Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Du ký về vùng tây bắc việt nam nửa đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

NGUYỄN THỊ LAN

DU KÝ VỀ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

NGUYỄN THỊ LAN

DU KÝ VỀ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU SƠN


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài Luận văn: “Du ký về vùng Tây Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu, kết
quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lan

Xác nhận của Khoa Ngữ văn

Xác nhận của người hướng dẫn

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn
là PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn - người đã tận tình hướng dẫn, động viên, tạo

điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ Văn, đặc
biệt là các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khoá 24, chuyên ngành Văn học Việt
Nam, các cán bộ khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã
dạy dỗ, tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, ngày 14 tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lan

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8
4.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 8
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Đóng góp của Luận văn ................................................................................. 10
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10

Chương 1. THỂ TÀI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN THỂ TÀI DU KÝ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX ..................................................................................................... 11
1.1. Khái quát chung về du ký ........................................................................... 11
1.1.1. Một số quan niệm về du ký ..................................................................... 11
1.1.2. Du ký với tư cách là thể tài văn học ........................................................ 13
1.1.3. Thể tài du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX ..................................... 16
1.2. Cơ sở văn hóa, xã hội của sự ra đời và phát triển du ký vùng Tây Bắc
nửa đầu thế kỷ XX ............................................................................................. 19
1.2.1. Văn hóa, xã hội và con người vùng Tây Bắc .......................................... 19
1.2.2. Ý thức sáng tác của nhà văn và nhu cầu thưởng thức của độc giả .......... 22
1.2.3. Tác giả, tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX ............... 25
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 26

iii


Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA THỂ TÀI DU KÝ VỀ VÙNG
TÂY BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ......................................... 27
2.1. Vùng Tây Bắc Việt Nam với tư cách là một đối tượng phản ánh của du
ký nửa đầu thế kỷ XX ........................................................................................ 27
2.2. Những “điều trông thấy” từ các chuyến viễn du ........................................ 29
2.2.1. Cảnh sắc thiên nhiên vùng Tây Bắc ........................................................ 30
2.2.2. Văn hóa, phong tục tập quán ................................................................... 35
2.3. Trải nghiệm từ những “điều trông thấy” .................................................... 45
2.3.1. Cảm nhận về “những cái khác” ............................................................... 45
2.3.2. Sự chuyển mình của Tây Bắc .................................................................. 50
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 55
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ VỀ VÙNG TÂY
BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX .................................................. 56

3.1. Vai trò của người kể chuyện trong du ký viết về vùng Tây Bắc ................ 56
3.1.1. Điểm nhìn đa diện đối với hiện thực ....................................................... 56
3.1.2. Sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật .................................................. 59
3.2. Sự dung hợp các phong cách thể loại ......................................................... 66
3.2.1. Sử dụng yếu tố chính luận ....................................................................... 67
3.2.2. Giao thoa giữa các thể loại ...................................................................... 72
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 78
KẾT LUẬN....................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 82

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam chuyển mình sang hướng hiện
đại hóa trên cơ sở chịu ảnh hưởng và tiếp thu văn học phương Tây, thì cùng với
thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch… các tác phẩm tùy bút, du ký
cũng rất phát triển. Sự hiện diện của thể tài du ký xét cả về số lượng và chất
lượng đã cùng với những thể loại khác làm nên diện mạo và thành tựu của nền
văn học trong buổi đầu canh tân - nửa đầu thế kỷ XX. Bản thân hai chữ du ký
đã có một nội hàm rất rộng, nhưng tựu trung lại: Du ký là loại ký có cốt truyện
ghi chép về vẻ kỳ thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời; những cảm nhận,
suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn. Du ký phản ánh,
truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân
người đi du lịch về những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, nơi mọi
người ít có dịp đi đến, chứng kiến. Hình thức du ký bao gồm các ghi chép, ký
sự, hồi ký, thư tín... Tác giả của du ký thường bộc lộ niềm say mê khát khao
tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ; đồng thời tác giả cũng cung cấp một
lượng thông tin phong phú từ nhiều lĩnh vực của đời sống, ở nhiều vùng đất xa

gần khác nhau khiến cho mỗi tác phẩm hiện lên sống động như một bộ phim tư
liệu được dàn dựng hết sức công phu.
1.2. Qua quá trình phát triển và hình thành thể loại, du ký Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX được biết đến với nhiều tác giả, tác phẩm đăng trên các báo và
tạp chí đương thời. Thể loại này đã thu hút nhiều nhà báo, nhà văn, học sinh, du
khách bởi sự mới mẻ và hấp dẫn của nó. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế đã tạo
nên những cơ hội và cũng là thách thức cho sự phát triển du lịch Việt Nam, do
đó mỗi một trang du ký viết về các vùng của đất nước, trong đó có du ký viết
về vùng Tây Bắc sẽ luôn là đề tài đầy cảm hứng cho mỗi tác giả. Từ một số đề
tài đã nghiên cứu về các vùng trên đất nước như du ký vùng Đông Bắc, vùng
Đông Nam bộ, vùng Tây Nam bộ… cho thấy du ký viết về các vùng này không
1


chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn có giá trị trên nhiều phương diện khác như
khảo sát địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán, góp phần giúp độc giả và
khách du lịch có được cái nhìn rõ hơn về hiện trạng cảnh quan, đời sống người
dân nơi đây. Đối với du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX, tuy đã có một số
tác giả tìm hiểu nhưng chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào phân
tích để phát hiện ra những đóng góp cả về nội dung lẫn nghệ thuật của du ký
Tây Bắc, chưa đem đến cho độc giả cái nhìn toàn cảnh về thiên nhiên, con
người, về chiều sâu nền văn hóa vùng cao Tây Bắc…
1.3. Với mong muốn từ những tìm hiểu về du ký vùng Tây Bắc (bao gồm
6 tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái), vùng đất
được coi là “miền đất của những núi cao và cao nguyên”, người viết chọn đề tài
Du ký về vùng Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX để phân tích và nghiên
cứu. Hy vọng đề tài này sẽ góp phần giới thiệu toàn cảnh và chiều sâu nền văn
hóa vùng cao Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Du ký được coi là thể loại tiên phong, mở đường cho tiến trình hiện đại

