Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Bài tập lớn quản trị doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.32 KB, 31 trang )

I. LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm và các thành phần của công nghệ
1.1. Khái niệm
Đã từ lâu thuật nhữ công nghệ được nhắc đến nhiều như là một bộ phận không thể
thiếu trong cuộc sống của con người. Công nghệ dược hình thành ngay từ khi con người
xuất hiện và nó chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong sự phát triển của xã hội xưa và
nay. Đối với khái niệm cụ thể về công nghệ, có rất nhiều cá nhân, tổ chức có cách nhìn
nhận khác nhau.
Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) định nghĩa về
công nghệ như sau: Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử
dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
Còn đối với Ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) định
nghĩa: Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu
và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiets bị và phương pháp sử dụng
trong sản xuất, chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin.
Như vậy, nếu như định nghĩa của UNIDO nhằm nhấn mạnh vtinhs khoa học là
thuộc tính của công nghệ và khía cạnh hiệu quả của công nghệ khi xem xét việc sử dụng
công nghệ cho mục đích nào đó thì định nghĩa của ESCAP lại được coi là một bước ngoặt
trong lịch sử quan niệm về công nghệ.
Từ những định nghĩa trên, ta có thể rút ra một định nghĩa khái quát nhất về công
nghệ như sau: Công nghệ là sự ứng dụng thành quả khoa học kỹ thuật nhằm biến đổi tất
cả những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành đầu ra.
Hiện nay, loài người đang chứng kiến những thay đổi to lớn trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống, mà xuất phất điểm của nó chính là sự phát triển, tiến bộ không ngừng
của khoa học và công nghệ. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải nhanh chóng nắm bắt và
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh
doanh. Vì các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao sẽ có lợi thế trong các cuộc cạnh
tranh. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phải tạo được một lợi thế mạnh trên thị
trường bằng những sản phẩm có năng lực làm thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng về cả số
lượng, chất lượng, kiểu dáng, tính thẩm mỹ của sản phẩm và quan trọng hơn là phải có
năng lực thỏa mãn người tiêu dùng cao hơn. Muốn vậy doanh nghiệp cần nắm được các


yếu tố quan trọng khi áp dụng công nghệ.
1.3. Các thành phần của công nghệ
Từ định nghĩa trên, tá có thể thấy rằng, bất cứ công nghệ nào cũng phải gồm 4
thnahf phần cơ bản là: Phần thiết bị, con người, thông tin và tổ chức.
- Phần thiết bị (Technoware): Đây là phần vật thể ở trong công nghệ, nó bao gồm mọi
phương tiện vật chất như trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu, phương tiện,…Đây là
phần được coi là cốt lõi của bất cứ một công nghệ nào. Phần này được triển khai, lắp đặt và
vận hành bởi con người.
- Phần con người (Humanware): Muốn máy móc, trang thiết bị hoạt động được thì phải
cần có con người. Con người ở đây có thể là người sử dụng, vận hành nhưng cũng có thể là
người chế tạo hoặc cải tiến ra máy móc…Con người trong công nghệ được hiểu là năng
lực của con người về công nghệ như: kỹ năng, kinh nghiệm, sự sang tạo, khả năng lãnh
đạo,…Con người không những làm cho máy móc, trang thiết bị phát huy hết khả năng của
chúng mà còn đóng vai trò chủ động trong toàn bộ công nghệ. Tất nhiên, con người chịu sự
chi phối của thông tin và tổ chức.
- Phần thông tin (Inforware): Thông tin được coi là sức mạnh của công nghệ. Thông tin
trong công nghệ thể hiện ở tri thức được tích lũy trong công nghệ thông qua những khái
niệm, lý thuyết, các phương pháp, các thông số, cacsss công thức, bí quyết,…Nhờ những
tri thứ này mà con người rút ngắn được thời gian và sức lực khi giải quyết các công việc có
liên quan đến công nghệ. Điều quan trọng là những thông tin này phải thường xuyên được
cập nhật và gắn liền với công nghệ vì đối với cùng một công nghệ nhưng nếu sử dụng
lượng kiến thức khác nhau sẽ tạo ra được những sản phẩm khác nhau.
- Phần tổ chức (Orgaware): Phần này được coi là động lực của công nghệ. Bất kỳ một hệ
thống nào cũng cần phải có một tổ chức để điều hành hoạt động của hệ thống. Công nghệ
cũng vậy, nó cần phải có một bộ phận chịu trách nhiệm phối hợp các thành phần còn lại
của công nghệ với nhau nhằm đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả nhất. Phần tổ chức giúp
cho việc quản lý, lập kế hoạch, tổ chức bộ máy nhân lực, kiểm soát các hoạt động biến đổi,
…Phần tổ chức phụ thuộc vào tính phức tạp của các phần thiết bị, thông tin trong công
nghệ và bản than nó cũng có thể thay đổi theo thời gian.
2. Đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

