Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Hồng đức quốc âm thi tập dưới góc nhìn phê bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ HUYỀN

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ HUYỀN

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Nhung

THÁI NGUYÊN - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả

Bùi Thị Huyền

i


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
MỤC LỤC ......................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU ............................. iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 9
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................... 9
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 10
7. Đóng góp của đề tài..................................................................................... 10
8. Bố cục luận văn ........................................................................................... 11
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.................................. 12
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái ................................................................ 12
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái ................................................................ 12

1.1.2. Sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái ............................... 15
1.2. Thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái....... 20
1.2.1. Thẩm mĩ sinh thái và thẩm mĩ phi sinh thái.......................................... 20
1.2.2. Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái ............................................................... 23
1.3. Quan hệ thiên nhiên - con người theo quan điểm Phật giáo, Nho giáo
và Đạo giáo...................................................................................................... 24
1.3.1. Phật giáo ................................................................................................ 24
1.3.2. Nho giáo ................................................................................................ 26
1.3.3. Đạo giáo ................................................................................................ 28
1.3.4. Khái quát về tập thơ HĐQÂTT ............................................................. 29
Tiểu kết ............................................................................................................ 30
ii


Chương 2. HỆ SINH THÁI TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP.. 31
2.2. Hệ động vật .............................................................................................. 38
2.3. Nhịp thiên nhiên ....................................................................................... 43
2.3.1. Nhịp bốn mùa ........................................................................................ 43
2.3.2. Nhịp tháng năm ..................................................................................... 49
2.3.3. Nhịp ngày - đêm .................................................................................... 52
Tiểu kết ............................................................................................................ 55
Chương 3. MỐI QUAN HỆ THIÊN NHIÊN - CON NGƯỜI TRONG
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP ............................................................ 56
3.1. Thiên nhiên - con người tương dung giao hòa ......................................... 56
3.2. Thiên nhiên - đối tượng đề vịnh ............................................................... 67
3.2.1. Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần................. 68
3.2.2. Thiên nhiên tượng trưng cho xã hội thịnh trị, an yên ........................... 73
3.2. 3. Thiên nhiên tượng trưng cho dân tộc ................................................... 76
Tiểu kết ............................................................................................................ 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85
PHỤ LỤC

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU
HĐQÂTT

:

Hồng Đức quốc âm thi tập

NXB

:

Nhà xuất bản

ĐHSP

:

Đại học Sư phạm

iii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề liên quan mật thiết
đến sự sống trên toàn cầu, trong đó có sự tồn vong của bản thân mỗi chúng ta.
Nhận thức được nguy cơ sinh thái xảy ra ngày càng trầm trọng, nhân loại đã
có những giải pháp và cách thức khác nhau để góp phần “giải trừ nguy cơ
sinh thái”. Đề tài này được thực hiện chính là góp thêm tiếng nói nhỏ bé vào
mối quan tâm chung mang tính nhân loại ấy.
1.2. Phê bình sinh thái ra đời từ thập niên 90 của thế kỉ XX, là một trong
những bộ phận quan trọng của trào lưu tư tưởng sinh thái. Bên cạnh triết học
sinh thái, luân lí học sinh thái, chủ nghĩa nhân văn sinh thái, văn học sinh
thái... phê bình sinh thái đã ra đời “Không chỉ mang đến sự tươi mới cho lĩnh
vực nghiên cứu phê bình mà đây còn là khuynh hướng có sứ mệnh đặc thù với
lịch sử môi trường nhân loại. Thông qua văn học để tra vấn văn hóa, phê
phán văn hóa, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nguy cơ sinh thái; thay đổi cách
ứng xử của con người với tự nhiên đồng thời khẳng định vai trò của ngôn ngữ
trong việc hình thành diễn ngôn về văn minh sinh thái....”[36]. Với sứ mệnh
đặc thù như vậy, phê bình sinh thái đã lan tỏa rộng rãi trên toàn thế giới. Luận
văn vận dụng lí luận phê bình sinh thái vào nghiên cứu HĐQÂTT hy vọng sẽ
đem đến một cách nhìn mới về tác phẩm khá quen thuộc này, tìm ra ý nghĩa
sinh thái tiềm ẩn trong tập thơ, đồng thời chỉ ra hạn chế của nó trong tương
quan với chỉnh thể sinh thái.
1.3. HĐQÂTT là tập thơ viết bằng chữ Nôm của vua Lê Thánh Tông và
tập thể tác giả Hội Tao Đàn ở thế kỉ XV. Đây là một trong những tập thơ với
các sáng của những thi sĩ được coi là tinh tú ở triều đại thịnh trị Hồng Đức.
Trong tập thơ, số bài thơ đề vịnh về thiên nhiên chiếm tới hơn 1/3 tổng số bài.
Nghiên cứu những bài thơ đề vịnh về tự nhiên này từ góc nhìn phê bình sinh
thái, luận văn hy vọng sẽ phân tích hệ sinh thái và mối quan hệ con người - tự
1