hóa nền văn học dân tộc, vì nó đã khơi nguồn và đem đến cho công chúng một
nhu cầu mới, đó là nhu cầu thưởng thức các tác phẩm văn học. Ở nửa đầu thế kỉ
XX, khi du ký bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở nước ta, vấn đề thể loại của du ký
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX –
những vấn đề lịch sử và lí luận do Phan Cự Đệ chủ biên, với quan niệm du ký
như là một thể của kí, khi nói về du ký Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, tác giả
nhận định: “Một số tác phẩm đã ghi lại được những tư tưởng và cảm xúc của
tác giả trước thiên nhiên, đất nước và vấn đề xã hội đương thời. Bên cạnh các
tác phẩm mang hơi hướng tùy bút, đậm chất trữ tình (các tác phẩm của Tương
Phố, Đông Hồ) là các tác phẩm nặng về chất khảo cứu, biên khảo, ghi chép
phong tục (các tác phẩm của Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác)” [11, tr.377].
Các nhà nghiên cứu này đã chưa thấy hết lịch sử và qui mô của du ký Việt Nam

2


nửa đầu thế kỉ XX, đó là du ký không phải dừng lại ở giai đoạn 1900 - 1930 mà
vẫn tiếp diễn trong cả giai đoạn sau đó (1930 - 1945), nhiều về số lượng tác
phẩm, đa dạng về nội dung và phong cách.
Khi bàn về vị trí của thể loại du ký trong quá trình hiện đại hóa văn học,
trong cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945 nhà nghiên
cứu Mã Giang Lân cho rằng: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc
ngữ phải kể đến du ký. Đây là một hình thức bút kí văn học được ghi lại
bằng văn xuôi, thuật lại những chuyến đi của tác giả đến những vùng đất
khác nhau. Nguồn gốc của du ký cần tìm trong những hình thức tùy bút, kí
sự truyền thống” [30, tr.44].
Trong cuốn Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối
thế kỉ XX, ở phần "Văn chương hiện kim", mục "Những bước đầu của tiểu
thuyết", Bùi Đức Tịnh vừa mang tính kế thừa vừa đưa ra quan điểm mới, coi
Du ký như những thiên kí sự kể những chuyện của chính tác giả "Được xem

như là một loại tiểu thuyết, chỉ tô điểm thêm đôi chút những sự thật mà tác
giả đã chứng kiến" [79, tr.363].
Ở cuốn giáo trình Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, Du ký được
xem là một thể loại đứng độc lập cùng với các thể loại khác (như ký sự, phóng sự,
nhật ký, hồi ký, bút ký, tùy bút, tản văn) và đã đưa ra khái niệm mang tính mô tả
"là thể loại ghi chép về vẻ kì thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm
nhận suy tưởng của con người về những chuyến du ngoạn, du lịch..." [12, tr.382].
Khái niệm của Hà Minh Đức đưa ra giống với định nghĩa trong Từ điển
thuật ngữ văn học, do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng
chủ biên) coi “Du ký là thể loại văn học thuộc loại hình kí, biểu hiện với sự
đa dạng về hình thức miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc
mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến. Trong
cuốn từ điển này, còn nêu lên các dạng: dạng đặc biệt của du ký là phát huy
tính chất ghi chép... về các xứ sở tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay

3


viễn tưởng khoa học; dạng ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh
lam thắng cảnh của đất nước” [14, tr.75].
Báo Văn hóa và thể thao, ra ngày 27-4-2007 có bài viết Du ký như một thể
tài của tác giả Linh Lê. Trong đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn khi trả lời
phỏng vấn của tác giả Linh Lê, đã khẳng định:“Du ký cần quan niệm như là một
thể tài. Thể tài du ký cần phải hiểu là nhấn về phía đề tài, nội dung và cảm hứng
nghệ thuật của người viết chứ không phải phía thể loại” [32, tr.75].
Bên cạnh quan điểm tiếp cận du ký trên phương diện thể tài còn có một số
cách tiếp cận khác trong nghiên cứu du ký Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ở Luận án
của Nguyễn Hữu Lễ (2015) là công trình mới nhất được triển khai theo quan
niệm: “Đã đến lúc du ký cần được làm sáng tỏ về mặt thể loại” [35, tr.16]. Tác
giả cho rằng đây là xu hướng nghiên cứu phù hợp trong tình hình hiện nay, một

khi du ký được định danh rõ ràng thì những “vấn đề về đặc điểm và cách tiếp
cận nghiên cứu trong du ký còn bị cản trở bởi sự giao thoa và các lằn ranh thể
loại cùng với quan niệm mơ hồ về du ký” [35, tr.7]. Hoặc tiếp cận trên phương
diện văn hóa, trong bài Giá trị văn hóa và văn học của du ký (khảo sát qua
sách Du ký Việt Nam), Nguyễn Thúy Hằng đã tập trung khảo sát các tác phẩm
trong bộ Du ký Việt Nam trên tạp chí Nam Phong ở ba phương diện: tác giả,
bối cảnh văn hóa - xã hội và thể tài để tìm ra những giá trị văn hóa và văn học
của du ký [16]. Dựa trên quan điểm coi du ký là tiểu loại của kí, tác giả đã phân
tích ngôn từ khoa học và ngôn từ nghệ thuật trong các tác phẩm du ký viết bằng
chữ Quốc ngữ ở cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, sau đó, đưa ra những nhận
định về các đặc điểm ngôn từ du ký giai đoạn này gồm ba vấn đề: hệ thống từ
Hán Việt và lối biểu đạt biền văn, hệ thống từ cổ và phong cách diễn đạt cũ kĩ,
lạc hậu, hệ thống từ ngữ và lối diễn đạt khúc chiết du nhập từ phương Tây. Từ
phương diện nội dung, Nguyễn Hữu Sơn đưa ra một số loại du ký như du ký
viễn du, là những chuyến du hành đến với các nước khác như du ký của người
Việt Nam viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt - Pháp giai đoạn cuối thế kỷ

