khỏe sinh
sản. Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện bình đẳng giới cũng như
hạn chế các vấn đề xã hội có liên quan đến sinh sản. Nghiên cứu của nhiều nước và các
báo cáo về dân số cho Việt Nam cũng chỉ rõ quan hệ chặt chẽ giữa tỷ lệ sinh – giáo dục –
đói nghèo. Mức độ giáo dục được tăng lên bởi một hệ thống giáo dục có chất lượng sẽ
giúp tăng khả năng tham gia thị trường lao động của nữ giới, giảm tỷ lệ sinh, và giảm xác
suất nghèo.
Thứ ba, chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài
hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư
phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số,

biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ
hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
Thứ tư, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và
trình độ đào tạo.
3.2

Chính sách lao động, việc làm và nguồn nhân lực
Các nghiên cứu về tác động của nguồn lao động đến tăng trưởng kinh tế đã chỉ ra

rằng tốc độ tăng nhanh của dân số trong độ tuổi lao động sẽ là nguồn lực quan trọng cho
phát triển kinh tế nếu một quốc gia biết tăng cơ hội việc làm với tốc độ vừa đủ để duy trì


và cải thiện năng suất lao động. Ngược lại, sự gia tăng bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động lại trở thành gánh nặng khi một nước phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao và năng
suất lao động thấp.
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu về lao động tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2016 – 2017
Năm

2016

2017

Dân số (người)
Trong đó: Nữ (người)

8.441.902

4.400.261

8.561.608
4.524.435

Dân số trong độ tuổi lao động (người)

5.965.753

6.207.115

Lực lượng lao động (người)

4.335.659

4.513.193

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (%)

72,68

72,71

Tổng số lao động có việc làm (người)

4.223.996

4.295.163

Chỉ tiêu


Nguồn: Niên giám Cục Thống Kê TP. HCM năm 2016 và tính toán của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân
lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM

Thứ nhất, đa dạng hóa ngành nghề ở khu vực nông thôn và thúc đẩy chất lượng hoạt
động của các ngành sử dụng nhiều lao động. Hiện nay, nguồn lao động của Việt Nam dồi
dào nhưng năng suất lao động còn thấp. Với cơ cấu lao động trong các ngành nghề hiện
nay, đa dạng hóa ngành nghề ở khu vực nông thôn và thúc đẩy hoạt động của các ngành
sử dụng nhiều lao động (dệt may, giày dép, thủy hải sản…) vẫn phải là bước đi trong
những năm trước mắt. Một điểm nhấn quan trọng của chính sách sử dụng nhiều lao động
là phải thực hiện nâng cao chất lượng. Năng lực cạnh tranh của các ngành này không
phải là sản xuất được bao nhiêu mà là sản xuất hàng có chất lượng như thế nào.
Thứ hai, vì lợi tức dân số sẽ không cao hoặc bằng không khi tỷ lệ dân số hoạt động
kinh tế tăng chậm hoặc bằng tỷ lệ dân số không hoạt động kinh tế nên tăng cơ hội việc
làm là chiến lược quan trọng hàng đầu. Thiếu việc làm hoặc thất nghiệp như hiện nay sẽ
trở thành tai họa cho bộ phận dân số trẻ, có thể dẫn đến vòng luẩn quẩn của đói nghèo,
bạo lực, nghiện hút…, đặc biệt nó có thể kéo nữ thanh niên vào con đường mại dâm.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được rằng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phi nông


nghiệp ở các vùng nông thôn bằng việc tổ chức hoạt động sản xuất theo cụm công nghiệp
sẽ tạo được nhiều việc làm, cải thiện thu nhập, tăng cường chuyển giao công nghệ và
cách thức quản lý doanh nghiệp cho lao động ở khu vực nông thôn, từ đó góp phần giảm
tải dân số và giảm sức ép việc làm ở các khu vực đô thị.
Thứ ba, gắn liền với chiến lược tạo việc làm ở trên là vấn đề bình đẳng giới trong
việc làm. Tạo điều kiện và đảm bảo cho nữ giới tham gia thị trường lao động sẽ góp phần
cải thiện vị trí xã hội của họ trong gia đình và cộng đồng, cải thiện sức khỏe, tinh thần và
những nhân tố này giúp họ có sức khỏe sinh sản tốt hơn và có quyết định đúng hơn về
sinh sản.
Thứ tư, để tăng trưởng cao và phát triển bền vững thì không thể không nói đến

chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam đều
cho rằng họ cần công nhân có trình độ kỹ thuật cao chứ không phải máy móc tối tân bởi
vì công nhân trình độ kỹ thuật cao vận hành máy móc cũ còn hiệu quả hơn công nhân
không có tay nghề vận hành máy móc tối tân. Và hiện nay Việt Nam đang ở thế bất lợi so
với các nước trong khu vực trong việc đáp ứng nhu cầu nhân công có khả năng quản lý
hoặc tay nghề cao trong một số ngành sản xuất. Vì vậy cần tăng cường công tác quản lý
nhà nước về thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh sự liên kết, hợp tác đồng bộ
các hoạt động hướng nghiệp, tuyển sinh, đào tạo, thực hành gắn kết nhu cầu sử dụng lao
động. Định hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đối với hoạt động của các
trường đào tạo, dạy nghề và nhận thức tự học tập, rèn luyện nghề của học sinh người lao
động phù hợp phát triển thị trường lao động theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nghề nghiệp.
Thứ năm, xuất khẩu lao động là một chính sách tạo việc làm, thu nhập hiệu quả cho
một lực lượng lao động lớn. Một điểm cần nhấn mạnh ở đây là chúng ta xuất khẩu lao
động được đào tạo tay nghề chứ không phải lao động chân tay. Tất nhiên, đi kèm với
chính sách này là cả một hệ thống chính sách có liên quan như đào tạo nghề, bảo hiểm xã
hội…


Thứ sáu, đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động bằng việc thông
qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo, đài và tổ chức các
hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực tiếp giữa người lao động
và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao động theo đúng pháp luật. Xây dựng
và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các
vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung, cả xuất
khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm được thuận lợi nhất.
3.3

Chính sách dân số và y tế
Chính sách dân số cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, bổ trợ cho các chính sách


khác trong cơ cấu dân số vàng. Theo quan điểm của nhóm, chính sách dân số trong thời
gian tới cần tập trung vào một số định hướng sau.
Thứ nhất, chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với chính sách kế hoạch hóa gia
đình cần phải được kết hợp một cách phù hợp với điều kiện của từng vùng, thậm chí từng
tỉnh, huyện. Theo dự báo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), dân số Việt Nam đến
năm 2040 sẽ đạt khoảng 104 triệu người. Đây là cũng thời điểm Việt Nam kết thúc thời
kỳ "cơ cấu dân số vàng" và dân số bắt đầu già hóa nhanh. Việt Nam là một trong những
nước đông dân, vì vậy nếu dân số tăng cao, đồng thời tỉ lệ người già chiếm tỉ lệ lớn sẽ
gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta cần duy trì mức sinh hợp lý nhằm
kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”, làm chậm quá trình “già hóa dân số”. Xã phường
cần đẩy mạnh tuyên truyền các chương trình kế hoạch hóa gia đình, thúc đẩy giá trị gia
đình ít con và giáo dục con cái có chất lượng để giảm thiểu chi phí cơ hội từ việc chăm
sóc nhiều con cũng như tăng cơ hội cho phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội.
Bên cạnh đó, ngoài định hướng chính sách cho từng vùng thì các chương trình dân số cần
hướng cụ thể đến các nhóm dân số nghèo hoặc thiệt thòi bởi họ không có hoặc rất ít khả
năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ của các chính sách này.
Thứ hai, chính phủ và địa phương cần đầu tư mạnh mẽ hơn vào các chương trình
chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cả về cân
nặng và chiều cao. Theo kết quả khảo sát của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2014, tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam trong ba thập kỷ qua đã được cải thiện đáng kể.


×