nhiên trong HĐQÂTT, góp phần hiểu rõ hơn về thẩm mĩ sinh thái, chủ nghĩa

chỉnh thể sinh thái.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Hồng Đức quốc âm thi tập
dưới góc nhìn phê bình sinh thái để nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề
Nhằm khảo sát và làm rõ lịch sử nghiên cứu về HĐQÂTT, chúng tôi
dựa vào các nguồn tài liệu chính sau:
Các chuyên khảo: Văn học Việt Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII)
(Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978); Lịch sử Văn học
Việt nam - tập 1(Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1980); Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên
phiên âm - chú giải - giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1982); Việt Nam văn
học sử giản ước tân biên - tập 2 - văn học lịch triều Việt văn (Phạm Thế Ngũ
chủ biên, NXB Đồng Tháp, 1997); Thơ Nôm Đường luật (Lã Nhâm Thìn chủ
biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998); Tuyển tập Thơ nôm Lê Thánh Tông và
Hội Tao Đàn (Kiều Văn tuyển chọn, giới thiệu NXB Đồng Nai - 2000); Lược
khảo lịch sử văn học Việt Nam (Từ khởi thủy đến thế kỷ XX) (Bùi Đức Tịnh,
NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005); Lê Thánh Tông về tác
gia và tác phẩm (Hà Minh Đức chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007); Trên
hành trình văn học trung đại Việt Nam (Nguyễn Phạm Hùng chủ biên, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, 2008); Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (Lã
Nhâm Thìn chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2015).
Các đề tài, luận văn, luận án: Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến
trình thơ Nôm Đường luật thời trung đại Việt Nam (Luận án Tiến sĩ, Trần
Văn Dũng, Hà Nội, 2006); Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong Hồng
Đức quốc âm thi tập (Luận án Tiến sĩ, Trần Thị Giáng Hoa, Hà Nội, 2013);
Tìm hiểu giá trị của phần phong cảnh môn trong Hồng Đức quốc âm thi tập
(Luận văn tốt nghiệp đại học, Phạm Mai Hương); Phương diện nội dung
trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập (Luận văn tốt nghiệp đại học,
Nguyễn Thị Nga, 2014)...
2



Các bài báo: Hồng Đức quốc âm thi tập một tác phẩm lớn của văn học
tiếng Việt thế kỷ XV (Bùi Duy Tân, Tạp chí văn học số 4 - 1983); Giá trị biểu
đạt nghệ thuật của ngôn ngữ đời sống trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Trần
Quang Dũng, Tạp chí Khoa học ĐHSP TP HCM, số 23 năm 2010); Thơ đề
vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Trần Quang Dũng, Tạp chí
Khoa học ĐHSP TP HCM, số 55 năm 2014)...
Có thể thấy, HĐQÂTT tuy không phải là tập thơ đỉnh cao của văn học
trung đại, nhưng nó có những đặc sắc riêng và đã được không ít nhà nghiên
cứu quan tâm. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày lịch sử nghiên cứu vấn đề
qua hai phương diện chính:
2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về HĐQÂTT
Những nghiên cứu chung về HĐQÂTT đã quan tâm đến vấn đề tác giả,
giá trị nội dung và đóng góp về nghệ thuật của HĐQÂTT.
Trong phần thứ 3 “Văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XV và Lê Thánh
Tông” của giáo trình Lịch sử Văn học Việt nam (tập 1), Ủy ban khoa học xã
hội Việt Nam do Đinh Gia Khánh chủ biên đã có những nhận định vừa cụ thể,
vừa khái quát về nghệ thuật của tập thơ: “Trong HĐQÂTT cũng có nhiều câu
thơ phản ánh được những nét chân thật về sinh hoạt của nhân dân...”, “Nói
chung ngôn ngữ văn học dân tộc trong HĐQÂTT đã thành thục và hình tượng
nhiều khi điêu luyện. Thể thơ trong HĐQÂTT là thể thơ thất ngôn và thơ lục
ngôn việc áp dụng niêm luật thơ Hàn luật nói chung khá vững vàng”[17,tr 92].
Những nhận định trên đã khái quát những thành tựu nghệ thuật nổi bật của tập
thơ, nhưng chưa phân tích sâu biểu hiện cụ thể.
Khi giới thiệu cuốn HĐQÂTT, Phạm Trọng Điềm đã có những nhận
xét khái quát về chủ đề chung của tập thơ. Ông cho rằng chủ đề chung của
tập thơ là: “Tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu chính nghĩa, yêu những
trí óc thông minh, yêu những tâm hồn trong sáng, và từ đó toát lên lòng tự
hào dân tộc, trong tổ quốc độc lập và thanh bình”[7, tr17]. Về hình thức

nghệ thuật của tập thơ thơ, tác giả cũng đưa ra ý kiến: “Hình thức và nghệ
3


thuật thơ ở đây có một bước tiến so với Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi...
trừ những chỗ khuôn sáo, gò bó, hình thức và nghệ thuật thơ Hồng Đức
Quốc âm thời Hồng Đức được mở rộng về nhiều mặt, phong phú về đề tài,
sinh động về hình tượng, uyển chuyển về lời văn”[7, tr28]. Bùi Văn
Nguyên trong cuốn sách này cũng cho rằng: “Hồng Đức quốc âm thi tập
cũng nêu lên được nhiều nét truyền thống tốt đẹp trong tinh thần dựng
nước và giữ nước của tổ tiên ta, cũng như về sự vững bền và sức vươn lên
của nền văn hiến Việt Nam”[7, tr67]. Tuy nhiên hai tác giả này mới chỉ nói
một cách chung chung về tập thơ chứ chưa chỉ ra phân tích cụ thể về sự gò
bó, khuôn sáo cũng như phong phú về mặt hình thức của tập thơ.
Luận án HĐQÂTT trong tiến trình thơ Nôm Đường luật thời trung đại
Việt Nam của tác giả Trần Văn Dũng đã có những nhận xét về nội dung của
tập thơ một cách ngắn gọn và đầy đủ như sau: “Hệ thống đề tài chủ đề của
HĐQÂTT khá phong phú và đa dạng, hướng tới nhiều bình diện của hiện thực
đời sống nửa sau thế kỉ XV, từ cuộc sống cung đình cho đến cảnh sống nơi
thôn quê, từ hình ảnh của minh quân lương tướng cho đến hạng ngư, tiều,
canh, mục”[6, tr10]. Về nghệ thuật, tác giá cũng có những nhận xét xác đáng
về việc các thi sĩ Tao Đàn sử dụng tỉ lệ cao lớp từ láy trong HĐQÂTT. Đây
được xem là sáng tạo bất ngờ của các tác giả trong hội Tao Đàn cùng với việc
“sáng tạo một hệ thống hình tượng nghệ thuật bắt nguồn trực tiếp từ cuộc
sống đầy đủ dân dã góp phần tạo đà cho bước phát triển mới trong nghệ
thuật sáng tạo hình tượng của các tác giả thơ Nôm trong giai đoạn khác
nhau”[6, tr16]. Luận án đã nghiên cứu một cách khá đầy đủ, tỉ mỉ và chi tiết
về chủ đề cũng như hình thức của tập thơ giúp người đọc có cái nhìn bao quát
hơn về HĐQÂTT.
Trong cuốn Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, soạn giả đã tập hợp

