Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Lạm phát ở việt nam qua các giai đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.52 KB, 42 trang )

GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh

Lời mở đầu
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên đồng
loạt của giá cả và sự mất giá của tiền tệ. Nói đến lạm phát có thể có nhiều người
có cảm giác như quen thuộc và cho rằng đây là vấn đề đã gặp. Tuy nhiên, mặc dù
là vấn đề đã gặp nhưng khi gặp nó trở lại thì nhiều người cũng lại lúng túng và lo
lắng. Lạm phát mỗi lần xuất hiện lại mang theo một sức mạnh tàn phá tiềm ẩn,
làm rối loạn nền kinh tế, làm phức tạp xã hội, làm giảm sút mức sống của người
dân và có thể nếu ở một mức nào đó thì lạm phát gây ra rối ren chính trị xã hội.
Lạm phát là một phạm trù kinh tế vĩ mô, chứa đựng nội hàm phức tạp.
Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với các nền kinh tế phát triển theo cơ chế
thị trường, nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối, mất
cân đối giữa cung-cầu hàng hoá, mất cân đối giữa cung-cầu tiền tệ…. Lạm phát
là một vấn đề lớn, khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm
lý và sức lực của các nhà kinh tế, các nhà khoa học, các nhà chính trị và các nhà
quản lý lao tâm, khổ trí nhằm tìm ra các giải pháp kiềm chế nó để tránh hậu quả
do nó gây ra.
Những tưởng lạm phát cao ở Việt Nam đã đi vào dĩ vãng trong lịch sử
phát triển kinh tế và đến nay nền kinh tế nước ta đã bước vào thời kỳ ổn định,
hưng thịnh, mọi nghĩ suy không phải để lo chống lạm phát mà là để đề ra các giải
pháp, chính sách thúc đẩy nền kinh tế phát triền nhanh và ổn định. Tuy nhiên suy
nghĩ đó lạị chưa phù hợp. Một lần nữa phải quay trở lại thực tế tìm giải pháp
kiềm chế nguy cơ lạm phát đang tiềm ẩn.
Là một sinh viên đang trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu, do kiến thức
còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Mong được sự quan tâm,
đóng góp của cô và các bạn để đề án được hoàn chỉnh hơn
Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2


1


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh

Chương I: Tổng quan về lạm phát
1. Các quan điểm về lạm phát:
1.1. Quan điểm về lạm phát của Karl-Max và V.I.Lênin:
1.1.1. Quan điểm của Karl-Max:
Khi nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ, Karl-Max đã nhận thấy trong
mọi trường hợp quy luật lưu thông tiền tệ luôn được cân bằng. Đẳng thức:
MV=PQ luôn luôn xảy ra. Vì vậy nếu M tăng lên, giả sử V và Q cùng tăng một tỉ
lệ nên đã triệt tiêu lẫn nhau. Để cho dấu bằng xảy ra chỉ có cách giá cả P tăng lên
tương ứng, từ đó sẽ dẫn đến lạm phát. Vậy lạm phát là sự tự cân bằng của quy
luật lưu thông tiền tệ.
1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin:
Cùng với quan điểm của Karl-Max nhưng Lênin cho rằng sở dĩ khối lượng
tiền trong lưu thông tăng lên là do nhà cầm quyền phát hành thêm tiền để thoả
mãn nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước. LP là sự gia tăng khối lượng tiền
trong lưu thông do sự phát hành tăng thêm của bộ máy nhà nước cầm quyền.
1.2.Quan điểm về lạm phát của Milton-Friedman;
“Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ông cho rằng
nguồn gốc của mọi lạm phát là một tỉ lệ tăng trưởng cao của mức cung tiền. Điều
đó được chứng minh ở những hiện tượng sau:
- Khi lạm phát tăng cao thì mức tỉ lệ tăng trưởng của cung tiền cũng tăng
cao. Cụ thể là tình trạng lạm phát ở Đức 1921-1923.Năm 1923 tỷ lệ lạm phát ở
Đức là 1.000.000% và mức tăng lượng tiền cũng tương ứng.
- Trong những năm 80 của thế kỷ XX các nước châu Mỹ Latinh cũng lâm
vào tình trạng này: Argentina 10.000%, Bolivia 20.000% năm 1985.
Lưu ý rằng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng mức cung tiền được

xem xét trong trường hợp mức giá tiếp tục tăng với tỷ lệ nhanh. Do đó ý kiến của
Friedman thực tế cho rằng những biến động tăng lên trong mức giá cả là một
hiện tượng tền tệ chỉ khi nào những biến động tăng lên đó từ một quá trình kéo
dài.
1.3. Quan điểm về lạm phát của J.M.Keynes:
Theo Keynes ngoài nhân tố tiền tệ còn những nhân tố khác tác động đến
tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế vì thế có thể làm tăng giá cả hàng hoá, gây
ra lạm phát: chính sách tài chính, những cú sốc về cung, công ăn việc làm, thâm
hụt ngân sách….
Nói tóm lại ngày nay nền kinh tế hiện đại với nhiều nguyên nhân thúc đẩy
làm cho lạm phát ngày càng phức tạp và cần phải ngiên cứu nó trong mối quan
hệ với nhiều yếu tố khác nhau.
Một cách chung nhất, có thể phát biểu rằng: lạm phát là một hiện tượng
phức hợp đa nhân tố trong đó những yếu tố tiền tệ và những yếu tố khác đan xen
lẫn nhau làm cho lạm phát ngày càng phức tạp và khác xa hiện tượng ban đầu.
2. Các lý thuyết lạm phát:
2.1. Lý thuyết cầu kéo:
Lý thuyết này do J-M-Keynes nghiên cứu và đề xuất.
Từ những năm 30 của thế kỷ XX kinh tế tư bản lâm vào tình trạng khủng
hoảng nặng nề, đứng trước nguy cơ sụp đổ.
SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

2


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Nhà kinh tế học người Anh J.M.Keynes đã nghiên cứu và đưa ra những
luận giải cho vấn đề, thể hiện trong tác phẩm “Lý thuyết chung về tiền tệ, lãi suất
và nhân dụng” xuất bản lần đầu tiên năm 1936.
Theo Keynes nguyên nhân gây ra lạm phát là do cầu kéo, có thể chia

thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Sau thế chiến thứ nhất, nền kinh tế thế giới có sự hồi phục
nhanh chóng nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật và phương pháp quản lý hiện đại → sản
xuất tăng trưởng, hàng hóa dồi dào. Nhưng do tâm lý lo sợ chiến tranh mà nhu
cầu có khả năng thanh toán của người dân không đầy đủ. Mặt khác thị trường
chứng khoán đang phát triển thúc đẩy sự đầu tư vốn hơn là nhu cầu tiêu dùng,
điều này làm hàng hóa ế ẩm, cung vượt cầu gây ra khủng hoảng thừa.
Để giải quyết tình trạng này, Keynes đưa ra giải pháp kích cầu, cả cầu đầu
tư và cầu tiêu dùng, thông qua chính sách lãi suất và xây dựng nhà nước thượng
đế. Tình trạng cân bằng nền kinh tế được phục hồi.
- Giai đoạn 2: Khi nhu cầu tiêu dùng đã được kích lên hợp lý, thế chiến II
nổ ra càng làm cho tiêu dùng gia tăng trong khi sản xuất bị đình trệ do chiến
tranh → cầu> cung → giá cả tăng vọt, lạm phát bùng nổ.
2.2. Lý thuyết chi phí:
Do các nhà tư bản nghiên cứu trong giai đoạn cuộc đấu tranh giai cấp
bùng nổ khoảng giữa thế kỷ XX.
Nội dung chủ yếu:
- Do cuộc đấu tranh đòi tăng lương của giai cấp công nhân → chi phí tăng
→ lợi nhuận của nhà tư bản, buộc họ phải tăng giá.
- Giá tăng, tiền lương thực tế giảm, lại đòi tăng lương. Và cứ thế vòng
xoáy lương giá càng làm cho LP tăng cao.
2.3. Lý thuyết cơ cấu:
Được nghiên cứu ở những nước đang phát triển. Nội dung cơ bản:
Do những mất cân đối trong cơ cấu kinh tế làm cho nền sản xuất kém hiệu
quả → cung không đủ cầu → lạm phát.
Các mất cân đối chủ yếu được nêu ra như sau:
+ Mất cân đối giữa tích lũy thấp với mức đầu tư cao.
+ Mất cân đối giữa kinh tế nông nghiệp lạc hậu nhưng chiếm tỷ trọng cao.
+ Cơ cấu công nghiệp méo mó.
+ Cơ cấu ngoại thương bất hợp lý.