4


XIX - nửa đầu thế kỷ XX (Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3
“Việt Nam hội nhập quốc tế và phát triển” do Đại học Quốc gia Hà Nội và
Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, 2008); hay du ký hướng tới khảo sát,
giới thiệu cả một vùng văn hoá rộng lớn như du ký của người Việt viết về các
nước và những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai
đoạn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX (sách Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so
sánh của Đoàn Lê Giang)… trên phương diện thể tài ông có hàng loạt bài viết
lớn nhỏ thể hiện cái nhìn từ bao quát đến cụ thể về du ký như Thể tài du ký trên
tạp chí Nam Phong (1917 -1934) (tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4, 2007), Du
ký viết về Sài Gòn - Gia Định nửa đầu thế kỷ XX từ điểm nhìn những năm đầu

thế kỷ XXI (tạp chí Khoa học xã hội, số 11, 2008), Thể tài văn xuôi chữ Hán thế
kỷ XVIII - XIX và những đường biên thể loại (Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 5, 2012)… và để giúp cho bạn đọc, giới nghiên cứu đến gần hơn với
du ký, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, tuyển chọn ra mắt bộ sách có giá trị, đó là bộ
sách Du ký Việt Nam - tạp chí Nam Phong 1917 – 1934, gồm 3 tập với hơn
2000 trang du ký.
Cho đến nay, du ký bắt đầu được nhìn nhận như một đối tượng nghiên
cứu riêng biệt, phần nào tách mình ra khỏi địa hạt của những công trình về ký
và được chú ý hơn trên nhiều phương diện khác nhau. Xem du ký là một thể
tài không phải là duy nhất nhưng vẫn là quan điểm đóng vai trò chủ chốt,
chiếm đa số và có nhiều thành tựu hơn cả trong các nghiên cứu về du ký của
văn giới. Trong nền văn học Việt Nam cũng như các tạp chí cùng thời đã xuất
hiện các thành tựu đáng trân trọng, lưu giữ của du ký các vùng miền trên đất
nước Việt Nam, tiêu biểu như Nguyễn Đăng Hai tìm hiểu về Thiên nhiên và
con người đồng bằng sông Cửu Long qua một số tác phẩm du ký tiêu biểu giai
đoạn 1900 - 1945 (Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, số 6, 2012) qua các
tác phẩm Cảnh vật Hà Tiên, Thăm đảo Phú Quốc, Tôi ăn tết ở Côn Lôn.
Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu về các cùng địa lý - văn hóa với các địa danh, các

5


vùng của đất nước như Thể tài du ký về Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Văn nghệ
quân đội, số 10, 2000), Phác thảo du ký Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám
(Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du ký Ninh Bình nửa đầu thế
kỷ XX (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004)… Qua các bài viết, Nguyễn
Hữu Sơn giúp người đọc thấy rõ hơn bức tranh đa dạng về du ký Việt Nam từ
các tác phẩm trung đại cho tới các du ký nửa đầu thế kỷ XX trên Nam Phong
tạp chí và tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo độc đáo, tạo thành bức tranh
đa màu sắc về các vùng ở Việt Nam.

Những nghiên cứu về du ký Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX nói chung chưa
có góc nhìn đầy đủ, toàn diện. Đặc biệt, với tư cách là một đối tượng đề tài
trong hệ thống du ký những sáng tác viết về vùng Tây Bắc đã xuất hiện trong
một số bài viết của các nhà văn, ký giả báo chí khi đến thăm các tỉnh Lào Cai,
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái sau đó đã kể lại, thuật chuyện
lại bằng nhãn quan của mình, như Lan Khai (Một buổi săn đêm. Loa, số 14,
tháng 5- 1934), Nhật Nham Trịnh Như Tấu (Sau tám năm trở lại thăm Laokay,
in hai kỳ trên Tạp chí Tri Tân, số 46 và 47, tháng 5-1942), Ngọc Ước (Miền
thượng du Bắc Kỳ in ba kỳ trên Nam Kỳ tuần báo, số 74, 75, 76-1944), Đi bên
Tàu chơi (Vân Nam - Yunnan-fou), Minh Châu (Lên Sơn La. Tràng An báo, số
419, ra ngày 12-5-1939), Nhị Lang (Tiếng cồng vang chốn rừng xanh. Trung
Bắc Tân văn, số 10, ra ngày 3-5-1940), Nguyễn Đức Thang (Tại rừng Lai Châu
có một thứ cây ban đêm sáng như con đom đóm dùng làm thước, ba toong, cán
bút, đẽo guốc độ vài đêm lại mất sáng. Tràng An báo, số 863, ra ngày 3-101941), Đặng Trọng Khang (Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu. Hà Thành
ngọ báo, số 1961, ra ngày 20-3-1934), Bùi Xuân Học (Cuộc kinh lý của quan
Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu, Hà Thành ngọ báo, số 19151934), Đặng - v - Đàm (Khảo cứu về người Mường, Đông phương, số 211929), Roi-Song (Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng", Hà Thành ngọ báo,
số 2021- 1934), Tam Lang - Việt Dân (Lạc trong giang sơn Đinh, Quách, Hà