nhiều bài viết với ý kiến đánh giá khách quan của nhiều nhà nghiên cứu,
Nguyễn Hồng Phong nhận xét: “HĐQÂTT một mặt phản ánh tư tưởng và
tâm lí của giai cấp phong kiến triều Lê, kiêu hãnh vì sự nghiệp dựng nước
4


của dòng họ nhà Lê, cũng kiêu hãnh về lịch sử oanh liệt của dân tộc”
[11,tr534]. Bùi Duy Tân lại đặc biệt chú ý đến hình thức nghệ thuật của tập
thơ. Tác giả đã có cái nhìn tổng quát, đa chiều về cách thức sử dụng tiếng
Việt dưới triều đại Hồng Đức:“HĐQÂTT là một tập thơ Tiếng Việt cỡ lớn,
lớn về số lượng thơ, về giá trị, về ý nghĩa thời đại của nó”,“tác phẩm là một
bằng chứng về một thời kì phát triển mạnh, một bước tiến mới của thơ tiếng
Việt”[11,tr589], “HĐQÂTT là kết tinh cố gắng của cả một thế hệ thi sĩ trên
lĩnh vực trau dồi và nâng cao sức biểu hiện của ngôn ngữ văn hóa dân
tộc”[11,tr590]. Cũng trong cuốn này, Vương Lộc đưa ra khẳng định về giá
trị của HĐQÂTT trong tiến trình phát triển văn học: “Lịch sử văn học Việt
Nam thế kỉ XV được đánh dấu bằng hai tác phẩm viết bằng chữ Nôm nổi
tiếng: nửa đầu thế kỉ là Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi và nửa sau thế kỉ
là Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và một số triều thần”.
[11,tr650]
Nguyễn Phạm Hùng trong Trên hành trình văn học trung đại Việt Nam
nhận định HĐQÂTT là tập thơ:“mang không khí lạc quan, sáng sủa, khẳng
định ca ngợi chế độ”[15, tr436]. Ông cũng cho rằng : “Tập thơ là kết quả của
cuộc sinh hoạt nghệ thuật cung đình mang tính công dân đầy trang trọng,
nghiêm trọng”. Về nội dung, HĐQÂTT“ca tụng vương triều, thuyết lí, giáo lí
nho gia, ngâm vịnh thù tạc trước cuộc sống thanh bình của non nước kì thú,
các nhân vật lịch sử và những phẩm vật của cuộc sống bình dị xung quanh
(…) với sự khẳng định vương quyền trong niềm tin và lạc quan cao độ”[15,
tr436]. Về nghệ thuật tác giả phân tích tập thơ với các đặc điểm: tính khuôn
sáo và sự phá vỡ khuôn sáo; yếu tố hài hước, chất tự sự trong thơ vịnh sử;

chất trữ tình đam mê và trang trọng; ngôn ngữ diễn đạt đậm đà tính dân tộc;
câu thơ lục ngôn. Nguyễn Phạm Hùng đã trình bày khá công phu và tỉ mỉ về
nghệ thuật của tập thơ. Đặc biệt tác giả còn so sánh tập thơ với Quốc Âm thi
tập (Nguyễn Trãi) và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm) làm
nổi bật được sự độc đáo và khác biệt của HĐQÂTT.
5


Trong công trình nghiên cứu Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm
Thìn nhận định: “Hồng Đức Quốc Âm thi tập vẫn tiếp tục nội dung dân tộc đã
có từ Quốc Âm thi tập, nhưng xu hướng xã hội hóa trong nội dung phản ánh
đã thể hiện khá rõ nét.” [28, tr41]“Đôi khi mộc mạc, chất phác, ngộ nghĩnh
nhưng đậm đà phong vị dân tộc” [28,tr42]. Tác giả có đề cập đến việc khai
thác đề tài, hình tượng, thể loại có liên quan đến tinh thần dân tộc như: việc
sử dụng nhuần nhuyễn thể loại thất ngôn xen lục ngôn, việc sử dụng thành
thạo các thành ngữ, khẩu ngữ... Tuy nhiên tất cả phân tích chủ yếu quan tâm
đến phương diện nghệ thuật.
Trong cuốn Văn học Việt Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII), do Đinh
Gia Khánh chủ biên có lời nhận xét: “HĐQÂTT đã đánh dấu một bước tiến rõ
rệt của văn học Nôm đặc biệt là về phương diện rèn giũa và nâng cao khả
năng biểu hiện của ngôn ngữ văn học dân tộc.” [17,tr284, 285]
Như vậy, các tác giả đã chỉ ra và phân tích khá rõ đặc điểm nội dung,
nghệ thuật của HĐQÂTT cũng như những đóng góp của tập thơ này trong
tiến trình văn học dân tộc.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong HĐQÂTT
Trong HĐQÂTT, thơ viết về thiên nhiên chiếm số lượng phong phú và
đa dạng. Vì vậy, bên cạnh rất nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ nói
chung, có một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến thiên nhiên trong tập
thơ này với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính.
Trong lời giới thiệu cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập của Bùi Văn