+ Cơ cấu tiêu dùng bất hợp lý.
2.4. Lý thuyết cấu tạo lỗ hổng:
Xuất phát từ các nước Xã hội Chủ nghĩa trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu
kinh tế. Nội dung:
Do những sai lầm cơ bản trong điều hành cơ chế kinh tế đã gây ra những
lỗ hổng nghiêm trọng nhưng được che đậy bởi sự bao cấp của nhà nước. Khi
chuyển đổi cơ chế kinh tế, những lỗ hổng này hiện ra buộc phải bù đắp bằng cách
phát hành tiền → lạm phát.
Những lỗ hổng cơ bản được xác nhận là:
- Chính sách bao cấp qua giá.
- Chính sách bao cấp qua tiền lương.
- Chính sách bao cấp qua tín dụng, tỷ giá, cấp vốn,…

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

3


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
- Chính sách kế hoạch hóa tập trung xa rời với những điều kiện thực tế.
3. Biểu hiện của lạm phát:
Khi lạm phát xảy ra sẽ có những biểu hiện rõ nét:
- Sự gia tăng giá cả hàng hoá, dịch vụ đồng loạt.
- Sự gia tăng khối lượng tín dụng.
- Tỷ giá hối đoái tăng cao.
- Giá cả các loại chứng khoán sụt giảm.
- Mọi thứ đều khan hiếm trừ tiền.
4. Đo lường lạm phát:
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa

trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao
động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Các giá cả của các loại hàng
hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá
cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm
phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này; để dễ hình dung có thể coi mức
giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích
thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong
chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.
Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
4.1. Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI: Consumor Price Index)
Chỉ số giá hàng tiêu dùng chỉ rõ mức giá hàng tiêu dùng tăng giảm như
thế nào của kỳ này so với kỳ trước. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến toàn thể công
chúng nên được sử dụng để biểu thị mức độ lạm phát.
* Cách tính:
- Chọn các mặt hàng tiêu dùng thuộc các nhóm sau: lương thực thực
phẩm, quần áo, nhà ở, chất đốt, vận tải, y tế.
- Thống kê tỷ trọng tiêu dùng của dân cư đối với từng nhóm.
- Chọn năm gốc.
- So sánh sự biến động giá của năm hiện hành với năm gốc, có tính đến
tầm quan trọng của từng nhóm hàng.
Có thể sử dụng công thức sau:
∑ Pit
CPIt.=
x Di
∑ Pi0
Trong đó : Pit là giá của mặt hàng i kỳ hiện tại
Pi0 là giá của mặt hàng i kỳ gốc
Di là tỷ trọng mặt hàng i trong tổng tiêu dùng

Với i từ 1 đến n. Tuỳ theo điều kiện và khả năng tính toán mà số lượng mặt hàng
lựa chọn nhiều hay ít.
Cách tính CPI như trên chỉ có ý nghĩa một cách tương đối, bởi vì nó chỉ
mới phản ánh được sự thay đổi về giá phản ánh qua đồng tiền. Trong thực tế giá
của hàng hoá còn thay đổi do nhiều yếu tố khác chứ không chỉ vì do đồng tiền
mất giá.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

4


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng giá hàng hoá:
- Sự thay đổi thói quen tiêu dùng: người tiêu dùng chọn mặt hàng cao cấp
hơn, giá đắt hơn.
- Sự phát triển kỹ thuật: sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao hơn, giá
đắt hơn.
- Sự tăng giá của các mặt hàng ngoại nhập do khan hiếm.
- Sự tăng giá của các công ty độc quyền.
4.2. Chỉ số giá hàng sản xuất (PPI: Producer Price Index)
Chỉ số này được tính theo mức giá bán ra lần đầu tại khâu sản xuất vì vậy
chỉ số này phản ánh chính xác hơn mức độ biến động của giá cả và dễ tính hơn.
Tuy nhiên PPI được sử dụng như một chỉ số tham khảo. Ta có PPI<=CPI.
4.3. Chỉ số giảm phát GNP:
Chỉ số này được xem là chính xác nhất để phản ánh mức độ lạm phát bởi
vì nó phản ánh toàn bộ giá cả của nền kinh tế.
GNP danh nghĩa
Chỉ số giảm phát GNP=
GNP thực tế

5. Các loại lạm phát:
5.1. Lạm phát vừa phải:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%
một năm. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa chênh lệch nhau không đáng kể,
đồng tiền giữ được giá trị của nó. Kế hoạch kinh tế tương đối ổn định, đồng tiền
giữ được giá trị của nó. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với
mức lạm phát này những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.
5.2. Lạm phát phi mã:
Tỷ lệ lạm phát ở mức từ 2 con số trở lên, giá cả biến động mạnh, lãi suất
thực tế âm. Mọi người không dám giữ tiền mà chuyển sang các dạng tài sản
khác: vàng, ngoại tệ mạnh, đất đai,... Các kế hoạch kinh tế phải tính thêm chỉ số
lạm phát.
5.3. Siêu lạm phát:
- Giá cả hỗn loạn, tỷ lệ lạm phát tăng nhanh chóng.
- Mọi thứ đều khan hiếm trừ tiền.
- Nền kinh tế suy sụp, sản xuất không thể thực hiện.
Điển hình là lạm phát ở Đức năm 1923, đầu năm giá một cốc nước là
1mac thì tháng 10/1923 là 192 triệu mac. Siêu lạm phát chỉ xảy ra trong và sau
chiến tranh.
Siêu lạm phát không thể tự khắc phục được, các công cụ tài chính không
thể áp dụng được, cần phải nhờ vào nguồn vốn từ bên ngoài.
6. Tác động của lạm phát :
6.1. Lạm phát tác động đến sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội:
Xuất phát từ sự khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của dân cư, khi
người sở hữu cầm trong tay một lượng tiền mặt, tiền gửi hay chứng khoán thì họ
bị thiệt, ngược lại nếu sở hữu vàng, ngoại tệ mạnh, đất… thì họ được tăng thêm
giá trị.
Những người cho vay với lãi suất cố định bị thiệt vì người đi vay trả cho
họ đồng tiền mất giá. Người làm công ăn lương thu nhập cố định cũng bị thiệt.


SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

5


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Vì vậy để giảm bớt tác động này, chính phủ thực hiện một số chính sách như: thả
nổi tiền lương, thả nổi lãi suất, bù giá vào lương.
6.2. Lạm phát tác động đến giá cả sản lượng và việc làm:
Lạm phát kéo dài làm cho lượng tiền cung ứng tăng liên tục, tổng cung
tiền tăng nhanh hơn tổng cầu, lượng tiền danh nghĩa tăng, lãi suất danh nghĩa
tăng, giá trị thực tế của đồng tiền giảm, giá cả mọi thứ tăng với tỉ lệ không bằng
nhau, nhanh nhất là hàng tiêu dùng và sản xuất.
6.3. Lạm phát tác động thói quen và nhu cầu chi tiêu:
Lạm phát xảy ra làm cho thói quen tiêu dùng thay đổi. Nhu cầu mua sắm
tăng nhanh hơn, V tăng nhanh. Mọi người không cầm giữ tiền trong tay mà
chuyển sang các dạng tài sản khác. Giá cả càng tăng nhanh chóng.
Trong giai đoạn đầu, lạm phát thúc đẩy tiêu dùng, tăng sản xuất nhưng chỉ
trong giới hạn. Khi lạm phát trở nên phi mã thì kinh tế đình trệ.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

6


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh

Chương II: Các giai đoạn lạm phát ở Việt Nam
1. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ trước đến 1997:
1.1. Giai đoạn khó khăn và đòi hỏi đổi mới ( trước 1989)