6


Thành ngọ báo, từ số 2181 đến 2305, 1934-1935), Nguyễn Tụng (Hai ngày
dưới bóng núi Fan-Si-Pan, Tin mới, số 182, 1940)… Những bài viết này vừa
có ý nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã, ghi chép sinh
động về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, thực trạng đời sống kinh tế - văn
hoá, những bước phát triển đáng lưu ý dưới thời thực dân - phong kiến và vẻ
đẹp của thiên nhiên cũng như cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc
những năm nửa đầu thế kỷ XX. Nguyễn Hữu Sơn từ những nghiên cứu về thể
tài du ký và du ký các vùng miền khác trên đất nước Việt Nam, với ý tưởng sẽ
xây dựng bộ toàn tập “Du ký vùng cao Tây Bắc thế kỉ XX”, gồm những trang

phóng sự - du ký, ghi chép, hồi ức, kỷ niệm in đậm dấu ấn lịch sử một thời
của biết bao những con người đã, đang gắn bó với miền quê non xanh nước
biếc và mong muốn giới thiệu tới nhiều người đọc về tiềm năng du lịch và
toàn cảnh chiều sâu nền văn hóa vùng Tây Bắc. Ý tưởng đó là một gợi ý thú
vị thôi thúc chúng tôi tiến hành đi sâu khảo sát và tìm hiểu Du ký viết về vùng
Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Du ký là thể loại được tiếp nối từ truyền thống, nhưng có những cách tân
mới mẻ về chữ viết, cách hành văn, cách phản ánh những vấn đề thẩm mỹ do
thời đại đặt ra… nên càng tạo sức hấp dẫn, mọi vấn đề của cuộc sống đều có
thể đưa vào du ký. Đó là chiếc cầu nối để đưa văn học lại gần hơn với cuộc
sống. Do vậy, lựa chọn đối tượng là các tác phẩm thuộc thể tài du ký viết về vùng
Tây Bắc trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đề tài đồng thuận quan điểm du ký là
một thể tài văn học của các nhà nghiên cứu, các tác giả đi trước, kết hợp với
việc đi sâu phân tích, làm rõ những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các
tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc. Đây cũng là cơ hội giúp người viết khai thác
thêm về những giá trị và bài học thiết thực mà chúng mang lại trên một phạm vi
rộng lớn hơn văn học, đó là các phương diện: văn hóa, du lịch…Với hàm lượng
kiến thức phong phú, chân thực, du ký Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX sẽ là một
pho tư liệu quý giá, hấp dẫn, góp phần truyền lại niềm cảm hứng sâu đậm cho

7


những sáng tác văn học về sau. Cùng với những công trình nghiên cứu trước
đó, chúng tôi mong muốn đây sẽ mảnh ghép góp phần phục dựng, hoàn thiện
bức tranh du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm thuộc thể tài du ký
viết về vùng Tây Bắc được đăng trên các báo và tạp chí trong giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX: Một buổi săn đêm (Lan Khai); Sau tám năm trở lại thăm

Laokay (Nhật Nham Trịnh Như Tấu), Lên Sơn La (Minh Châu), Tiếng cồng
vang chốn rừng xanh (Nhị Lang), Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu
(Đặng Trọng Khang), Miền thượng du Bắc Kỳ (Ngọc Ước), Hai ngày dưới
chân núi Fan- si- Pan (Nguyễn Tụng), Khảo cứu về người Mường (Đặng- v Đàm), Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng" (Roi-Song), Cuộc kinh lý của
quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu (Bùi Xuân Học) Lạc trong
giang sơn Đinh, Quách (Tam Lang, Việt Dân)…
Phạm vi nghiên cứu lý thuyết của luận văn là những vấn đề về khái niệm,
sự hình thành và phát triển của thể tài du ký; đặc trưng nội dung và nghệ thuật
của các tác phẩm du ký viết về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận văn bao gồm các tác giả và các tác
phẩm du ký viết về vùng Tây Bắc được đăng trên các báo, tạp chí nửa đầu thế
kỷ XX. Bên cạnh đó, luận văn cũng khảo sát một số tác phẩm du ký nằm ở
đường bên, ở những tỉnh lân cận thuộc vùng Đông Bắc để liên hệ và so sánh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Du ký là một thể loại văn học gần gũi với đời sống thực tế bởi phản ánh
một cách trực tiếp các đặc điểm chính trị, văn hóa, lịch sử, tự nhiên, con người
của mỗi vùng miền. Qua luận văn này, người viết mong muốn sẽ phân tích, làm
rõ một số đặc điểm nổi bật của đời sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng Tây
Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

8


Làm rõ những đặc điểm riêng của du ký vùng Tây Bắc với các vùng
khác. Gồm những đặc điểm chung và riêng về nội dung phản ánh và nghệ
thuật sáng tác.
Là một nguồn tư liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến thể tài du ký
cũng như muốn tìm hiểu về đời sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng Tây Bắc
Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX dưới góc nhìn của một thể loại văn học.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Lược thuật các quan niệm đã có về du ký, lựa chọn và xác lập cách hiểu
về thể tài du ký; xác định những cơ sở của sự hình thành và phát triển của thể
tài du ký ở Việt Nam, trên cơ sở đó phác thảo dòng chảy du ký Tây Bắc nửa
đầu thế kỷ XX.
Xác định những đặc điểm cơ bản của các tác phẩm viết về vùng Tây Bắc
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật để
thấy được những đóng góp của nó trong quá trình hiện đại hóa văn học và làm
phong phú diện mạo văn xuôi Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, để đáp ứng yêu
cầu và đạt được mục đích của đề tài đặt ra, trong quá trình triển khai, nghiên
cứu hoàn thành luận văn, chúng tôi vận dụng những phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp sưu tầm, thống kê: tập hợp, tìm kiếm các tác phẩm thuộc
thể tài du ký viết về vùng Tây Bắc đăng tải trên một số báo, tạp chí nửa đầu
thế kỷ XX.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: dựa trên các phương diện, quan
điểm liên quan đến lý thuyết về thể tài du ký; tiến hành phân tích các tác
phẩm cụ thể để tổng hợp, khát quát những đặc điểm của du ký viết về vùng
Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng thể tài du ký qua các thời kỳ;
các tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX viết về các đề tài khác nhau, các tác giả,
9