Nguyên và Phạm Trọng Điềm (phiên âm- chú giải- giới thiệu), các tác giả
cũng đã đề cập đến vấn đề thiên nhiên đất nước được thể hiện trong tập thơ:
“Điểm nổi bật đầu tiên trong tập thơ quốc âm, thời Hồng Đức là tình thơ của
các tác giả qua sự biến chuyển của thời khắc và qua vẻ mỹ lệ của thiên nhiên
mông lung vô cùng tận. Lòng người và cảnh vật, nhà thơ với thiên nhiên: một
đề tài có thể nói là “muôn thuở” từ “cổ chí kim” từ “đông sang tây”.[7,tr17]

6


Trong giáo trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 2) của
Phạm Thế Ngũ, tác giả nói về mối quan hệ giữa đề tài thiên nhiên trong tập
thơ với tư tưởng triết lí Nho giáo: “nhiều phần ở môn thiên đạo và phẩm vật
nói về thời tiết hay cây cỏ thường mang tư tưởng triết lí của đạo Nho về vũ
trụ, xã hội, nhân sinh”[22,tr129].
Tác giả Kiều Văn trong bài nghiên cứu “Thơ Nôm của Lê Thánh Tông và
hội Tao Đàn” nhận xét: “Thơ Nôm thời Hồng Đức dành một mảng đáng kể
chuyên miêu tả sinh hoạt dân dã với những sinh vật hết sức thông thường, nhỏ
mọn nhưng rất đỗi thân thương, gắn bó mật thiết với người Việt như hình với
bóng: khoai lang, quả dưa, cây chuối, cây cau, cái nón, cái quạt, ông đầu rau,
cối xay, thằng bù nhìn, nhà dột, con chó đá, con gà, con muỗi, con cóc, trứng
vịt...Những đề tài, đối tượng “rất tầm thường”mà văn chương chữ Hán thường
coi khinh và chối bỏ thì thơ Nôm Hồng Đức lại tiếp nhận và miêu tả một cách
say sưa khác thường”[34, tr8]. Tác giả một mặt đã chỉ ra những điểm khác biệt
giữa thơ thiên nhiên trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của các tác giả trong hội
Tao Đàn, một mặt ca ngợi tình yêu thiên nhiên của các thi sĩ dưới triều đại Hồng
Đức. Tuy nhiên bài nghiên cứu mới kể ra những loại sinh vật đó một cách chung
chung chứ chưa thống kê số loài một cách đầy đủ và chi tiết. Trong đề tài này
chúng tôi sẽ thống kê, phân loại đầy đủ chi tiết các loài động vật và thực vật một
cách cụ thể để thấy rõ được sự khác nhau đó.

Gần đây nhất là Luận án Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong
HĐQÂTT của Trần Thị Giáng Hoa đã có những nhận xét khá chính xác về vai
trò của thiên nhiên trong thi tập: “Nội dung trong HĐQÂTT thể hiện cảm
hứng tự hào dân tộc thông qua việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên đất nước,
ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, và tưởng nhớ những nhân vật lịch sử có công
với triều đại, với dân tộc”[14, tr23]. Về nghệ thuật tác giả cũng đưa ra nhận
định việc các thi sĩ Tao Đàn trong việc sử dụng ngôn từ bằng cách Việt hóa từ
ngữ tiếng Hán một phần hoặc toàn bộ để vẽ nên bức tranh thiên nhiên bằng
ngôn từ sinh động:“khai thác triệt để giá trị của từ láy trong tiếng Việt để vẽ
nên những bức tranh nhiều màu sắc và âm thanh sống động”. [14, tr18,19]
7


Bài viết “Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT” của Trần Quang
Dũng đã tiến hành thống kê, phân loại thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT, chỉ ra
đặc điểm nội dung thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT. Tác giả bài viết
khẳng định: “Thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT mang đặc điểm phổ
quát này: Vừa hướng tới “đồng tâm” với thơ Đường luật, với văn chương
nhà Nho, mang nặng tính khuôn sáo, ước lệ, vừa hướng tới “li tâm”, phá vỡ
tính ước lệ, điển phạm theo tinh thần dân tộc hóa thể loại, hé mở những nỗi
niềm riêng của người làm thơ”. [5,tr22]
Nhận định trên đây của nhà nghiên cứu Trần Quang Dũng đã gặp gỡ
quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khác. Chẳng hạn, Lã Nhâm Thìn trong
Giáo trình văn học trung đại Việt Nam nhận xét một cách xác đáng về việc
các thi sĩ Tao Đàn đã mượn hình ảnh thiên nhiên để tụng ca nhà vua: “Nhà
thơ mượn hình ảnh chúa xuân để ngợi ca đương kim hoàng thượng. Mùa xuân
của đất trời và mùa xuân của lòng người, dù có chuyển vần trong thời gian
hay không gian thì vẫn khắp hòa chốn chốn một trời xuân” [30,tr157].
Trong công trình nghiên cứu Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn đã
nhận xét: “Chủ đề thiên nhiên là một chủ đề lớn trong HĐQÂTT. Qua những

vần thơ gợi tả sự mĩ lệ của thiên nhiên, các tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của non
sông cẩm tú”; “HĐQÂTT ngoài phong vị Đường thi, nhiều bức tranh thiên
nhiên trong tập thơ mang đậm sắc thái dân tộc bởi các tác giả cảm nhận
được cái hồn quê hương Việt”[28,tr159]. Trong công trình nghiên cứu này,
tác giả đánh giá khá đầy đủ về nội dung của tập thơ, chỉ ra sự khác biệt trong
việc sử dụng yếu tố thiên nhiên đậm chất Đường thi và đậm sắc thái dân tộc.
Tuy nhiên những nhận định này chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát chứ chưa đi
sâu phân tích, thống kê, phân loại cụ thể từng bài có những hình ảnh thiên
nhiên nào để tạo ra sự khác biệt đó. Trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ
thống kê, phân loại chi tiết để làm nổi bật được sự khác biệt đó.
8