1.1.1. Lạm phát và tăng trưởng trong thời kỳ đầu của đổi mới:
Trước năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nằm trong tình trạng chiến tranh
và bị cách biệt với bên ngoài. Hai miền đất nước là hai nền kinh tế khác nhau.
Một bên là nền kinh tế thị trường tự do, bên kia là nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp. Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này nên
lạm phát hầu như chưa xuất hiện rõ nét.
Vào năm 1975, đất nước thống nhất, hai miền đất nước với hai hệ thống
kinh tế, chính trị hoàn toàn khác nhau đã sáp nhập thành một. Ở miền Nam với
nền kinh tế thị trường tự do tương đối phát triển với xuất khẩu phát triển. Đặc
điểm của nền kinh tế miền Nam lúc này là đô thị hóa, phát triển công nghiệp nhẹ
và nhập khẩu công nghiệp nặng. Trong khi đặc điểm nền kinh tế ở miền Bắc là
mang nặng tính kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp dựa chủ yếu vào viện
trợ, nhập khẩu hàng tiêu dùng và tập trung hóa cao tư liệu sản xuất. Do sự sáp
nhập hai nền kinh tế khác nhau dẫn đến tình hình mặc dù là nền kinh tế kế hoach
hóa tập trung nhưng vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường phát triển ngầm. Mặc dù
giá hàng hóa được nhà nước quy định cố định từ những năm 1960 và áp dụng
cho các hàng hóa phân phối theo kế hoạch và tem phiếu nhưng ngoài thị trường
ngầm vẫn tồn tại một loại giá khác cao hơn nhiều so với giá nhà nước quy định.
Hiện tượng lạm phát ngầm xuất hiện, hàng hóa phân phối theo định lượng ngày
một khan hiếm, giá cả thị trường ngày một tăng và nền kinh tế khủng hoảng trầm
trọng. Và thực tế là những khó khăn xuất hiện không thể khắc phục được nếu cứ
giữ nguyên mô hình kinh tế kiểu tập trung quan liêu bao cấp. Do đó, việc cải
cách nền kinh tế bắt đầu xuất hiện.
Khởi đầu quá trình cải cách kinh tế từ 1979-1985. Đã có nhiều cố gắng
đổi mới sự quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Vào cuối những năm 1979 đầu
1980, hàng loạt chính sách và biện pháp mới được áp dụng nhằm làm cải thiện
nền kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành nông, công nghiệp, nổi bậ như
hợp đồng khoán sản phẩm trong nông nghiệp, ba loại kế hoạch, trong đó kế
hoạch ba cho phép các doanh nghiệp được quyền tự do quyết định sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, những đổi mới này mới là những bước chập chững nữa vời

nên ngoài những mặt tích cực chúng còn mang lại, còn chứa đựng nhiều yếu kém
và mâu thuẫn. Do đó nền kinh tế vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn, lạm phát
phi mã đã xuất hiện ngày một trầm trọng, tỷ lệ lạm phát vào năm 1984 ở mức
164,9%, năm 1985 là 191,6%, còn tăng trưởng thì giảm sút trông thấy, năm 1984
khoảng 6% thì năm 1985 xuống khoảng 3%. Tăng trưởng và lạm phát thời kỳ
này có thể nói là không có mối quan hệ gắn bó nào bởi lẻ: những quy luật kinh tế
thị trường trong giai đoạn này chưa hoạt động đúng mà nhiều khía cạnh còn bị
bóp méo do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
Trong những năm tháng này, việc thống kê số liệu, tính toán tăng trưởng và lạm
phát căn bản vẫn sử dụng cách tính của hệ thống Xã hội Chủ nghĩa, cách tính
theo SNA chưa được áp dụng.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

7


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
1.1.2. Cải cách kinh tế và lạm phát phi mã những năm cuối thập kỷ 80
Sau năm 1985, cùng với sự cải tổ của Liên Xô, các nước Đông Âu Xã hội
Chủ nghĩa lần lượt bị sụp đổ, nguồn viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam cũng dần
bị cắt giảm mạnh làm cho giá cả đầu vào như: sắt thép, dầu hỏa, máy móc thiết
bị… nước ta phải mua với giá cao đưa đến chi phí sản xuất tăng lên, trong nước
thì thiếu tiền, Chính phủ chỉ còn cách in tiền để các xí nghiệp quốc doanh có tiền
mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất đưa đến nền kinh tế đã khó khăn kiệt kệ lại
càng khó khăn kiệt kệ hơn. Trước tình hình đó, vào tháng 9/1985, sau Hội nghị
Trung ương Tám khóa năm và Đại hội sáu của Đảng vào tháng 12/1986 đã khẳng
định tiếp tục tiến lên trên con đường đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới kinh tế.
Năm 1985 đã đổi mới chính sách tiền tệ và đổi tiền với tỷ lệ 10 đồng tiền cũ bằng
1 đồng tiền mới nhằm giảm bớt lượng tiền ngoài lưu thông. Đồng thời với sự đổi

tiền là xóa bỏ sự bao cấp hàng tiêu dùng và điều chỉnh tiền lương. Giá cả hàng
hóa nông nghiệp được tự do hóa theo thị trường và trong khu vực tư nhân sản
xuất nhỏ. Hơn nữa cơ chế hai giá dần dần được xóa bỏ, tiến tới giá cả được hình
thành và hoạt động trên cơ sở trao đổi thương mại. Vào giữa năm 1989, vai trò
của khu vực tư nhân được thừa nhận, những quy chế để thúc đẩy và giải phóng
mọi tiềm năng sản suất của khu vực tư nhân được ban hành. Vào những năm
1985-1989, mặc dù các doanh nghiệp tư nhân được phép thành lập và hoạt động
nhưng môi trường cho chúng sản suất kinh doanh chưa được hình thành. Trong
nhiều trường hợp, Trung ương thì khuyến khích khu vực tư nhân phát triển sản
xuất kinh doanh nhưng các địa phương thì cản trở, gây khó dễ đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Mặc dù nhu cầu hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước rất cao
nhưng thị trường trong nước lại cắt khúc và tình trạng ngăn sông cấm chợ được
tháo bỏ còn ít vì một số chính quyền địa phương lại không muốn bỏ ngăn sông
cấm chợ xuất phát từ lợi ích cục bộ của địa phương. Đồng thời ngoại thương
được tự do hóa rất ít, tình trạng khan hiếm ngoại hối tăng nhanh. Năm 1986 hầu
hết các nhà máy đều sản xuất theo kế hoạch và có ba ngân hàng thương mại làm
nhiệm vụ thụ động cung cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó,
Chính phủ lại in thêm một lượng tiền lớn đưa vào thị trường làm cho giá cả vốn
đã cao lại cao thêm đưa đến thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống một
cách đáng kể.
Trong nông nghiệp, còn nhiều điều bất cập trong cơ chế khoán sản phẩm,
mức đóng góp bắt buộc còn quá cao, phân bón và thuốc trừ sâu khan hiếm, giá cả
lương thực thực phẩm thấp, lượng lương thực dư thừa rất ít nên nhiều nông dân
không muốn tiếp tục tăng sản xuất của họ. Hơn nữa, bão lụt xảy ra ở một số vùng
địa phương dẫn đến sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, nạn đói xảy ra ở một số
nơi trên đất nước. Đến năm 1987, do thiên tai, sản lượng lương thực giảm 3,5%
và vào đầu năm 1988 một số vùng địa phương ở miền Bắc bị đói.
Với những hoàn cảnh nêu trên, nhân dân tích cực tích trữ hàng hóa lương
thực, vàng, đô la càng nhiều vì sợ đồng tiền Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu

giả tạo tăng cao, giá cả tăng vọt, tất cả những điều trên là nguyên nhân gây ra lạm
phát phi mã đến chóng mặt xuất hiện, trong khi tăng trưởng kinh tế thì giảm
xuống gần số không. Năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên đến 487,2%, năm 1987 là
301,3%, năm 1988 là 308,2%, đến năm 1989 tỷ lệ lạm phát ở mức 74,3%, trong