2.1. Thực chất của việc đổi mới công nghệ
- Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, việc lựa chọn những phương án
công nghệ mới phù hợp có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao đang ngày càng trở nên quan
trọng và cần thiết không chỉ riêng các doanh nghiệp mà còn mở rộng đến toàn ngành.
- Theo quan điểm phổ biến và hiện đại trên thế giới: Đổi mới công nghệ là việc thay thế
các thiết bị lạc hậu đang có bằng thiết bị hiện đại, thay thế cho quy trình sản xuất mới
hiện đại hơn, tiến bộ hơn quy trình đang áp dụng. Sự thay đổi này kéo theo đồng thời
quá trình biến đổi về chất của các yếu tố khác trong công nghệ, như: nâng cao năng lực sản
xuất của người lao động, đổi mới biện pháp quản lý tổ chức các yếu tố công nghệ, xử lý
các thông tin nhằm cải tiến hoặc sản xuất ra các sản phẩm mới có khả năng đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Có thể nói, đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện
không ngừng các yếu tố của công nghệ dựa trên những thành tựu khoa học kỹ thuật nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đáp ứng tốt nhất nhu cầu người tiêu dùng.
* Một số phương thức đổi mới công nghệ như sau:
- Công nghệ truyền thống đang có của ngành, doanh nghiệp được cải tiến hiện đại hóa
dần dần để từng bước đổi mới công nghệ hiện có lên trình độ tiên tiến, hiện đại.
- Kết hợp việc cải tiến hiện đại hóa với tự nghiên cứu để phát triển công nghệ mới, thay
thế cho công nghệ cũ lạc hậu đang được áp dụng.
- Nhập và chuyển giao công nghệ mới, hiện đại từ nước ngoài, thông qua các kênh đầu tư
trực tiếp nước ngoài của các công ty đa quốc gia, nhập máy móc thông tin qua hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng, trả dần vốn qua bao tiêu sản phẩm, mua các lixăng sang chế,
nhận hỗ trợ của các hang thiết bị,…Đây là phương thức chuyển giao mang lại hiệu quả có
tính chất đột biến.
2.2. Sự cần thiết của đổi mới công nghệ
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong những thập niên gần đây đã mở ra cho loài
người những khả năng vô cùng to lớn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là việc ứng dụng nó
trong đời sống của con người. Song song với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các công
nghệ mới cũng liên tiếp ra đời để phục vụ cho đời sống và sản xuất.
* Đối với một quốc gia:
- Công nghệ là yếu tố cơ bản của sự phát triển ở mỗi quốc gia. Đổi mới công nghệ góp

phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển đang
cần động lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi
mới công nghệ là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nhờ đổi mới
công nghệ mà cơ sở vật chất. kỹ thuật của cả nền kinh tế được cải thiện một cách đáng kể.
Dưới tác động của đổi mới công nghệ, cơ cấu ngành sẽ đa dạng, phong phú và phức tạp
hơn. Đổi mới công nghệ sẽ tạo ra nhiều ngành mà trước khi đổi mới không có. Các ngành
yêu cầu hàm lượng kỹ thuật cao sẽ phát triển nhanh hơn các ngành nghề truyền thống với
hàm lượng khoa học thấp. Đổi mới công nghệ sẽ góp phần làm tăng chất lượng sản phẩm
đồng thời cũng làm tăng tính cạnh trnah của sản phẩm trên thị trườn, góp phần thúc đẩy
tiêu thụ, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một quốc gia.
- Về mặt xã hội: Đổi mới công nghệ giúp tạo ra nhiều việc làm mới. Vì mỗi một công
nghệ sau khi ra đời thường tạo công ăn việc làm cho một số lao động nhất định. Những
lao động này thông qua đào tạo nâng cao về kiến thưc, tay nghề để có thể sử dụng hiệu quả
công nghệ đó.
* Đối với doanh nghiệp:
+ Đổi mới công nghệ là động lực thúc ddaayrdoanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh trên
thị trường.
- Đổi mới công nghệ sẽ làm cho chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, đáp
ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Và khi chất lượng sản phẩm, dịch vụ tăng
lên sẽ tạo ra được uy tín với khách hàng về sản phẩm của mình. Thậm chí chỉ cần nhắc đến
tên sản phẩm là khách hàng đã có một ấn tượng tốt về chất lượng của sản phẩm đó. Như
vậy, đổi mới công nghệ sẽ tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt
là trong nền kinh tế thị trường khi mà các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng
sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Và nếu doanh nghiệp không chịu đổi mới công
nghệ thì sẽ không có khả năng cạnh tanh trên thị trường,
- Đổi mới công nghệ còn làm tăng năng suất lao động. Khi ứng dụng các công nghệ hiện
đại vào sản xuất sẽ giảm bớt được hoa phí lao động trên một sản phẩm, hạ giá thành và làm
cho sản phẩm có thể cạnh tranh được trên thị trường.
+ Đổi mới công nghệ giúp doanh nghiệp mở rộng được thị trường trong nước, đồng thời
dễ dàng xâm nhập vào thị trường nước ngoài.

- Khi đổi mới công nghệ làm cho số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng lên
tương ứng. Điều này sẽ làm cho lượng hàng hóa được tieu thụ cũng tăng lên, nhờ đó mà
doanh nghiệp có thể mở rộng được thị trường. Đối với thị trường nước ngoài, một thị
trường có thể nói là rất khó tính, nếu doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về chất
lượng và mẫu mã, bao bì thì việc xâm nhập vào thị trường đó sẽ có rất nhiều thuận lợi.
Doanh nghiệp có thể tạo dựng được uy tín lâu dài trren thị trường này nhờ việc duy trì chất
lượng của sản phẩm.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới công nghệ
- Mặc dù nhận thức được rõ vai trò và sự cần thiết của đổi mới công nghệ, nhưng không
phải bất cứ ngành nào, doanh nghiệp nào, quốc gia nào muốn là có thể thực hiện được
ngay. Bởi đổi mới công nghệ được xét ở nhiều căn cứ, trong đó trước tiên là phải xuất phát
từ mục tiêu kinh tế, xã hội tạo cho ngành trong từng thời kỳ. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào
trình độ công nghệ hiện có của bản thân doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của các đối
thủ khác, xét về mặt công nghệ.
- Có thể xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới công nghệ từ 4 góc độ sau đây:
2.3.1. Đường lối chính sách của nhà nước
- Đường lối, chính sách của Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ có ảnh hưởng
rất lớn tới sự phát triển công nghệ của một quốc gia và quá trình đổi mới của từng doanh
nghiệp. Đường lối, chính sách về công nghệ được thể hiện rất rõ ở chính sách công nghệ
của mỗi quốc gia. Nó quy định khung pháp lý cho sự phát triển công nghệ của chính nước
đó thông qua cách thức phát triển công nghệ - đây là nền tảng cho các hoạt động có liên
quan đến công nghệ.
+ Đường lối, chính sách tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện đổi mới
công nghệ bằng các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách mở cửa, ngoại thương hay
chính sách thuế,…
+ Thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ.
+Tổ chức đào tạo nhằm nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ khoa học kỹ thuật.
2.3.2. Các yếu tố nội tại của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải đổi mới công nghệ. Tuy
nhiên, việc đổi mới công nghệ lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp.