tác phẩm du ký cùng đề tài về vùng Tây Bắc để so sánh, đối chiếu qua đó thấy
được sự giống và khác nhau, sự tiếp biến, phát triển, làm rõ đặc trưng của đối
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành: Sử dụng thi pháp học, văn hóa học, văn bản
học… để làm sáng rõ các đặc trưng nội dung và nghệ thuật của các du ký viết

về Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
6. Đóng góp của Luận văn
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu và phát huy kết quả nghiên cứu trước đó,
Luận văn thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của mình và nhận thấy có những
đóng góp sau:
Luận văn với đề tài về du ký vùng Tây Bắc - là một trong những công
trình đầu tiên khảo sát, nghiên cứu có hệ thống về thể tài du ký vùng Tây Bắc,
góp phần làm rõ những thành quả mà thể tài đã đạt được, từ đó xác định vị trí
và những đóng góp của chúng.
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu về phương diện nội dung và nghệ
thuật của du ký vùng Tây Bắc qua những tác phẩm tiêu biểu, từ đó phát hiện
được những nét riêng, điểm mới của thể tài.
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề, chúng tôi đồng thời đi vào khảo sát
các tác phẩm, bài viết, ý kiến nhận định về Tây Bắc từ bình diện thể tài du ký,
nhằm góp thêm một góc nhìn mới soi sáng giá trị đa dạng của thể tài này.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn được triển khai theo 3 chương:
Chương 1: Thể tài du ký và cơ sở hình thành, phát triển của thể tài du ký
vùng Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 2: Đặc điểm nội dung của thể tài du ký viết về vùng Tây Bắc Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của du ký viết về vùng Tây Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX.
10


NỘI DUNG
Chương 1
THỂ TÀI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN THỂ TÀI

DU KÝ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Khái quát chung về du ký
1.1.1. Một số quan niệm về du ký
Du ký được coi là thể loại tiên phong, mở đường cho tiến trình hiện đại
hóa nền văn học dân tộc, vì nó đã khơi nguồn và đem đến cho công chúng một
nhu cầu mới, đó là nhu cầu thưởng thức các tác phẩm văn học. Ở những thập
niên đầu của thế kỷ XX, thể loại du ký thực sự phát triển và trở thành dòng
chảy liên tục. Ở Việt Nam thuật ngữ "du ký" xuất hiện lần đầu tiên vào đầu thế
kỉ XIX trong hai tác phẩm Tam Kiều nguyệt dạ du ký (1805) của Ngô Thị
Hoàng, Tam Ngô du ký của Nguyễn Văn Siêu. Mặc dầu vậy, phải đến đầu thế
kỷ XX, khi du ký xuất hiện nhiều trên các tạp chí như Nam Phong, Phụ Nữ Tân
văn,… đặc biệt với sự xuất hiện của những cây bút chuyên viết du ký như
Phạm Quỳnh, vấn đề khái niệm về du ký mới chính thức được đặt ra.
Phạm Quỳnh với tư cách là người viết du ký nhiều nhất trong những năm
đầu thế kỷ XX cho rằng bài văn được gọi là du ký phải gắn liền cuộc đi xa, dài
ngày: "Đi sang Tây, sang Tàu, đi Phú Xuân, đi Đồng Nai, gọi là cuộc "du lịch",
trở về viết bài "du ký", còn do khả; chớ đi tỉnh nọ sang tỉnh kia mà nói "du
lịch" với "du ký" thì tưởng cũng khí quá vậy" [61].
Sau Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan nhân nói về tác phẩm Chuyến đi Bắc
Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký, ông có một lần nữa nhắc đến du
ký: “Tập du ký này viết không có văn chương gì cả, nhưng tỏ ra ông là một
người có con mắt quan sát rất sành, vì cuộc du lịch của ông là cuộc du lịch
lần đầu, ông lại đi rất chóng. Tuy không có văn chương nhưng công nhận
ngòi bút của ông rất linh hoạt” [56, tr.29]. Như vậy Vũ Ngọc Phan có chỉ ra

11


được đặc điểm cơ bản là "bài ghi chép cuộc hành trình" tuy chưa nêu quan
điểm về thể loại của du ký.

Đến năm 1961, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên, chương Truyện ký cho rằng "Thượng kinh kí sự là "một truyện dài Du
ký", tức là “loại Du ký nhằm ghi chép những điều tai nghe mắt thấy, bước chân
từng trải trong những dịp đi xa. Đối với nhà văn ta xưa, mỗi khi đi đâu xa,
hoặc đi công vụ, hoặc chỉ là phiếm du, nếu không có "túi thơ bầu rượu" trên vai
thì cũng có giấy bút tùy thân để dọc đường theo hứng mà kí sự” [48, tr.175]. Theo
quan niệm của tác giả thì tác phẩm ghi chép những điều mắt thấy tai nghe trên một
chặng hành trình, dù là hành trình công cán cũng thuộc về du ký.
Sang đến đầu thế kỷ XXI, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân khẳng định:
“Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ phải kể đến du ký. Đây
là một hình thức bút ký văn học được ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại những
chuyến đi của tác giả đến những vùng đất khác nhau. Nguồn gốc của du ký
cần tìm trong những hình thức tùy bút, ký sự truyền thống” [30]. Là một tiểu
loại của ký, du ký mang những đặc trưng của ký mà trước hết là đặc trưng về
đối tượng phản ánh: người thật, việc thật. Theo các tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học thì du ký gắn
với hoạt động đặc thù là du lịch, thưởng ngoạn, là thể văn đa dạng về hình
thức: ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng… phong phú về nội dung:
thông tin, tri thức, cảm xúc… Nhóm tác giả này đưa ra định nghĩa: “Du ký,
một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân
người đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính
mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít có người biết đến” [14, tr.108].
Nhóm tác giả Trần đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm trong cuốn Lí
luận văn học cũng chú ý đến đối tượng của du ký: “thể loại ghi chép về vẻ kỳ
thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm nhận và suy tưởng của
con người trong những chuyến du ngoạn, du lịch” [73, tr.382]. Những quan