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

8


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
khi tăng trưởng kinh tế ở những năm này vào khoảng 1-2%. Trong giai đoạn
trước 1989, tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát luôn tăng ngược chiều nhau. Bên
cạnh sự đổi tiền là sự phát hành tiền ra để bù đắp thiếu hụt Ngân sách, giá cả thì
tự do, hàng hóa thì khan hiếm do sản xuất trong nước không tăng trong khi nhập
khẩu bị hạn chế do cơ chế xuất nhập khẩu chưa được tự do hóa. Như vậy, một
mặt tiền thì dư thừa trên thị trường, nhu cầu hàng hóa lại cao và cung hàng hóa
thì quá thấp đưa đến lạm phát tăng nhanh đến chóng mặt còn tỷ lệ tăng trưởng thì
không những không tăng chút nào cùng với tăng của tỷ lệ lạm phát mà lại thụt
lùi.
Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1986-1989
.
Đơn vị: %
1986
1987
1989
1988
Lạm phát
487.2
301.3

308.2
74.3
Tăng trưởng 3.4
3.9
5.1
8.0
1.2. Thời kỳ tăng trưởng kinh tế đi đôi với kiểm soát lạm phát ( sau 1989)
Trước tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát phi mã, nền kinh tế Việt Nam
được đẩy mạnh đổi mới thêm một bước nữa. Đã có nhiều nghiên cứu phân tích
tình hình kinh tế, tìm các nguyên nhân gây ra lạm phát để kiểm soát, về cơ bản
đến giai đoạn này đã tương đối rõ nét. Có rất nhiều nguyên nhân được nêu ra
như: sản xuất phát triển chậm; cơ cấu không hiệu quả, kỹ thuật và công nghệ lạc
hậu, năng suất lao động thấp; chi phí sản xuất cao; hậu quả của chiến tranh, sử
dụng không hiệu quả vốn viện trợ… và một nguyên nhân nổi bật đó là bơm tiền
vào lưu thông (lượng tiền phát hành vào lưu thông tăng lên đến chóng mặt: năm
1985 là 4,59 tỷ đồng thì năm 1989 là 901,63 tỷ đồng), nhiều quy luật kinh tế bị
méo mó không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Với sự nhận thức được những nguyên nhân nêu trên, hàng loạt biện pháp
đổi mới mạnh bạo hơn được áp dụng và đi vào cuộc sống. Trước tiên Chính phủ
thực hiện chính sách thắt chặt chi tiêu thể hiện ở việc Chính phủ giảm số quân
đội xuống còn một nửa, cắt giảm đáng kể chi tiêu quốc phòng; Chính phủ từng
bước xóa bao cấp, giải tán các doanh nghiệp Quốc doanh làm ăn không có lãi;
sắp xếp lại lao động, giảm biên chế; hoãn và chưa đầu tư vào các công trình lớn
chưa quay vòng vốn nhanh…. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước phải tự chủ
tài chính, tự hạch toán lỗ lãi. Xóa bỏ bao cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bao cấp của Chính phủ đối với hàng tiêu dùng cũng được bãi bỏ, tiền tệ hóa đối
với lương của cán bộ công nhân viên chức, xóa bỏ hệ thống tem phiếu và phân
phối theo định lượng. Tất cả các giải pháp trên góp phần đưa đến giảm thâm hụt
ngân sách đáng kể.
Bên cạnh thắt chặt chi tiêu của Chính phủ thì Nhà nước cải tiến hệ thống

thuế làm tăng thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) từ thuế. Cải cách hệ thống thuế
đảm bảo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế khác nhau và khuyến khích
các thành phần kinh tế khác nhau đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đổi mới
hệ thống thuế trong hai năm nguồn thu từ thuế đã tăng đáng kể: năm 1988 thu
được 455 tỷ đồng thì năm 1989 đã thu dược hơn gấp đôi năm 1988 (1043 tỷ
đồng).
SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

9


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Chính sách đầu tư cũng được đổi mới, Nhà nước chỉ đầu tư từ NSNN cho
những công trình đặc biệt quan trọng, có khả năng thu hồi vốn nhanh và có hiệu
quả kinh tế cao. Tất cả các dự án được thẩm định cẩn thận và quản lý quỹ đầu tư
trên cơ sở đấu thầu và cạnh tranh.
Vào giữa năm 1989, hệ thống hai giá được bãi bỏ, về cơ bản giá cả của
hàng hóa và dịch vụ được dựa trên cơ sở giá cả thị trường. Thị trường hàng hóa
tiêu dùng được chuyển từ thị trường của người bán sang thị trường của người
mua và giá cả trở thành yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh.
Trong năm 1990, Chính phủ tiếp tục thực hiện cải cách giá trên cơ sở
thương mại hóa giá cả trong các lĩnh vực giao thông, vận tải, bưu chính viễn
thông và năng lượng. Thêm vào đó là sự loại bỏ tất cả những cản trở, ngăn sông
cấm chợ trong lưu thông hàng hóa và đọc quyền trong giá cả đưa đến hàng hóa
được lưu thông thông suốt, giá cả dần dần phản ánh đúng cung cầu thị trường và
sự khan hiếm tương đối của hàng hóa và dịch vụ. Với những biện pháp trên đã
tạo ra sự ổn định giá cả, góp phần đáng kể trong kiềm chế lạm phát.
Biểu 2: Tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát của nước ta trong những
năm 1991-1996
Đơn vị: %

1991
1992
1993
1994
1995
1996
Tốc độ tăng
6,0
8,65
8,07
8,5
9,5
9,34
trưởng kinh tế
Tỷ lệ lạm phát 67,6
17,6
5,2
14,4
12,7
4,5
Bên cạnh các giải pháp thắt chặt chi tiêu của Chính phủ và tự do
hóa giá cả, Nhà nước đã tiến hành cải cách trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng. Chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng. Trước tiên là kiểm soát
chặt chẽ lượng tiền cung ứng, khống chế tổng phương tiện thanh toán, giảm dần
việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt NSNN và đến năm 1991, thâm hụt Ngân
sách được trang trải toàn bộ bằng việc phát hành trái phiếu thay vì in tiền thêm.
Ví dụ năm 1988, phát hành tiền để bù đắp thâm hụt NSNN chiếm 67,3% số thâm
hụt thì năm 1989 tỷ lệ này giảm xuống còn 58,7%, năm 1990 là 47,9%, năm
1991 thì ngừng hoàn toàn. Tiếp theo đó là giải pháp thắt chặt tín dụng đối với các
doanh nghiệp Nhà nước.

Cải cách kinh tế đã được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế. Doanh
nghiệp Nhà nước đã được tư nhân hóa một phần, nhiều doanh nghiệp quốc doanh
cấp quận, huyện, tỉnh phải giải thể do làm ăn không có hiệu quả và lỗ vốn. Kinh
tế hộ gia đình được khuyến khích phát triển không chỉ trong nông nghiệp mà
trong cả các ngành kinh tế khác. Sản xuất trong nền kinh tế được đa dạng hóa.
Bên cạnh đó là các biện pháp tự do hóa ngoại thương được áp dụng. Các rào cản
thương mại được bãi bỏ và đặc biệt thương mại ở biên giới Việt-Trung được
thông thương không chỉ làm tăng khối lượng hàng hóa xuất khẩu mà còn tăng
lượng hàng hóa. Kết quả hàng hóa không còn khan hiếm trên thị trường, cầu
hàng hóa được đáp ứng không còn gay gắt như trước, đưa đến lạm phát giảm
đáng kể.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

10


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Năm 1991, tỷ lệ lạm phát còn là 67,5% thì năm 1992 tỷ lệ này đã giảm
xuống chỉ còn 17.6% và đăc biệt năm 1993 tỷ lệ lạm phát không chỉ dưới một
con số mà chỉ ở mức 5,2%, một con số trước đó chưa hề có. Những năm trước đó
tỷ lệ lạm phát tăng cao (ví dụ: năm 1984 tỷ lệ lạm phát là 164,4%, năm 1985 tỷ lệ
này là 191,6%, năm 1986: 487,2%, năm 1987: 301,3%, năm 1988: 308,2%, năm
1989: 74,3% và năm 1990: 12,9%). Như vậy trong giai đoạn này nhờ kiểm soát
được lạm phát nên tỷ lệ tăng trưởng kinh tế mới được tăng lên, tốc độ tăng
trưởng kinh tế được ổn định, tăng từ 6% năm 1991 lên 8,65% năm 1992, 8,07%
năm 1993, 8,5% năm 1994, 9,5% năm 1995.
1.3. Thời kỳ lạm phát được kiểm soát (1996)
Trong hai tháng đầu năm 1996, lần đầu tiên sau hơn 10 năm đổi mới giá
cả thị trường nước ta đã giữ được tốc độ tăng thấp, trong tháng 1 chỉ ở mức 1%