Đối với những doanh nghiệp khác nhau thì có phương hướng, biện pháp, mục đích đổi mới
công nghệ cũng khác nhau. Chúng ta có thể xem xét 2 nhân tố ảnh hưởng đến doanh
nghiệp nhiều nhất liên quan đến đổi mới công nghệ.
+ Một là, khả năng tài chính.
- Khả năng tài chính là nhân tố quan trọng trong việc quyết định một doanh nghiệp có nên
đổi mới công nghệ hay không.
- Vấn đề tài chính bao giờ cũng được đặt ra đầu tiên đối với mỗi một dự án đổi mới công
nghệ. Một doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ trước tiên phải kiểm tra lại xem mình có
khả năng thanh toán các khoản nợ như thế nào. Khi đã xem xét đấy đủ các vấn đề liên
quan, doanh nghiệp mới có thể tiến hành được những bước tiếp theo.
+ Hai là, năng lực công nghệ.
- Năng lực công nghệ được hiểu là tập hợp những nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con
người và khả năng biến những nguồn lực đó thành hàng hóa. Năng lực công nghệ của một
quốc gia quyết định việc sử dụng công nghệ, triển khai, thay đổi công nghệ.
- Một doanh nghiệp có năng lực công nghệ cao là một doanh nghiệp có một đội ngũ cán
bộ kỹ thuật cũng như nhân công giỏi. Doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt và làm
chủ các công nghệ mới, đồng thời có thể cải tiến công nghệ nhập sao cho phù hợp với điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp mình. Nếu một doanh nghiệp có năng lực công nghệ thấp
thường gặp phải nhiều khó khăn khi triển khai, áp dụng công nghệ vào sản xuất và do đó
hiệu quả đổi mới công nghệ sẽ thấp.
2.3.3. Nhu cầu của sản phẩm và sự cạnh tranh trên thị trường
- Một sản phẩm nào cũng vậy, chúng không thể tồn tại lâu trên thị trường nếu nó không
luôn được đổi mới. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu và thị hiếu của khách hàng ngày
càng cao. Họ muốn sử dụng những sản phẩm đẹp hơn, tốt hơn, bền hơn nhưng giá cả thì lại
phải chấp nhận được. Những sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng
sẽ nhanh chóng bị đào thải ra khỏi thị trường. Chính vì thế doanh nghiệp luôn phải tìm
cách để đáp ứng nhu cầu thị trường và một trong cách hiệu quả nhất đó chính là đổi mới
công nghệ.
- Bên cạnh đó, sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ cạnh tranh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Hiện nay, mỗi doanh nghiệp kinh doanh trên thị

trường đều phải chịu sự cạnh tranh của nhiều đối thủ, không chỉ trong nước mà còn nước
ngoài. Do đó, các doanh nghiệp luôn phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của
mình để có thể chiến thắng đối thủ khác. Đổi mới công nghệ hiệu quả thì doanh nghiệp
mới tạo ra những sản phẩm mới mà thị trường có thể chấp nhận được.
2.3.4. Khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
- Trước khi tiến hành đổi mới công nghệ, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị
trường để tìm kiếm những sản phẩm thích hợp, phải xem xét khả năng tiêu thụ sản phẩm
đó trên thị trường như thế nào. Điều này sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sau khi sản xuất ra
sản phẩm có thể tiêu thụ được nhanh chóng và đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
II. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN - TRUYỀN THÔNG
TẠI VIỆT NAM
l. Sự phát triển công nghệ thông tin - truyền thông trên thế giới
Công nghệ thông tin - truyền thông, mạng Internet đã làm cho khoảng cách trên thế
giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới sẽ đưa hoạt động kinh
tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Sự hội tụ công
nghệ viễn thông - tin học - truyền thông quảng bá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn
cầu và dẫn đến sự hình thành những loại hình dịch vụ mới, tạo ra khả năng mới và cách
tiếp cận mới đối với phát triển kinh tế xã hội.
Cuộc cách mạng thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc
đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, đưa xã hội loài người chuyển
mạnh từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ,
xử lý và trao đổi thông tin.
Xu thế biến đổi to lớn đó đang đặt ra cho mọi quốc gia những cơ hội và thách thức
hết sức to lớn. Nắm bắt cơ hội, với ý chí và quyết tâm cao, có sự chỉ đạo trực tiếp của
Đảng và Chính phủ chúng ta có thể tận dụng tiềm năng công nghệ thông tin - truyền thông
để chuyển dịch nhanh cơ cấu nhân lực và cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng xây dựng một
xã hội thông tin, kinh tế dựa trên tri thức, góp phần quan trọng rút ngắn quá trình hiện đại
hoá đất nước.
Về vấn đề này, GS.TSKH Seungtaik Yang - cố vấn công nghệ thông tin của Bộ Bưu