Có thể nói, HĐQÂTT đã được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các
bài viết về thiên nhiên trong tập thơ cũng đã được đề cập ở nhiều góc độ khác
nhau, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên, những bài viết đó chưa đặt
thành vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện tập thơ từ góc nhìn phê bình
sinh thái. Chính vì vậy tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước
chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Hồng Đức Quốc âm thi tập dưới góc
nhìn phê bình sinh thái” với hi vọng sẽ đưa ra thêm một cách đọc mới về
tập thơ này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu HĐQÂTT từ góc nhìn phê bình sinh thái, luận văn sẽ làm rõ:
Hệ sinh thái trong HĐQÂTT; Mối quan hệ thiên nhiên - con người trong tập
thơ, từ đó định hướng thẩm mĩ sinh thái cho người đọc.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những thi phẩm viết về thiên nhiên
hoặc mang hình ảnh của thế giới tự nhiên trong HĐQÂTT.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ thuật ngữ phê bình sinh thái, thẩm
mĩ sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái; Phân tích hệ

sinh thái qua tập thơ và mối quan hệ con người - thiên nhiên trong HĐQÂTT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề:
Luận văn sẽ không đi sâu nghiên cứu toàn bộ những vấn đề xung quanh
HĐQÂTT mà chỉ tìm hiểu tập thơ từ góc nhìn phê bình sinh thái. Trong đó
chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu hệ sinh thái và mối quan hệ thiên nhiên - con
người qua HĐQÂTT.
- Phạm vi tư liệu: Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm - Bùi
Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu Nhà xuất bản văn hóa, Hà Nội
1962); Ngoài ra, để làm sáng tỏ vấn đề, trong chừng mực nhất định, luận văn
sẽ so sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi
tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
9


6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chính sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp liên ngành tức là tiếp cận một đối tượng bằng nhiều cách
thức, dựa trên dữ liệu của nhiều chuyên ngành. Trong luận văn này, chúng tôi
đã tiếp cận HĐQÂTT từ kiến thức chuyên ngành văn học, sinh thái học và
văn hóa học.
6.2. Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Phương pháp này giúp cho việc phục nguyên không gian văn hóa tại thời
điểm HĐQÂTT ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm đạo đức, chính
trị, quan niệm về con người... từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác
định đến tác phẩm. Từ đó giải mã các hình tượng nghệ thuật để thấy rõ hơn về
mối quan hệ thiên nhiên - con người trong tập thơ.
6.3. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại

Phương pháp này được dùng để thống kê các sáng tác viết về thiên
nhiên trong HĐQÂTT. Đồng thời, phương pháp này còn được dùng để khảo
sát và thống kê số loài, tần suất xuất hiện của các loài động vật và thực vật
trong tập thơ.
6.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Hai phương pháp này được vận dụng song song với nhau nhằm mục đích
làm rõ và chứng minh những luận điểm mà luận văn đưa ra.
6.5. Phương pháp so sánh
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để đối chiếu sáng tác trong
HĐQÂTT với sáng tác của một số tác giả khác như: Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm... nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
7. Đóng góp của đề tài
- Về khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần kiểm định
hướng tiếp cận phê bình sinh thái trong văn học, đồng thời thực nghiệm một
cách đọc văn bản văn học trung đại theo hướng nghiên cứu liên ngành.
10


- Về thực tiễn: Luận văn được hoàn thành sẽ góp thêm một tài liệu
tham khảo hữu ích cho cho việc giảng dạy và nghiên cứu HĐQÂTT. Luận
văn giúp người đọc hiểu rõ hơn về chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, về mối
quan hệ thiên nhiên - con người trong tập thơ, góp phần bồi dưỡng ý thức
sinh thái cho mỗi người.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn: “Hồng
Đức quốc âm thi tập dưới góc nhìn phê bình sinh thái” gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Hệ sinh thái trong HĐQÂTT
Chương 3: Mối quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT


11


NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái quát về phê bình sinh thái
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái
Từ khi ra đời đến nay, phê bình sinh thái được gọi với nhiều tên gọi khác
nhau: Chủ nghĩa phê bình sinh thái (Ecocriticism), Phê bình văn học sinh thái
(Ecological literary criticism), Phê bình xanh (Green studies), Phê bình văn
hóa xanh (Green cultural studies), Thi pháp sinh thái (Ecopoetics), Sinh thái
học văn học (Literary ecology), Phê bình văn học môi trường (Environmental
literary criticism), Nghiên cứu văn học và môi trường (Studies of literature
and environment). Trong đó, hai thuật ngữ được giới nghiên cứu sử dụng
nhiều nhất là Phê bình sinh thái (Ecocriticism) và Nghiên cứu văn học và môi
trường (Studies of literature and environment).
Hiện nay, giới nghiên cứu dường như thống nhất gọi khoa học liên
ngành này với tên gọi Phê bình sinh thái. Trong công trình nghiên cứu Rừng
khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê bình sinh thái, Nguyễn Thị Tịnh
Thy đã dẫn lời giải thích của giáo sư Cheryll Glotfelty về tên gọi này như sau:
“phần lớn các học giả thích dùng thuật ngữ phê bình sinh thái (ecocriticism)
“vì nó ngắn gọn và có thể dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical
(tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa,
họ thích tiền tố “eco-” (sinh thái) hơn tiền tố “enviro-” (môi trường) bởi vì...
theo nghĩa rộng, tiền tố “enviro-” (môi trường) mang quan điểm con người
là trung tâm và có tính nhị nguyên, ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung
tâm, tất cả xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-”
(sinh thái) ám chỉ vạn vật cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, tạo thành một hệ