(năm 1991 tăng 13,2%, năm 1992 tăng 4,5%, năm 1993 tăng 1,7%, năm 1994
tăng 1,8%, năm 1995 tăng 3,8%). Tháng 2 tuy Tết nguyên đán năm 1996 đến
muộn hơn mọi năm, giá cả tập trung tăng ở tháng 2, song so với các năm trước,
tốc độ trượt giá vẫn thấp hơn nhiều, chỉ ở mức 2,5% (năm 1991 tăng 8,7%, năm
1992 tăng 5,5%, năm 1994 tăng 3,7%, năm 1995 tăng 3,4%). Từ tháng 5 đến
tháng 8 giá liên tục giảm (tháng 5 giảm 0,5%, tháng 7 giảm 0,7%, tháng 8 giảm
0,4%)
Diễn biến của tình hình giá cả và kết quả kiềm chế lạm phát trong năm
1996 là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Chỉ thị 43/TTg ngày 22 tháng 1 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ đã
đề ra các biện pháp kiềm chế lạm phát kiên quyết, toàn diện và đồng bộ, được
các Bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả.
- Sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì ở mức độ cao. Giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp tăng 14,1% so với năm 1995, trong đó khu vực Nhà nước
tăng 11,7%, khu vực ngoài quốc doang tăng 12,4%, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tăng 21,4%. Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp tăng 4,9% so với năm
1995. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 29 triệu tấn, tăng 1,5 triệu tấn so với
năm trước và vượt kế hoạch 1 triệu tấn.
- Hàng hóa trên thị trường tăng nhanh đáp ứng mọi nhu cầu của các tầng
lớp nhân dân, trong đó có nhiều mặt hàng cung vượt cầu như xi măng, sắt
thép….Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường xã hội tăng 18,4%
so với năm 1995.
- Việc nhập khẩu hàng hóa nhất là hàng tiêu dùng theo hình thức mở L/C
trả chậm tăng nhanh đã gây nhiều tiêu cực cho nền kinh tế, đặc biệt ở các thành
phố lớn và các trung tâm công nghiệp.
- Tiếp tục thực thi chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ đã được áp dụng
kiên quyết ngay từ 6 tháng cuối năm 1995 và những tháng đầu năm 1996, trong
đó khống chế mức tăng tổng phương tiện thanh toán (6 tháng đầu năm 1996 tổng
phương tiện thanh toán chỉ tăng 9,6% so với tháng 12 năm 1995), khống chế dư
nợ cho vay tín dụng Ngân hàng, điều hành tỷ giá linh hoạt, giữ mức bội chi Ngân

sách đã được Quốc hội cho phép.
- Giá cả thị trường thế giới biến động theo chiều hướng giảm đối với
nhiều loại hàng cũng ảnh hưởng đến mặt bằng giá trong nước ta. Việc hòa nhập

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

11


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
với các nước trong khu vực cũng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ở
nước ta.
Trong 4 tháng giữa năm 1996, giá giảm liên tục, dấu hiệu thiểu phát xuất
hiện làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh.Trước tình hình đó Chính phủ
đã đề ra một số chính sách kích cầu nhưng kết quả đạt được còn hạn chế là do
một số nguyên nhân sau đây:
- Hiện tượng giảm giá đã được phát hiện sớm ngay từ tháng 5/1996 nhưng
các biện pháp “kích cầu” như đẩy mạnh chi đầu tư xây dựng cơ bản, phát hành
tiền mua ngoại tệ, nới lỏng hạn mức tín dụng, hạ lãi suất vay vốn Ngân hàng,
điều chỉnh giá xăng dầu… mãi tới tháng 8 mới được triển khai.
- Sức mua của xã hội tăng chậm do thu nhập của nông dân bị ảnh hưởng
bởi giá lương thực trong các tháng giữa năm giảm khá mạnh trong khi giá các
hàng hóa khác vẫn tăng lên. Nhiều khoản chi Ngân sách không bảo đảm theo dự
kiến vì nguồn thu gặp nhiều khó khăn. Lương thực tế của cán bộ công nhân viên
giảm trên 30% so với năm 1993 do trượt giá cũng là nguyên nhân quan trọng làm
giảm sức mua.
Qua thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta trong những năm trước
1997 có thể kết luận:
- Nền kinh tế phát triển theo hướng ngày một tốt hơn, tình hình kinh tế
lạm phát phi mã đã được khống chế và chặn đứng với một kết quả ngoạn mục

trong 10 năm từ 1986 đến 1996 (từ 487,2% năm 1986 xuống còn 4,5% năm
1996)
- Tăng trưởng kinh tế đã đạt được tốc độ cao đáng tụ hào (từ 0,3% năm
1986 lên 9,34% năm 19996)
- Kinh nghiệm chống lạm phát ở Việt Nam trong 10 năm 1986-1996 là
một bài học bổ ích quý báu cho không chỉ bản thân nước ta trong giai đoạn phát
triển sau này mà còn bổ sung vào kinh nghiệm chống lạm phát của quốc tế.
- Kết quả chống lạm phát thành công sẽ được duy trì lâu dài nếu không có
sự khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á tác đọng vào cuối năm 1996
đầu năm 1997 có ảnh hưởng không tốt đối với nền kinh tế nước ta.
2. Thời kỳ thiểu phát 1997-2003:
2.1. Tổng quan tình hình thiểu phát:
Bước vào năm 1997 tình hình lạm phát chuyển sang thiểu phát. Tình hình
lạm phát tháng 1 năm 1997 ở mức 0,8%, tháng 2 lạm phát 2,6% nhưng đến hết
tháng 3 năm 1997 chỉ số giá chỉ ở mức 2,1% giảm 0,5% so với 2 tháng đầu năm.
Tiếp theo đó tỷ lệ lạm phát cứ giảm và ở mức không tăng nên mãi đến tháng 10
năm 1997, tỷ lệ lạm phát 10 tháng cũng chỉ ở mức 2,3% , đến tháng 11 và 12 tỷ
lệ lạm phát mới nhích lên chút ít (ở mức 2,6% và 3,6%). Chỉ số giá lương thực
hầu như không tăng mà giảm liên tục so với tháng 12 năm 1996, chỉ đến tháng 12
năm 1997 chỉ số giá lương thực mới nhích lên 0,4% so với tháng 12 năm 1996.
Tỷ lệ lạm phát năm 1997 tăng lên chủ yếu là do chỉ số giá dịch vụ và hàng công
nghiệp.
2.2. Thời kỳ khởi đầu thiểu phát (1997)
Trong tháng đầu năm, chỉ số giá tăng ở mức thấp nhất từ trước tới
năm1997: 0,8% (năm 1991 tăng 13,2%, năm 1992 tăng 4,5%, năm 1993 tăng
1,7%, năm 1994 tăng 1,8%, năm 1995 tăng 3,8%, năm 1996 tăng 0,9%). Tháng 2