chính, Viễn thông cũng đã khuyến nghị Việt Nam: '' Công nghệ thông tin- truyền thông
phải được hiểu như một cơ sở hạ tầng của tất cả các công nghệ trong thế kỷ 2l cũng như
máy móc có vai trò như vậy trong thế kỷ 20. Trong thế kỷ 21, điều tất yếu là tất cả các
ngành phải chấp nhận công nghệ thông tin-truyền thông như là phương tiện chính để đảm
bảo hiệu quả, năng suất và tính cạnh tranh. Do đó, ứng dụng công nghệ thông tin vào các
ngành là điều cốt yếu và là vấn đề cấp bách phải làm càng sớm càng tốt. Không có bất kỳ
một lý do nào để trì hoãn...''
Công nghệ thông tin phải trở thành nhân tố chủ chốt góp phần giải phóng tiềm năng
của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức tạo ra năng suất và hiệu quả trong các doanh nghiệp, làm
giầu những ý tưởng mới và phát triển ngày càng nhiều các giá trị mới.
2. Tình hình ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam
2.1. Tình hình ứng dụng và phát triển nói chung của CNTT tại Việt Nam
Ngay từ những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ 20, trong lúc nền kinh tế của
Việt Nam còn chậm phát triển, mạng viễn thông hoàn toàn sơ khai và rất lạc hậu, Việt Nam
đã quyết định đi thẳng vào kỹ thuật số thông qua con đường mở rộng hợp tác quốc tế, thu
hút đầu tư nước ngoài, tiếp thu công nghệ mới để phát triển và mở rộng mạng viễn thông,
đồng thời đào tạo nguồn nhân lực tương ứng. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng được mạng
viễn thông rộng khắp có công nghệ hiện đại. Theo thống kê của Liên minh Viễn thông
quốc tế ITU trong giai đoạn 1998-2003, tăng trưởng thuê bao điện thoại cố định của Việt
Nam (20,3%) cao hơn nhiều so với mức trung bình của ASEAN (8,9%) và trong giai đoạn
2001-2003 tốc độ tăng trưởng mật độ người sử dụng Internet của Việt Nam (123,4%/năm)
cao nhất trong khu vực ASEAN. Tính đến đầu tháng 9 năm 2004, tổng số thuê bao điện
thoại (kể cả cố định và di động) hiện có trên mạng là 9.084.278 (Di động 42,27%, và cố
định 57,73%) đạt mật độ 11,21 máy/100 dân; l.436.417 thuê bao Internet (trong đó có
20.000 thuê bao băng rộng ở 26 tỉnh, thành phố); Mật độ người sử dụng Internet là 6,55%;
Dung lượng kênh Internet quốc tế đạt l.253 Mbit/s; Tỉ lệ số xã có điện thoại là 96,27%.
Một số ngành kinh tế trọng yếu như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, du lịch, viễn
thông, hàng không... đã có nhiều thành công do ứng dụng công nghệ thông tin. Khoảng
50% doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý sản xuất kinh doanh và
dịch vụ. Trên 30% doanh nghiệp có kết nối Internet, 10% có trang Web để phục vụ kinh

doanh, tiếp thị trong nước và quốc tế. ứng dụng công nghệ thông tin đã tương đối phổ biến
trong hệ thống các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, tại một số địa phương, trong quốc
phòng và an ninh. Hơn 50% bộ, ngành và hơn 80% tỉnh, thành phố trực thuộc đã có trang
Web, 3 tờ báo điện tử và hàng chục trang tin điện tử các loại cùng với việc truyền tín hiệu
truyền hình số qua Internet góp phần đáng kể vào công tác thông tin, tuyên truyền và đối
ngoại. Các trang tin điện tử của Đảng và Quốc hội được cập nhật thông tin thường xuyên,
chiếm được sự quan tâm của cả trong và ngoài nước.
Công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam phát triển với tốc độ trung bình 25%
năm. Tổng giá trị công nghiệp công nghệ thông tin năm 2003 vào khoảng 1,65 tỷ USD.
Trong đó, ước tính giá trị công nghiệp phần cứng máy tính đạt khoảng 850 triệu USD,
công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông đạt khoảng 180 triệu USD, công nghiệp điện tử
đạt khoảng 500 triệu USD, doanh thu sản phẩm và dịch vụ phần mềm đạt khoảng 120 triệu
USD. Công nghiệp nội dung thông tin đang hình thành và phát triển, phục vụ ngày càng có
hiệu quả mọi đối tượng trong nhân dân.
Công tác đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin đã có những chuyển biến tích cực,
góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động với tỷ lệ lao động tri thức ngày càng cao. Tính đến
năm 2004 đã có 62 cơ sở bậc đại học, 101 cơ sở bậc cao đẳng, 108 cơ sở bậc trung học
chuyên nghiệp thực hiện đào tạo chính qui về công nghệ thông tin và 69 cơ sở đào tạo phi
chính qui ở các trình độ khác nhau. Chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng về công nghệ
thông tin-truyền thông bình quân hàng năm tăng 50%, số sinh viên sau đại học tăng 30%.
100% trường đại học, cao đẳng, 93,48% trường trung học phổ thông đã nối mạng Internet.
Những kết quả ban đầu đạt được trong hoàn cảnh kinh tế của nước ta trong giai
đoạn chuyển đổi tuy còn ở mức thấp nhưng đã được các chuyên gia quốc tế đánh giá cao.
Trong những đánh giá tổng thể gần đây về mức độ sẵn sàng cho một xã hội kết nối mạng,
hay chiến lược phát triển một đất nước điện tử, Việt Nam đã được coi là một đất nước có
tiềm năng phát triển công nghệ thông tin-truyền thông hơn Lào, Campuchia, Mianma,
Indonesia và nhỉnh hơn cả Phillippines nước có thu nhập bình quân 3500 USD người/năm.