thống và những yếu tố trong hệ thống đó luôn có sự hòa hợp, gắn bó chặt
chẽ với nhau”[32, tr139]
12


Các học giả phương Tây đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về phê
bình sinh thái, chẳng hạn, định nghĩa của Joseph Meeker, William Rueckert,
Cheryll Glotfelty, James S. Hans, Scott Slovic, Cheryll Glotfety, William
Howarth, Lawrence Buell... Trong đó, định nghĩa của Cheryll Glotfety là
định nghĩa được ghi nhận rộng rãi. Cheryll Glotfety cho rằng: “Nói đơn giản,
phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự
nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ
góc độ giới tính, phê bình Marxist mang lại ý thức của phương thức sản xuất
và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương
pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu
văn học”[2,tr89]
Học giả Trung Quốc là Vương Nặc định nghĩa: “Phê bình sinh thái là
phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định
hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái. Nó phải phơi bày nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái
được phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám phá thẩm mĩ sinh
thái và biểu hiện của nghệ thuật của nó trong tác phẩm”[32,tr153]
Nguyễn Thị Tịnh Thy đề xuất định nghĩa như sau: “Phê bình sinh thái là
phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định
hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái thông qua việc khám phá thẩm mĩ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của
nó trong tác phẩm” [32,tr157]
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, hiện nay đang có hai cách hiểu
khác nhau về phê bình sinh thái. Theo cách hiểu thứ nhất, phê bình sinh thái
“ám chỉ mọi nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học với môi trường vật lý”.

Cách hiểu thứ hai, “mang tính đặc thù của thời đại toàn cầu hóa: nghiên cứu
số phận của môi trường sinh thái dưới tác động của con người từ góc nhìn
của văn học”[4,tr90]. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định, “Phê bình sinh thái
trước hết là một phong trào hiện đại nằm trong phong trào văn hóa - xã hội
bảo vệ môi trường”. [4,tr93]
13


Tựu trung lại, có rất nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái, tuy nhiên
phần lớn các học giả trên thế giới và Việt Nam đều thừa nhận và sử dụng
khái niệm của Cherlly Glottfelty - nhà phê bình sinh thái Mĩ, đồng thời là
học giả đầu tiên nhận được danh hiệu “Giáo sư văn học và môi trường”.
Bởi định nghĩa của bà thể hiện rõ mối quan hệ bình đẳng giữa con người
với tự nhiên. Khi con người hòa nhập vào mối quan hệ ấy đòi hỏi con
người đánh giá lại thái độ, điều chỉnh xem xét lại thái độ văn hóa, văn minh
với tự nhiên. Bởi vậy khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với sinh
thái thì con người- bản thân nó là phép tắc của tự nhiên. Khi con người
sống hài hòa, thân mật, hòa hợp với tự nhiên thì sự sống sẽ luôn phát triển.
Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với định nghĩa của tác giả Cherlly Glottfelty
và coi đây là định nghĩa quan trọng xuyên suốt quá trình nghiên cứu để
triển khai các nội dung trong đề tài.
Theo các nhà nghiên cứu, phê bình sinh thái có 6 đặc trưng cơ bản, đó là:
Chú ý đến đạo đức sinh thái; Đọc lại văn học kinh điển truyền thống từ góc
nhìn sinh thái; Giữ vững lập trường chủ nghĩa sinh thái trung tâm; Có tính
liên ngành; Thể hiện tinh thần văn hóa sinh thái thông qua “tính văn học”;
Hàm nghĩa của thuật ngữ rất phức tạp.
Phê bình sinh thái có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển văn hóa,
Karen Thornber khẳng định: “Đây là một lý thuyết liên ngành, kết hợp giữa
văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh báo về
môi trường. Nó có thể không đưa ra được những giải pháp trực tiếp cho

những vấn đề môi trường nghiêm trọng hiện nay nhưng bằng cách phân tích
các diễn ngôn về thiên nhiên và môi trường, nó có thể tác động đến tâm thức
con người, điều chỉnh nhận thức, khắc phục những ngộ nhận về môi trường,
để từ đó, có những hành động đúng đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền
vững và xa hơn, đồng thời quan trọng hơn cả, là hình thành một chủ nghĩa
nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của thiên nhiên để đối
thoại với nó.” [16, tr72]
14