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

12



GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
tuy vào dịp Tết Nguyên đán, giá cả thường tập trung tăng ở tháng 2 song do với
các năm trước, tốc độ trượt giá thấp hơn nhiều chỉ ở mức 2,6% (năm 1991 tăng
8,7%, năm 1992 tăng 5,5%, năm 1994 tăng 3,7%, năm 1995 tăng 3,4%, năm
1996 tăng 2,5%). Từ tháng 3 đến tháng 5 giá liên tục giảm ngay (tháng 3 chỉ số
giá giảm 0,5% so với tháng 2, tháng 4 chỉ số giá giảm 0,6% so với tháng 3 và
tháng 5 chỉ số giá này giảm 0,5% so với tháng 4 và các tháng sau đó chỉ số giá có
nhích lên nhưng không đáng kể) có lợi cho người tiêu dùng nhưng cũng có phần
ảnh hưởng không tốt đến sản xuất kinh doanh. Chỉ số giá so với tháng 12 năm
1996 tăng không cao, đến hết tháng 8 chỉ số giá này là 1,4%). Chỉ số giá chỉ tăng
tương đối cao vào tháng cuối năm: tháng 12 tăng 1%.
Nguyên nhân của tình hình giá cả và kiềm chế lạm phát trong năm 1997:
- Với những kinh nghiệm kiềm chế lạm phát trong các năm trước đã tạo
điều kiện cho việc chỉ đạo kiềm chế lạm phát đã được triển khai và theo dõi sát
sao.
- Sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì ở mức độ cao. Giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp tăng 13,2% so với năm 1996 trong đó khu vực Nhà nước tăng
11%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 20,6%. Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp tăng 4,6% so với năm 1996.
Đặc biệt sản lượng lương thực quy thóc đạt 30,6 triệu tấn và xuất khẩu được 3,5
triệu tấn gạo. Đây là năm bội thu đã góp phần làm giá cả tăng thấp.
- Nguồn hàng hóa trên thị trường tăng nhanh, đáp ứng mọi nhu cầu của
các tầng lớp nhân dân.
- Tốc độ tăng của xu hướng xuất khẩu có xu hướng chậm lại (năm 1997
tăng 22% trong khi năm 1995 tăng 34,4% và năm 1996 tăng 33,2%) là một trong
các yếu tố làm giảm giá trên thị trường trong nước.
-Tiếp tục thực thi chính sách tài chính tiền tệ chặt chẽ trong đó khống chế
mức tăng tổng phương tiện thanh toán (quý I năm 1997 tổng phương tiện thanh

toán chỉ tăng ở mức 7% so với cuối năm 1996), dư nợ cho vay tín dụng Ngân
hàng, điều hành tỷ giá linh hoạt, giữ mức bội chi Ngân sách đã được Quốc hội
cho phép.
- Giá cả thị trường thế giới biến động theo chiều hướng giảm đối với
nhiều loại hàng cũng ảnh hưởng đến mặt bàng giá trong nước ta.
Ngoài những nguyên nhân tích cực đối với việc kiềm chế lạm phát, việc
giảm giá liên tục trong các tháng giữa năm có ảnh hưởng phần nào đến sản xuất,
kinh doanh là do một số nguyên nhân sau:
- Hiện tượng giảm giá đã được phát hiện sớm ngay từ tháng 3/1997 nhưng
các biện pháp “kích cầu” như đẩy mạnh chi đầu tư xây dựng cơ bản, phát hành
tiền mua ngoại tệ, nới lỏng hạn mức tín dụng, hạ lãi suất vay vốn Ngân hàng,
điều chỉnh giá xăng dầu… mãi tới tháng 5 mới được triển khai.
- Sức mua của xã hội tăng chậm do thu nhập của nông dân bị ảnh hưởng
bởi giá lương thực trong các tháng giữa năm giảm khá mạnh trong khi các hàng
hóa khác vẫn tăng lên. Nhiều khoản chi Ngân sách không bảo đảm theo dự kiến
vì nguồn thu gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù có những tháng giá giảm liên tục trong năm ảnh hưởng phần nào
đến sản xuất kinh doanh song nhìn chung kết quả là tích cực. Với tăng trưởng

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

13


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
kinh tế cao (9%) và lạm phát thấp (3,6%) đã góp phần quan trọng vào việc ổn
định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
2.3. Thời kỳ chịu tác động khủng hoảng kinh tế khu vực (1998)
Bước sang năm 1998 đã có nhiều thay đổi về tình hình kinh tế xã hội, do
vậy tình hình lạm phát cũng đã có nhiều biến đổi, tỷ lệ lạm phát thấp và kéo theo

đó là tình hình tăng trưởng kinh tế có chiều hướng không thuận lợi. Những yếu tố
tích cực kiềm chế lạm phát như:
- Sản suất trong nước đã từng bước đi vào ổn định và phát triển. Nhiều
doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài sau một số năm xây dựng nay đã đi vào hoạt động.
- Một số chủ trương, biện pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng
và Nhà nước đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Các chủ trương triệt để
tiết kiệm và tham nhũng do Quốc hội đề ra sẽ góp phần làm cho lạm phát giảm.
- Trong năm này, hoạt động thương mại và dịch vụ trên thị trường trong và
ngoài nước đã đạt được nhiều kết quả tốt. Việc điều hành cung cầu hàng hóa,
dịch vụ, giá cả thị trường đến thời kỳ này chúng ta đã tích lũy được nhiều kinh
nghiệm.
- Nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của nhân dân sau một số năm tăng mạnh
nay đã có xu hướng chuyển dần từ lượng sang chất.
- Công tác điều hành chống lạm phát được chuẩn bị chu đáo, được chỉ đạo
sát sao, nên khi triển khai thực hiện đã bớt lúng túng bị động.
Bên cạnh những yếu tố tích cực kiềm chế lạm phát, ngay từ đầu năm đã có
nhiều yếu tố tác động làm cho giá tăng lên và tình hình lạm phát có biến chuyển
không tốt như:
- Trong năm 1998, tình hình khủng hoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam Á
và các nước Đông Bắc Á đã lan rộng và là một nguy cơ đe dọa sự ổn định của
nền kinh tế nước ta.
- Những giải pháp kích cầu trong năm 1997 như: tăng vốn cho đầu tư xây
dựng cơ bản, bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước, cho vay thu
mua lương thực một lượng khá lớn tiền mặt, cho vay vốn tín dụng trung và dài
hạn theo dự án chỉ định của Chính phủ, cho các dự án do Ngân hàng tự chọn vay
một lượng tiền khá lớn. Hơn nữa một lượng tiền khá lớn được đưa ra thi trường
qua kênh cho vay để khắc phục hậu quả của cơn bão ở các tỉnh phía Nam. Những
điểm trên đã là nguồn tiềm ẩn gây ra lạm phát cao.
- Năm 1997, tổng phương tiện thanh toán tăng 28,6% so với 31/12/1996,

vượt kế hoạch đề ra, nhưng chủ yếu tăng vào sáu tháng cuối năm. Nếu sáu tháng
đầu năm 1997, tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng 5,1% thì sáu tháng cuối năm
1997 tổng phương tiện thanh toán tăng 22,3%. Điều này cho thấy một lượng tiền
lớn đã tăng nhanh trong cuối năm 1997 đã gây ra lạm phát vào đầu năm 1998.
- Tiền gửi tiết kiệm bằng đồng cả năm 1997 tăng 7.7% so với tháng
12/1996, trong đó sáu tháng cuối năm chỉ tăng 1,6% trong khi tiền gửi bằng
ngoại tệ cả năm tăng 120,3% và sáu tháng cuối năm 1997 tăng 49,4%.
- Dư nợ cho vay nền kinh tế cả năm 1997 tăng 29,2% chủ yếu dồn vào các
tháng cuối năm (sáu tháng cuối năm tăng 21,9%) trog đó cho vay trung và dài

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

14


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
hạn cả năm tăng 78% và sáu tháng cuối năm tăng 51,1% đã tác động đẩy giá tăng
lên.
- Tình hình tỷ giá tăng nhanh trong các tháng cuối năm1997 làm cho giá
hàng nhập khẩu tăng lên, giá nguyên vật liệu phục vụ sản xuất tăng làm tăng giá
thành và giá bán lên.
- Năm 1997 mặc dù nền kinh tế vẫn phát triển ở tốc độ cao nhưng chứa
đựng khả năng chững lại làm cho năm 1998 tình hình hàng hóa giảm sút trông
thấy.
- Việc tăng cường chống buôn lậu, chiến dịch dán tem hàng nhập cũng
đang tạo ra tăng giá một số mặt hàng như: rượu, thuốc lá, xe đạp, dược phẩm…
- Hậu quả cơn bão ở các tỉnh phía Nam cuối năm 1997 đã đòi hỏi một
lượng kinh phí lớn từ NSNN, ngân hàng và xã hội để khắc phục nên đã góp phần
đẩy giá hàng hóa tăng lên.
Như vậy năm 1998, tỷ lệ lạm phát tăng cao (8,6%) nhưng tăng trưởng thụt