2.2. Những bước tiến nổi bật về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
các doanh nghiệp Việt Nam.

Tuy việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều
hạn chế, bất cập. Tuy nhiên, đã có những doanh nghiệp ứng dụng thành công và bước đầu
đem lại những thành quả rất đáng khích lệ. Sau đây là những dẫn chứng cụ thể về một số
doanh nghiệp đã ứng dụng thành công công nghệ thông tin vào quá trình sản xuất kinh
doanh.
VIETCOMBANK NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH TRONG HỘI NHẬP BẰNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Tại hội nghị Giám đốc năm 2002 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank), Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhận xét: Vietcombank hiện là ngân
hàng Việt Nam đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin ( CNTT), đã tạo ra nhiều
dịch vụ mới theo tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng cạnh tranh cao như dịch vụ thẻ tín
dụng, thẻ rút tiền tự động, hệ thống ngân hàng bán lẻ, ngân hàng điện tử.. Từ nâng cao
năng suất đến cung cấp các sản phẩm ngân hàng chất lượng cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của CNTT, ngay từ năm 1987, chương trình tin
học hoá ngân hàng của Vietcombank đã được triển khai. Ông Lê Đắc Cù - Chủ tịch Hội
đồng quản trị Vietcombank cho biết, ban đầu việc áp dụng công nghệ mới chỉ làm thay đổi
thao tác nghiệp vụ từ thủ công sang bằng máy, có ý nghĩa nâng cao năng suất lao động,
nhưng về sau, mỗi dịp đưa công nghệ mới vào vận hành là mỗi lần ngân hàng nâng cao
được cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại và cũng là dịp để Vietcombank đưa ra các sản phẩm
ngân hàng chất lượng cao phục vụ khách hàng. Năm 1993, Vietcombank áp dụng mạng
thanh toán liên ngân hàng nội bộ. Tháng 4-1994, tiếp tục áp dụng hệ thống quản lý vốn tập
trung trong toàn hệ thống. Tới tháng 3-1995, Vietcombank trở thành ngân hàng Việt Nam
đầu tiên áp dụng hệ thống thanh toán viễn thông toàn cầu (Swift Alliance). Với bước
chuyển mình đột phá này, Vietcombank đã được xếp vào một trong số ít các ngân hàng
trên thế giới đạt tỷ lệ 98% điện thanh toán đủ điều kiện xử lý tự động theo tiêu chuẩn của
các ngân hàng Mỹ, giúp Vietcombank duy trì thị phần thanh toán quốc tế 30% của cả nước
liên tục trong nhiều năm.
Không dừng ở đó, tháng 8-1999, Vietcombank đưa vào ứng dụng hệ thống Ngân
hàng bán lẻ VCB Vision 2010. Theo bà Nguyễn Thu Hà - Phó Tổng giám đốc
Vietcombank - đây là hệ thống "lõi" làm nền tảng để phát triển một loạt dự án công nghệ