Trên đây là những điểm khái quát nhất về khái niệm phê bình sinh thái.
Khái niệm này sẽ là tiền đề lí luận quan trọng đầu tiên giúp chúng tôi triển
khai luận văn này.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái
Khí hậu trái đất nóng lên, sự thay đổi lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ thổ
nhưỡng, chuyển động tuần hoàn khí quyển, hạn hán, hoang mạc hóa, mưa lớn,
bão tuyết, sự tan chảy của các sông băng và băng ở Nam Bắc cực, sự hỗn loạn
của hệ thống các dòng chảy đại dương, mực nước biển dâng cao, sự rối loạn
mô thức sinh trưởng và sinh sản loài cũng như tuyệt chủng loài… những hiện
tượng bất thường này (hay nói cách khác là nguy cơ sinh thái) chính là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của phê bình sinh thái. Đỗ Văn Hiểu trong bài
viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách
tân khẳng định: “... một phần rất lớn là Phê bình sinh thái ra đời không phải
từ khát vọng sáng lập lí thuyết mới của các nhà phê bình, cũng không phải
xuất phát từ nội bộ nghiên cứu văn học, mà là từ sự thúc đẩy của nguy cơ
sinh thái”. [13, tr3]
Nguyễn Thùy Trang trong bài viết “Sự lật đổ quan niệm “nhân loại
trung tâm” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” đã giới thiệu một cách
ngắn gọn nhất bối cảnh dẫn đến sự ra đời của phê bình sinh thái như sau:
“Vào năm 1969, lần đầu tiên nhân loại được chiêm ngưỡng những hình ảnh

của Trái đất nhìn từ Mặt trăng. Sự kiện này khiến con người thực sự xúc động,
vì nó giúp chúng ta nhận thức được sự nhỏ bé và mong manh của Trái đất
giữa thiên hà. Rồi sau đó, hàng loạt những chấn động xảy ra, sóng thần, động
đất, sự cố hạt nhân Chernobyl… toàn nhân loại lâm vào “tai nạn sinh thái”,
đứng trước tình trạng báo động của ô nhiễm khí hậu, thủng tầng ozon, cạn
kiệt tài nguyên. Lúc này con người bắt đầu ý thức sâu hơn về trách nhiệm của
chính mình để bảo vệ hành tinh Xanh. Đây cũng là thời điểm manh nha lí
thuyết phê bình sinh thái.” [33, tr73]
Xét về ngọn nguồn, nguy cơ sinh thái chỉ là cái được biểu hiện ra bên
ngoài mà tất cả nhân loại đều đã và đang được chứng kiến, còn nguyên nhân
15


sâu xa dẫn đến phê bình sinh thái phải ra đời có lẽ chính là xuất phát từ chủ
nghĩa nhân loại trung tâm luận. Các nhà nghiên cứu lớn đều khẳng định, phê
bình sinh thái ra đời chính là để “xét lại quan điểm con người là trung tâm từ
thời Khai sáng.” [27, tr3] hay “phản ứng lại với truyền thống coi con người là
trung tâm, xem nhẹ, phủ nhận thiên nhiên” [9, tr2].
Như chúng ta đều biết, trên tổng thể, tư tưởng văn hóa chủ lưu của
phương Tây là “chủ nghĩa nhân loại trung tâm và tư tưởng chinh phục, khống
chế, cải tạo tự nhiên”. Tư tưởng này được thể hiện từ thời cổ đại cho đến thời
kì Phục Hưng và Khai Sáng. Theo Trần Nho Thìn: “Khái niệm anthropocentrism nhân loại trung tâm luận - chỉ một quan điểm cho rằng loài người (anthropos
trong tiếng Hy Lạp) chiếm vị trí trung tâm, có tầm quan trọng bậc nhất mà tất
cả mọi vật xung quanh đều châu tuần về nó”. Mục từ anthropocentrism được
giải thích: “Khái niệm diễn đạt quan niệm, công khai hay ngầm ẩn, đặt con
người vào vị trí trung tâm của thế giới và nhìn nhận tất cả mọi vật khác trong
thế giới này như là vật phụ thuộc hay phục vụ cho con người”[31,tr152]
Quan niệm nhân loại trung tâm luận đã ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các
lĩnh vực đời sống. Trong văn học: “Con người theo nhân loại trung tâm luận
với sự thống trị của nó đã áp đặt cho các cảnh trí thiên nhiên các phẩm chất,

hành vi, cảm xúc của mình. Thực tế văn học dẫn đến sự ra đời phương pháp
phân tích thơ châu Âu theo đó đối chiếu sự song hành con người và thiên
nhiên. Nếu ở phương Đông, con người hài hòa, tan biến vào thế giới thiên
nhiên xung quanh, thì trong thơ châu Âu, con người luôn là chủ thể mà thiên
nhiên là vật so sánh” [31,tr 155]
Một vài điều khái quát như vậy về chủ nghĩa nhân loại trung tâm luận
giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về bối cảnh ra đời của phê bình sinh thái: phê bình
sinh thái ra đời ở phương Tây, gắn với truyền thống văn hóa phương Tây,
việc vận dụng nó vào nghiên cứu văn học phương Đông, trong đó có văn học
Việt Nam là một việc không dễ dàng và cần thận trọng.

16


Tuy nhiên, chúng tôi cũng quan tâm đến nhận định sau đây của nhà
nghiên cứu Karen Thornber trong bài viết “ Những tương lai của phê bình
sinh thái và văn học”: “Những hình dung phổ biến ở trong và ngoài Đông Á
thường cho rằng tình trạng môi trường bị xuống cấp ở khu vực này bắt đầu
xảy ra từ cuối thế kỷ XIX, khi người dân Đông Á, dưới áp lực của các quốc
gia Tây phương, đã tiếp thu, đồng hóa kỹ thuật và các ngành công nghiệp của
họ. Song thực chất, các xã hội Đông Á đã kế thừa cả hàng ngàn năm môi
trường bị thoái hóa nghiêm trọng. Rhoades Murphey đã đi rất xa khi tranh
luận:“Tất cả những nền văn hóa châu Á thuộc khu vực ở phía đông
Afghanistan và phía nam khu vực thuộc Liên Xô cũ từ lâu đã được biết đến
như là những nền văn hóa tôn sùng thiên nhiên… Điều này được xem như đối
lập với quan điểm của phương Tây. Thế nhưng những tư liệu ở châu Á lại cho
thấy rõ rằng bất chấp những giá trị mà giới tinh hoa trí thức ở đây tuyên
xưng, người dân đã làm biến đổi hoặc phá hủy môi trường châu Á sớm hơn
và ở mức độ lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, thậm chí so với cả
phương Tây thế kỷ XX.” [16, tr320,321]