lùi là do tác động của cuộc khủng hoảng khu vực và sự điều chỉnh tỷ giá. Chỉ số
giá lương thực trong năm 1998 tăng nhanh ở mức 23,1%. Tỷ lệ lạm phát 3 tháng
đầu năm 1998 là 2,9% thì chỉ số giá lương thực là 5,2% và bốn tháng đầu năm
1998 khi chỉ số giá lương thực tăng gần gấp 2 so với 3 tháng thì tỷ lệ lạm phát
cũng tăng lên gần tương ứng ở mức 4,5%. Các tháng trong năm 1998, tỷ lệ lạm
phát hầu như tăng dần đều trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thì giảm giần đều.
2.4. Thời kỳ thiểu phát bắt đầu (1999-2003)
Diễn biến tình hình giá hàng hóa và dịch vụ trên thị trường xã hội trong 7
tháng đầu năm 1999 và so với các năm trước đó cho thấy một số nét nổi bật đáng
chú ý sau:
- Trong 7 tháng đầu năm 1999, tình hình giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
giảm liên tục, tháng 3 chỉ só giá giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,6%, tháng 5 giảm
0,4%, tháng 6 giảm 0,7% và tháng 7 giảm 0,4%. Kết quả chỉ số giá 7 tháng đầu
năm 1999 chỉ ở mức 1,2% đến hết năm 1999 chỉ số giá chỉ ở mức 0,1%.
- Tình hình giá cả 7 tháng đầu năm 1999 có dấu hiệu khác so với các năm
trước đó, năm 1998 mặc dù các tháng giữa năm chỉ số giá cũng có giảm nhưng
thường không giảm đều mà có tháng giảm tháng tăng, như tháng 3 giảm 0,8%,
thì tháng 4 tăng 1,6%, tháng 5 tăng 1,4%, tháng 6 không tăng, tháng 7 giảm 0,5%
và chỉ số giá 7 tháng là 5,6%.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

15


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Biểu 3: Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 năm 1999
Đơn vị: %
So với tháng 12/1998
Chỉ số giá tiêu dùng

101,2
I. Lương thực- thực phẩm
100,4
Trong đó: 1. Lương thực
93,8
2. Thực phẩm
104,0
II. Đồ uống và thuốc lá
101,6
III. May mặc, mũ nón và giày dép
101,8
IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng
101,0
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
102,9
VI. Dược phẩm, y tế
103,6
VII. Phương tiện đi lại, bưu điện
101,4
VIII. Giáo dục
103,1
IX. Văn hóa, thể thao giải trí
101,7
X. Hàng hóa và dịch vụ khác
102,1
Chỉ số giá vàng
94,0
Chỉ số giá đô la Mỹ
100,2
- Nếu so với các năm trước đó thì 7 tháng đầu năm 1999, chỉ số giá ở mức

thấp nhất từ trước tới đó: năm 1991 chỉ số giá 7 tháng đầu năm tăng 35,6%, năm
1992 tăng 13,6%, năm 1993 tăng 3,9%, năm 1994 tăng 7,2%, năm 1995 tăng
11,4%, năm 1996 tăng 2,6%, năm 1997 tăng 1,3% và năm 1998 tăng 5,6%. Chỉ
số giá lương thực-thực phẩm 7 tháng đầu năm 1999 tăng chỉ 0,4% trong khi chỉ
số giá này ở các năm trước tăng cao: năm 1992 tăng 8,2%, năm 1993 tăng 8,1%,
năm 1994 tăng 12,4%, năm 1995 tăng 18,5%, năm 1996 tăng 2,9%.
- Ngoài giá lương thực 7 tháng giảm 6,2% và giá vàng giảm 6% còn giá
các loại mặt hàng khác đều tăng vừa phải như giá thực phẩm tăng 4%, giá các
mặt hàng dược phẩm y tế tăng 3,6%, giáo dục tăng 3,1%.... Mức tăng này tương
ứng với dự kiến mức lạm phát chung cả năm. Nếu so với các năm thì giá các mặt
hàng phi lương thực tăng không thấp quá so với các năm trước đó: năm 1992 giá
hàng hóa, dịch vụ 7 tháng tăng 11,4% và 27,1%; năm 1993 chỉ số giá này tăng
3% và 10,1 %; năm 1994 tăng 7,4% và 6,9%; năm 1995 tăng 12,1% và 7,2%;
năm 1996 tăng 2,1% và 5,2%; năm 1997 tăng 0,3% và 6,1%.
- Giá vàng giảm liên tục và 7 tháng chỉ số giá giảm 6%, giá đô la Mỹ khá
ổn định và 7 tháng chỉ tăng 0,2%.
Trong các năm từ 1999 đến 2003 đã diễn ra ở mức thấp và dấu hiệu thiểu
phát kéo dài đến hết năm 2000, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế có đi lên, chấm dứt
thời kỳ tốc độ tăng trưởng kinh tế đi xuống. Chỉ số giá tiêu dùng các tháng ở các
năm 1999, 2000, 2001, 2002 và 2003 (tháng sau so với các tháng) là rất thấp.
Năm 1999, chỉ số này hầu như là âm, chỉ có tháng 1 đạt 1,7%, tháng 2 đạt 1,9%,
tháng 11 là 0,4% và tháng 12 là 0,5%, tỷ lệ lạm phát cả năm là 0,1% là số đặc
biệt thấp so với các năm trước đó. Kéo theo tỷ lệ lạm phát thấp là tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 1999 cũng chỉ đạt ở mức 4,77% (trong đó: nông-lâm nghiệp
và thủy sản tăng 5,23%, công nghiệp và xây dựng tăng 7,68% và dịch vụ tăng
2,25%)
SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

16



GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Tình hình lạm phát năm 2000 cũng ở mức thấp, tính lũy kế từ đầu năm tỷ
lệ lạm phát chỉ có 4 tháng là dương (tháng 1 năm 2000 là 0,4%, tháng 2 là 2%,
tháng 3 là 0,9%, tháng 4 là 0,2%) và 8 tháng là âm (tháng 5 là -0,4%, tháng 6 là
-1,0%, tháng 7 là -1,6%, tháng 8 là -1,5%, tháng 9 là -1,7%, tháng 10 là -1,6%,
tháng 11 là -0,7% và tháng 12 là -0,6%).
Biểu 4: Tỷ lệ lạm phát năm 2001-2003
Đơn vị: %
Tháng/Năm
2001
2002
2003
1
0,3
1,1
0,9
2
0,4
2,2
2,2
3
-0,7
-0,8
-0,6
4
-0,5
0,0
0,0
5

-0,2
0,3
-0,1
6
0,0
0,1
-0,3
7
-0,2
-0,1
-0,3
8
0,0
0,1
-0,1
9
0,5
0,2
0,1
10
0,0
0,3
-0,2
11
0,2
0,3
0,6
12
1,0
0,3

0,8
Diễn biến của giá cả và tình hình thiểu phát năm 1999 và các năm sau đến
2003 có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra ở khu vực và trên thế giới
làm cho nhu cầu tiêu thụ hàng hóa trên thị trường thế giới có giảm đi. Nhu cầu
nhập khẩu hàng hóa của nhiều nước đã giảm xuống đáng kể đưa đến xuất khẩu
hàng hóa trong nước ta bị tác động không tốt. Đi cùng với xuất khẩu không thuận
lợi là hàng hóa tồn đọng lại trong nước tăng lên và kết quả của nó là tiêu thụ
hàng hóa trên thị trường trong nước tăng chậm và giá cả hàng hóa giảm.
- Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra ở khu vực và
trên thế giới đã làm cho FDI, du lịch và các loại hình dịch vụ vào nước ta giảm
sút cũng làm giảm đáng kể nhu cầu hàng hóa.
- Sau một số năm đổi mới mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp
trong nước mặc dù còn nhiều yếu kém nhưng cũng đã đi vào sản xuất kinh doanh
tương đối ổn định và đã tạo ra sản phẩm cho thị trường, góp phần đáng kể làm
tăng cung hàng hóa trên thị trường.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau một số năm xây dựng
nay cũng đã đi vào hoạt động tạo thêm sản phẩm cho thị trường nhưng xuất khẩu
khó khăn nên đều có xu hướng tiêu thụ trên thị trường nội địa đã làm cung hàng
hóa đã cao nay lại cao hơn.
- Nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của nhân dân su một số năm tăng mạnh
nay đã có xu hướng chuyển dần từ lượng sang chất cũng đưa đến sự tiêu thụ hàng
hóa chậm lại. Bên cạnh đó người dân ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa,
thu nhập thấp nên sức mua cũng giảm.
- Để khắc phục tình hình thiểu phát Chính phủ đã có hàng loạt biện pháp
khắc phục nhưng do có sự chậm trễ của việc triển khai nên các giải pháp này đi
SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