12



niệm về du ký đều chỉ rõ nội dung, đối tượng phản ánh đặc thù của du ký là
cảnh vật, con người, cuộc sống mà nhà văn đã trực tiếp quan sát, trải
nghiệm, cảm nhận qua những chuyến đi, khẳng định tính chất phi hư cấu
trong nội dung phản ánh của du ký.
Chỉ đến khi nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn - người có bề dày về nghiên
cứu du ký vào bậc nhất ở Việt Nam hiện thì vấn đề du ký đã được "duy danh"
và nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi
người viết. Ông nhận định “Một tác phẩm du ký hay không đơn thuần chỉ là
một tác phẩm văn chương mà còn có dung chứa trong đó nhiều yếu tố lịch sử,
địa lý, giáo dục và đôi khi còn phản ánh cả phương diện chính trị xã hội nữa.
Nói cách khác, du ký cùng với bút ký, hồi ký, nhật ký, ký sự, phóng sự, tùy bút…
nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học” [63, tr.5]. Giống như
tùy bút, phóng sự, hồi ký… du ký cũng là một thể tài thuộc thể loại ký. Và hiển
nhiên nó hội tụ đầy đủ những phẩm chất chung của thể loại này.
Như vậy, du ký theo chúng tôi quan niệm là một thể của ký với đặc trưng
là tính chân thực. Đó là những ghi chép của bản thân người viết qua các
chuyến đi về điều tai nghe mắt thấy ở xứ sở xa lạ hay nơi ít người biết đến
hoặc ít có dịp đi đến. Những thắng cảnh, phong vật, dân tình,…được quan sát,
cảm nhận và ký chép theo cuộc hành trình của ký giả. Nét đặc thù của thể tài
du ký là nhận thức của bản thân người viết qua các cuộc viễn du. Cái tôi trong
du ký là cái tôi khám phá, chứng nghiệm, trải nghiệm mang cảm hứng lữ hành
và có thể bộc lộ tình cảm, quan điểm, chính kiến, liên tưởng,…của mình. Về
hình thái, kiểu dạng của sáng tác du ký là đa dạng, không thuần nhất. Về các
yếu tố nghệ thuật, du ký có những đặc điểm riêng trong cái nhìn nghệ thuật,
cấu trúc tác phẩm, ngôn ngữ.
1.1.2. Du ký với tư cách là thể tài văn học
“Thể tài” là những đề tài, phạm vi đời sống được thể hiện bằng những
kiểu, dạng tác phẩm có hình thái giống nhau. Như vậy, “thể tài” là cách phân

13



loại dựa trên nhiều yếu tố như đối tượng phản ánh, phương thức thể hiện, hình
thái tác phẩm,… “Thể tài” mang ý nghĩa nhấn mạnh hơn góc độ đề tài, nội
dung phản ánh, cảm hứng nghệ thuật của người viết với hình thức thể hiện
tương ứng của tác phẩm văn học chứ không phải chỉ nhìn nhận duy nhất ở góc
độ thể loại và cũng có nhiều điểm khác với thể loại.
Du ký là một hình thức bút ký văn học thường được ghi lại bằng văn
xuôi, thuật lại những chuyến đi, ghi lại những cảm xúc, tình cảm và suy ngẫm
của tác giả khi đến những vùng đất khác nhau. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học, các nhà lý luận nhận định: “Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình
ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về
những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những
nơi ít có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự,
nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm
xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến”
[14, tr.108]. Du ký hấp dẫn người đọc bởi nội dung mới và lạ, ở đó câu
chuyện được phát triển theo lộ trình của tác giả. Cảm hứng bao trùm lên toàn
bộ tác phẩm là cảm hứng phiêu lưu, giang hồ. Mỗi cuộc hành trình là một
khám phá đầy bất ngờ, thú vị về phong cảnh thiên nhiên, văn hóa, phong tục
tập quán, tôn giáo… Tác giả của du ký thường bộc lộ niềm say mê khát khao
tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ.
Bản chất du ký là ghi chép về sự đi, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan
xứ lạ, thế nhưng nội hàm của khái niệm này thì lại khá phức tạp. Bằng chứng là
các nhà nghiên cứu không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau về điểm nhìn
nghiên cứu và cách định danh. Những năm 90 của thế kỉ XX, trên thế giới rộ
lên các công trình nghiên cứu và phê bình du ký cùng với sự ra đời của Hiệp
hội du ký Quốc tế (International Society for Travel Writing). Những vấn đề
xung quanh thể tài du ký đã được đưa ra tranh luận. Hiện nay, nhiều học giả
nghiên cứu du ký với tư cách là một bộ phận thuộc loại hình văn học du lịch