ngân hàng theo định hướng tổng thể đến năm 2010, cung cấp cho khách hàng nhiều dịch
vụ chất lượng cao như quản lý vốn tự động (Sweep), chuyển tiền tự động (AFT), trả lương
tự động, gửi tiền một nơi rút nhiều nơi..., đồng thời hỗ trợ các dịch vụ trực tuyến, giúp
khách hàng "giao dịch một cửa".
Đi đầu trong công nghệ thẻ và ngân hàng điện tử
Tháng 5-2002, việc khai trương hệ thống ngân hàng trực tuyến (VCB-Online) và hệ
thống máy rút tiền tự động ATM (với khoảng 100 máy trên toàn quốc) đã mang lại tầm vóc
mới về công nghệ ngân hàng được áp dụng tại Vietcombank. Hai hệ thống này hỗ trợ cho
nhau, mang lại cho khách hàng nhiều tiện ích khi mọi giao dịch ngân hàng được thực hiện
tức thì (Real time), không cần phải qua một khâu trung gian nào. Khách hàng có thể tự
thực hiện các giao dịch như xem tài khoản, chuyển khoản, rút tiền... tại các máy ATM gần
nhất để sử dụng các dịch vụ tự động hoá có tính chính xác và bảo mật cao.
Trong khi đó, hệ thống giao dịch tự động (Connect 24) cho phép khách hàng giao dịch ở
bất cứ đâu. Đối với những khách hàng cần tiết kiệm thời gian và thích sử dụng công nghệ
cao, dịch vụ VCB – Online sẽ giúp khách hàng thực hiện giao dịch ngay tại công ty hay
nhà của mình thông qua hệ thống E – Banking hoặc mạng Internet. Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Lê Đức Thúy đánh giá, việc triển khai 2 dịch vụ này của Vietcombank đã đánh
dấu bước phát triển mới về “chất” trên con đường hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Việt
Nam.
Không chỉ đi đầu về ngân hàng điện tử, ngay từ những năm1996 - 1997,
Vietcombank đã thực hiện chủ trương phát triển công nghệ thẻ bằng việc đứng ra làm đại
lý phát hành và thanh toán 2 loại thẻ tín dụng quốc tế phổ biến trong giao dịch ngân hàng
trên thế giới là MasterCard và VisaCard. Mới đây, Vietcombank lại tiếp tục khai trương
dịch vụ thẻ tín dụng Vietcombank American Express (thẻ VCB Amex). Đây là loại thẻ tín
dụng quốc tế có nhiều tiện ích cho khách hàng, được chấp nhận thanh toán tại hàng triệu
điểm cung cấp hàng hoá, dịch vụ và có thể rút tiền từ hệ thống 500.000 máy rút tiền tự
động ATM ở hơn 200 quốc gia trên toàn thế giới.
Nâng cao "chất" công nghệ để trở thành hàng đầu trong khu vực .
Tính đến cuối năm 2002, tổng nguồn vốn của Vietcombank đã tăng gấp 5,2 lần so
với năm 1991, đạt gần 82.000 tỷ đồng. Với sự hỗ trợ có hiệu quả của các sản phẩm CNTT

ứng dụng trong hoạt động ngành ngân hàng, chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng tăng
trưởng mạnh mẽ và không ngừng được nâng cao. Vốn tín dụng của Vietcombank đã đến
với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, năm sau cao hơn năm trước. Dư nợ tín
dụng cuối năm 1991 đạt 2.017 tỷ đồng, đến cuối năm 2002, dư nợ đã đạt 29.295 tỷ đồng,
tăng 1.452% so với năm 1991. Cũng nhờ ứng dụng tốt CNTT, cơ cấu nguồn vốn của
Vietcombank đã được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng vốn Việt Nam đồng từ dưới
30% lên đến 32% trong năm 2002. Nếu như trước đây, Vietcombank chỉ chuyên doanh
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, thì nay đã chuyển dịch thành một ngân hàng đa năng, vừa
giữ thế mạnh trong cho vay bán buôn, vừa đẩy mạnh quan hệ tín dụng với khối doanh
nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp FDI. Với những thành công này, Vietcombank vừa
được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng ba trong dịp kỷ niệm 40 năm thành
lập vừa qua. Không chỉ được đánh giá cao trong nước, Vietcombank còn đang dần từng
bước tạo lập được uy tín trên thị trường quốc tế. Trong 3 năm 2000 - 2002, Vietcombank
liên tục được tạp chí The Banker - một tạp chí tài chính có uy tín lớn trong giới tài chính -
ngân hàng quốc tế bình chọn là "Ngân hàng tốt nhất" ở Việt Nam.

×