Khi nghiên cứu HĐQÂTT, một tập thơ ra đời trong bối cảnh“nền thơ
chịu sự chi phối của ecocentrism - thiên nhiên trung tâm luận”[31,tr157],
chúng tôi không thể không lưu tâm đến những lưu ý trên đây.
Về quá trình phát triển, phê bình sinh thái manh nha ra đời vào thập
kỷ 70 của thế kỉ XX và trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn hình thành (từ 1972
đến 1990), Giai đoạn phát triển (từ 1991 đến 2007), Giai đoạn chuyển
hướng (từ 2008 - nay). Tiến trình này đã được tổng thuật trong nhiều công
trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới và Việt Nam. Vì vậy, chúng
tôi sẽ không tổng thuật lại tiến trình này mà chỉ khái quát bằng bảng sau để
có cái nhìn hệ thống về phê bình sinh thái.

17


Giai đoạn

Học giả tiêu biểu

Thành tựu chủ yếu

Francis W.Halsey, Joseph - Sự quan tâm của giới học
W.Meeker,

Raymond thuật đến vấn đề văn học và

Từ 1972 đến

Williams,

William môi trường ngày càng gia tăng.


1990

Rueckert,

John

Elder, - Thuật ngữ phê bình sinh thái

(Giai đoạn

Frederick O.Waage, Cheryll chính thức được đề xuất (1978)

hình thành)

Glotfelty,

A.Love,  Đây được xem là giai đoạn

Glen

Peter A. Fritzell, Robert hình thành, là thời kỳ tiền sử
Finch, John Elder

của phê bình sinh thái.

Harold Fromm, Jonathan - Các hội thảo về phê bình
Bate, Max Oelschlaeger, sinh thái được tổ chức và
Glen


A.

Pogue,

Robert đón nhận rộng rãi.

Love,
Kent

C.Ryden, - Tạp chí chuyên ngành ra

Karl Kroeber, Derek Wall, đời, nhiều công trình giá trị
Melissa

Terry được công bố.

Waker,

Gifford, Cheryll Glotfelty, - Hội nghiên cứu văn học và
Jonh Elder, R. Kerridge, môi trường ra đời
Từ 1991 đến
2007

N. Sammells, Patrick D. - Phê bình sinh thái đã lan
Murphy,

Lorraine rộng ra các quốc gia ngoài
Slovic, khu vực Âu Mĩ.

(Giai đoạn


Anderson,

phát triển)

Jonh P. O’Grady, Peter

Scott

Quigley, Lawrence Buell,
William

Slaymaker,

Patrick D. Murphy, David
Mazel, Rosendale Steven,
Richard

L.

Knight,

Thomas S. Edwards, Gred
Garrard,

Michael

Branch, Jeffrey Myers...
18


P.


Scott Slovic, Lindsey Claire - Đây là thời kỳ chuyển
Smith, Michael Bennet, David hướng của phê bình sinh thái
W.Teague,

Kimberly về mọi mặt từ lí luận phê

Từ 2008 đến

N.Ruffin, Patrick D. Murphy, bình, phương pháp phê bình,

nay

Elizabeth Deloughrey, George đối tượng phê bình (bao

(Giai đoạn

B. Handley, Karen Thronber, gồm cả thể loại và khu vực

chuyển

Greg Garrard, Jeffrey Bilbro, phê bình)

hướng)

Svend Erik Larsen, Annelise
Ballegaard
Minikami


Petersen,
Tsutom,

Vương

Nặc, Trần Tiểu Hồng...
Theo Karen Thornber trong Những tương lai của phê bình sinh thái và văn
học, phê bình sinh thái đã trải qua hai giai đoạn quan trọng: “Giai đoạn thứ nhất
chủ yếu dựa vào lý thuyết sinh thái học chiều sâu (deep ecology)... coi trọng vấn
đề bảo tồn đa dạng sinh học và sự bình yên của môi trường sống ở các địa
phương. Đến giai đoạn sau, nhất là từ thế kỷ XXI đến nay, phê bình sinh thái
gắn với nhân học và văn hóa học, đặt bình diện xã hội làm trung tâm, đặc biệt
quan tâm đến vấn đề đô thị hóa và công lý môi trường” [16,tr39]
Như vậy phê bình sinh thái ra đời đầu tiên ở phương Tây, nó như một
phản ứng tích cực trước tình trạng môi trường đang ngày một xấu đi. Phê bình
sinh thái khai thác lợi thế của việc thông qua phê bình văn học nghệ thuật tìm
ra căn nguyên sâu xa của nguy cơ sinh thái ẩn tàng trong mô thức văn hóa
nhân loại, từ đó tiến tới điều chỉnh quan niệm giữa con người và tự nhiên, xây
dựng một phương thức sống đề cao chỉnh thể sinh thái.
So với thế giới, phê bình sinh thái xuất hiện ở Việt Nam khá muộn. Dù vậy
cho đến nay cũng đã đạt được những thành tựu bước đầu với sự xuất hiện của
một số chuyên khảo như: Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê bình
sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy); Phê bình sinh thái là gì? (Hoàng Tố Mai chủ
biên); Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên);
19


×