và có nhiều quan điểm khác nhau.
14


Ở Việt Nam, du ký đã được các học giả đề cập đến từ lâu. Những năm 60
của thế kỉ XX, các học giả nước ta xem du ký là tiểu loại của ký. Nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến lại định nghĩa: “Ký là một thuật ngữ dùng để gọi tên một thể
loại văn học bao trùm nhiều “thể” hoặc “tiểu loại”: Bút ký, du ký, ký chính
luận, phóng sự, tùy bút, tân văn, tạp văn, tiểu luận” [19, tr.14]. Tuy nhiên, cũng
có sự khác nhau khi đặt du ký vào các cấp độ trong cách phân chia tiểu loại.
Trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, hướng nghiên cứu du ký trên phương diện
thể tài được Nguyễn Hữu Sơn đề xướng. Tác giả đưa ra quan điểm: “Khi nói đến
“thể tài du ký” cần được hiểu nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và
cảm hứng nghệ thuật của người viết, chứ không phải ở phía thể loại. Thu hút
vào địa hạt du ký có các sáng tác bằng thơ, phú, tụng và các bài văn xuôi theo
phong cách ký, ký sự, ghi chép, hồi ức về các chuyến đi, cá điểm du lịch, các
điểm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, thậm chí có thể liên quan tới nhiều
phương diện của xã hội học, dân tộc học khác nữa” [63, tr.22].
Bản thân hai chữ du ký đã có một nội hàm rất rộng. Trên Nam Phong tạp
chí, người đọc thấy có những bài du ký viết về thắng cảnh của một địa
phương mang tính chất địa lý, lịch sử như: Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên
Quang của Nguyễn Văn Bân, loạt bài viết về phong cảnh Hà Tiên của Đông
Hồ, Mộng Tuyết... những bài viết về những chuyến đi vượt ra khỏi biên giới
Việt Nam lúc bấy giờ như Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh ghi
chép những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi Pháp sáu tháng, Hạn mạn
du ký của Nguyễn Bá Trác lấy bối cảnh Thái Lan (Siam), Nhật Bản, Trung
Quốc, Ai Lao hành trình của Trần Quang Huyến thì miêu tả một chặng đường
dài từ Hà Nội lên Hải Phòng, đi tàu thủy vào Sài Gòn, sang Campuchia, lên
Lào... Có những bài du ký chỉ miêu tả một chuyến đi ngắn chừng một ngày,
vài ngày, có những bài du ký dài kỳ, miêu tả những chuyến đi dài từ vài tháng

đến vài năm. Có những bài du ký thuần chất văn học, mang nặng cảm hứng
nghệ sĩ, nhưng cũng có những bài du ký mang dáng dấp của một bài khảo cứu
văn hoá, phong tục tập quán...
15


Nguyễn Hữu Sơn nghiên cứu du ký từ trung đại đến nửa đầu thế kỷ XX,
từ phương diện chủ thể tác giả, đối tượng và phạm vi phản ánh của đối
tượng, không gian, thời gian… ông chia du ký thành các loại: du ký mang
tính chất quan phương, công vụ; du ký viễn du; du ký thiên về khảo cứu
danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan đến một địa điểm cụ
thể; du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu một vùng văn hóa rộng lớn; du ký
mà yếu tố vị nghệ thuật chiếm phần quan trọng…
Đến ngày ngay, tiếp bước những giá trị truyền thống, thể tài du ký được
hồi sinh và trỗi dậy mạnh mẽ, góp thêm một sắc thái mới mẻ và trẻ trung cho
văn học đương đại.
1.1.3. Thể tài du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX
Du ký Việt Nam có mầm mống và xuất hiện trong giai đoạn văn học
trung đại. Tuy nhiên, số lượng sáng tác du ký còn giữ được không nhiều, chủ
yếu tập trung trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.
Trong giai đoạn này, du ký chủ yếu được viết bằng chữ Hán, tác giả thường
là các nhà nho. Một số tác phẩm tiêu biểu như Dục Thúy sơn, Dục thúy sơn
Linh tế tháp kí (Trương Hán Siêu), Quan Lang đạo trung (Phạm Sư Mạnh)
hay Nguyệt tịnh bộ Tiên Du sơn tùng kính (Chu Văn An),... những dòng thơ
mang tính chất của du ký.
Càng về sau, du ký càng độc lập và định hình được rõ ràng thể tài của
mình. Đó là bài ký động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ. Hay là chuyến đi dài
ngày đến hơn nửa năm của danh y Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long
chữa bệnh cho Trịnh Cán với những cuộc du ngoạn trong lúc rảnh rỗi được
chép lại trong Thượng kinh ký sự. Có thể xem Thượng kinh ký sự đã hội tụ

đầy đủ những đặc điểm của du ký, đó là sự ghi chép lại một chuyến đi của
chính bản thân tác giả với những miêu tả, bình luận mang tính chất mắt thấy
tai nghe. Hoặc là một chuyến du ngoạn từ Thăng Long lên núi Sài Sơn vãn
cảnh chùa Phật Tích trong phạm vi ba ngày của Phạm Đình Hổ và bè bạn

16


còn ghi lại trong Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút với rất nhiều cảm
xúc khác nhau. Bên cạnh du ký viết bằng chữ Hán, đã xuất hiện một số tác
phẩm Du ký viết bằng chữ Nôm như: Tây phù nhật kí của Tôn Thọ Tường
(1825 - 1877), Như Tây kí (1864) của Ngụy Khắc Đản (1817 - 1873), Hương
Sơn nhật trình của Chu Mạnh Trinh (1862 - 1905)... Xuất hiện vào cuối thế
kỷ XIX, Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1886) của Trương Vĩnh Ký, tác
phẩm du ký hiếm hoi được viết bằng chữ quốc ngữ, được coi là gạch nối
chuyển tiếp quan trọng trong hành trình phát triển của thể loại, từ hệ hình
trung đại sang hiện đại.
Bước sang thế kỉ XX, thể tài du ký có bước phát triển mạnh mẽ. Tác
phẩm du ký đầu tiên của thế kỷ XX là Hương Sơn hành trình của Nguyễn Văn
Vĩnh ghi chép lại chuyến hành trình về vùng đất Phật. Ở giai đoạn này, với
những điều kiện thuận lợi của lịch sử xã hội, giao thông, kinh tế phát triển và
luồng văn hóa phương Tây, việc du hành trở nên dễ dàng hơn, con người có
điều kiện giao lưu giữa các vùng miền hơn. Đặc biệt đến năm 1917, Nam
Phong tạp chí được xuất bản, du ký chiếm vị trí quan trọng nhất định trong
tạp chí và được đông đảo độc giả đón nhận một cách tích cực. Ngoài Nam
Phong tạp chí còn có nhiều tờ báo khác đăng tải du ký như Công luận báo,
Phụ nữ Tân văn, An Nam tạp chí, Tri tân, Hà Thành ngọ báo… với số lượng
không nhiều và rải rác. Nhà thư mục học Nguyễn Khắc Xuyên xác định du ký
là một trong 14 bộ môn và nêu nhận xét về thể tài du ký - còn được ông gọi là
du hành - trên Tạp chí Nam Phong: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy, sống

trong đất nước với giang sơn gấm vóc mà không được biết tới những cảnh
gấm vóc giang sơn. Thì đây, theo tờ Nam Phong, chúng ta có thể một phần
nào làm lại cuộc hành trình qua những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất
của đất nước chúng ta từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng - Lạng Sơn đến đảo Phú
Quốc; từ núi Tiên Du đến cảnh Hà Tiên qua Ngũ Hành Sơn; từ Cổ Loa, Hạ
Long đến Huế thơ mộng... Với thời gian, hẳn những tài liệu này ngày càng trở
nên quý hóa đối với chúng ta” [92].
17


Tây Bắc là vùng núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có hệ thống núi
non trùng điệp với trên 20 tộc người sinh sống, đã làm nên văn hóa vùng Tây
Bắc đa dạng và độc đáo. Cùng với những đặc thù về địa lý, văn hóa và người,
vùng núi rừng Tây Bắc trở thành đối tượng khám phá, trải nghiệm của du ký.
Khảo sát các nguồn sách báo trước cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta
thấy xuất hiện các trang du ký viết về miền núi phía Bắc hoặc trên đường lên
vùng cao phía Bắc với tên tuổi Nguyễn Văn Bân, Nhạc Anh Hoàng Văn Trung,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Xương, Thái Phong Vũ Khắc Tiệp, Nhật Nham
Trịnh Như Tấu, Lan Khai, Ngọc Ước, Nhị Lang, Tản Đà, Đặng Trọng Khang,
Bùi Xuân Học, Đặng- v- Đàm, Tam Lang, Việt Dân, Nguyễn Tụng, Roi-Song...
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn thì các tác giả này “hầu hết là quan lại
địa phương, nhà giáo hoặc ký giả báo chí qua thăm các tỉnh Cao Bằng - Bắc
Cạn - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên - Phú Thọ - Hòa
Bình - Lai Châu (với tâm điểm là ba tỉnh Yên Bái – Lào Cai – Phú Thọ) và sau
đó thuật chuyện lại”. Và cũng theo tác giả những trang du ký này “vừa có ý
nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã, ghi chép sinh động về
địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, góp phần giúp độc giả và khách du lịch thời
hiện đại chúng ta hiểu rõ hơn hiện trạng cảnh quan và đời sống người dân
vùng cao phía Bắc cách ngày nay xấp xỉ gần một thế kỷ” [68].
Du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX được hình thành và phát triển

trong những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi. Có thể kể đến một số
tác phẩm tiêu biểu Sau tám năm trở lại thăm Laokay - Nhật Nham Trịnh Như Tấu
(in hai kỳ trên Tạp chí Tri Tân, số 46 và 47, tháng 5 - 1942), Miền thượng du Bắc
Kỳ - Ngọc Ước (in ba kỳ trên Nam Kỳ tuần báo, số 74, 75, 76 - 1944), Một sự đi
chơi Laokay - Tản Đà (Tạp chí An Nam, số 25), Tiếng cồng vang chốn rừng
xanh - Nhị Lang (Trung Bắc Tân văn, số 10- 1940), Cuộc hành trình từ Laokay
đi Lai châu - Đặng Trọng Khang (Hà Thành ngọ báo, 1934), Cuộc kinh lý của
quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu - Bùi Xuân Học (Hà Thành

18


ngọ báo, số 1915- 1934), Khảo cứu về người Mường- Đặng -v- Đàm (Đông
Phương, số 21 - 1929), Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng" - Roi-Song (Hà
Thành ngọ báo, số 2021- 1934)… Tồn tại trong giai đoạn giao thời, du ký vùng
Tây Bắc nói riêng và du ký nói chung đóng góp một phần quan trọng trong việc
hoàn thiện gương mặt văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và tạo tiền đề cho
sự phát triển tiếp nối ở những giai đoạn kế tiếp.
Nhìn ở góc độ thể tài, du ký từ nửa sau thế kỷ XX đến nay vẫn tiếp bước
và thu được những thành công rực rỡ. Có thể nói thể tài này được hồi sinh sau
nhiều năm vắng bóng với những cây bút tiêu biểu như Phan Việt (Một mình ở
Châu Âu), Phương Mai (Tôi là một con lừa), Ngô Thị Giáng Uyên (Bánh mì
thơm, cà phê đắng), Tran Hung John (John đi tìm Hùng), Huyền Chíp (Xách ba
lô lên và đi), và mới đây nhất là Đinh Hằng với Quá trẻ để chết: Hành trình
nước Mỹ… Họ là những cây bút trẻ giàu năng lực, cả năng lực đi và viết, và ít
nhiều đã tạo nên cơn sốt trên thị trường sách hiện nay với những cuốn du ký
viết về những chuyến đi của bản thân họ. Nhìn lại cả tiến trình phát triển của du
ký thì đây là giai đoạn có bước phát triển rực rỡ nhất. Nếu như du ký thế kỷ XX
đã đạt được những thành công thì du ký thể kỷ XXI là sự hồi sinh vượt trội với
sức sống của tuổi trẻ tạo nên sắc hồng tươi tắn cho văn học đương đại, đưa lại

một luồng gió mới nhẹ nhàng cho văn học hiện nay.
1.2. Cơ sở văn hóa, xã hội của sự ra đời và phát triển du ký vùng Tây Bắc
nửa đầu thế kỳ XX
1.2.1. Văn hóa, xã hội và con người vùng Tây Bắc
Tây Bắc là vùng núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
biên giới với Lào, Trung Quốc, bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn
La, Hòa Bình, Yên Bái và Lào Cai.
Vùng văn hóa Tây Bắc là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp
bên hữu ngạn song Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Ở đây
có trên 20 tộc người cư trú, văn hóa Tây Bắc đa dạng và độc đáo chính là sản
phẩm của sự kết hợp và đan xen các bản sắc riêng của hơn hai mươi dân tộc ấy,
19


×