17



GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
vào cuộc sống chưa được như mong muốn như: triển khai chậm việc đưa thêm
vốn tín dụng đầu tư vào thị trường, giải ngân chậm lượng ngoại tệ dành cho các
dự án vay và tồn đọng lớn một lượng lớn tiền của Kho bạc Nhà nước tại Ngân
hàng. Trong 7 tháng đầu năm 1999, lượng tiền này tăng 82,75% và tháng 7 tăng
3,3% so với tháng 6. Đây là dấu hiệu không tốt thể hiện sự cấp phát chậm, tiền
thì ứ đọng trong tay Nhà nước còn ngoài thị trường thì thiếu phương tiện thanh
toán. Đến 15/07/1999, chi NSNN mới đạt 51,1%.
- Trong 7 tháng đầu năm 1999, lượng vốn huy động qua hệ thống Ngân
hàng cũng tăng cao (14,58%) so với 31/12/1998, nhưng lượng vốn cho vay ra
tăng chậm (7,29%) đưa đến tổng phương tiện thanh toán trong 7 tháng chỉ tăng
9,51% bằng 50% so với kế hoạch đề ra.
- Cán cân thanh toán quốc tế 6 tháng đầu năm 1999 bội thu nhưng Ngân
hàng phải có một khối lượng tiền cung ứng lớn để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi
số ngoại tệ đó. Trong 7 tháng đầu năm 1999 đã dùng một lượng tiền để mua
ngoại tệ khoảng vài ngàn tỷ đồng, cộng với số tiền tái cấp vốn tăng lên nên thực
tế đã đưa ra thị trường một lượng tiền đáng kể (khoảng trên 4000 tỷ đồng)
- Giá cả một số mặt hàng trên thị trường thế giới giảm trong những tháng
đầu năm 1999 như: gạo, thép, đường…tác động đến tình hình giá cả trong nước.
Đồng thời tình hình ứ đọng hàng hóa và khủng hoảng thừa ở một số nước (ví dụ
như Trung Quốc) cũng đã gây bất lợi cho chúng ta.
- Sức mua của xã hội tăng chậm do thu nhập của nông dân bị ảnh hưởng
bởi giá lương thực trong các tháng giữa năm giảm khá mạnh, trong khi các hàng
hóa khác vẫn tăng lên. Nhiều khoản chi Ngân sách không bảo đảm theo dự kiến
vì nguồn thu gặp nhiều khó khăn. Lương thực tế của cán bộ công nhân viên giảm
do trượt giá cũng là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng sức mua.
Tình hình thiểu phát còn thể hiện ở lĩnh vực tiền tệ.Năm 2001 tốc độ tăng
trưởng tín dụng đối với một nền kinh tế bị giảm sút. Tính đến 31/12/2001 tín
dụng đối với nền kinh tế tăng 21,44% so với năm trước (năm 2000 tăng 38,4%)

thấp hơn nhiều so với năm 2000. Nguyên nhân làm tín dụng tăng chậm là do sự
suy giảm chung của nền kinh tế thế giới. Bên cạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng
tăng thấp là tổng phương tiện thanh toán trong năm 2001 cũng tăng thấp, chỉ tăng
25,53% so với năm 2000 (năm 2000 tổng phương tiện thanh toán tăng 38,96% so
với năm 1999).
Năm 2003 tổng phương tiện thanh toán có tăng lên 24,94% cao hơn năm
2002 (17,7%). Nguyên nhân là do tổng tài sản có trong nước ròng tăng 32,16%
(năm 2002 tăng 30,56%) và tài sản có ngoại tệ ròng tăng 11,91% ( năm 2002
giảm 0,17%)
Thực tế chúng ta đã có nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát trong giai đoạn
1999-2003 như sau:
- Nhà nước đã áp dụng giải pháp hỗ trợ cán bộ công chức Nhà nước như
hỗ trợ cán bộ, công chức cải thiện cơ bản đời sống và từng bước tiền tệ hóa tiền
lương, bên cạnh việc cải cách đổi mới hệ thống tiền lương, Nhà nước đã cho
phép cán bộ công chức vay vốn làm nhà.
- Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm nhà ở như thừa
nhận hiện trạng đất ở của dân để làm các thủ tục cần thiết như cấp giấy chứng

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

18


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
nhận quyền sử dụng đất cho dân, cho phép người dân được xây dựng nhà ở trong
các khu dân cư không cần giấy phép đối với việc xây nhà ở mặt đường lớn.
- Chính phủ hỗ trợ các gia đình liệt sỹ như nâng mức trợ cấp cho các gia
đình liệt sỹ từ 75 ngàn đồng/tháng lên 150 ngàn đồng/tháng.
- Đã có nhiều biện pháp chính sách về tiền tệ, tín dụng như: thực thi chính
sách nới lỏng tiền tệ với sự điều chỉnh linh hoạt kịp thời theo tín hiệu thị trường

để góp phần hạn chế thiểu phát. Các công cụ lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng,
dự trữ tín dụng,…được sử dụng hết sức nhạy bén phù hợp với diễn biến cung cầu
hàng hóa và giá cả thị trường.
- Mở rộng mức tăng tổng phương tiện thanh toán năm 1999 lên khoảng
24%-28% so với năm 1998. Từ đó tăng tổng lượng tiền cung ứng của Ngân hàng
trung ương trong năm 1999 lên khoảng 15% so với năm 1998 để mua ngoại tệ
nhằm tăng dự trữ ngoại tệ và tăng tái cấp vốn.
- Việc huy động vốn để đầu tư phải bám sát tiến độ cho vay, giải ngân,
không huy động ồ ạt khi chưa có dự án cho vay. Rất nhiều biện pháp tăng vốn
đầu tư cho phát triển, hàng chục ngàn tỷ đồng đã được tăng lên.
- Nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng, giảm mạnh tỷ lệ nợ khó đòi
so với năm 1998 trên cơ sở tích cực thu nợ và tiến hành giám sát kiểm tra kiểm
soát việc cho vay tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
- Tiếp tục xây dựng các điều kiện cần thiết để đưa thị trường mở vào hoạt
động.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tính toán dự trữ bắt buộc, kiểm soát chặt chẽ
việc chấp hành mức dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng trên cơ sở giảm tỷ
lệ dự trữ bắt buộc.
- Lãi suất cần được điều hành một cách linh hoạt, theo sát cung cầu vốn
phục vụ phát triển và tăng trưởng kinh tế, bảo đảm yêu cầu huy động vốn và hạn
chế thiểu phát, tiến hành hạ lãi suất tiền cho vay và lãi suất huy động để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp vay vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên
đến năm 2003, tình hình lãi suất có tăng lên đôi chút.
- Nhiều biện pháp liên quan đến NSNN đã được áp dụng như: đẩy nhanh
việc cấp phát vốn cho các xã thuộc chương trình xóa đói giảm nghèo, tổ chức
triển khai và giải ngân nhanh đối với các dự án thuộc chương trình bê tông hóa
kênh mương và đường làng ngõ xóm, triển khai nhanh các quỹ trong đps có quỹ
bảo lãnh tín dụng doanh nghệp vừa và nhỏ, ứng trước tiền thoái thu thuế giá trị
gia tăng cho các mặt hàng xuất khẩu.
- Để kích cầu Nhà nước đã có hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ cho người

nghèo như: tăng bù lãi suất cho Ngân hàng người nghèo và nâng mức cho vay
đối với hộ gia đình để đẩy mạnh việc cho người nghèo vay nhằm tăng sản xuất
kinh doanh và khả năng thanh toán của dân cư. Ngoài ra còn tăng nguồn vốn
điều lệ cho Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng chính sách xã hội.
- Bên cạnh đó, Chính phủ đã triển khai nhóm giải pháp giảm cung (chuyển
cung ra bên ngoài) như:
+ Hỗ trợ cho xuất khẩu: hỗ trợ giá cho một số mặt hàng xuất khẩu nhằm
tìm kiếm thị trường mới. Để khuyến khích xuất khẩu Nhà nước hỗ trợ cho các
công ty xuất khẩu (không phân biệt thành phần kinh tế) 10% giá trị kim ngạch
xuất khẩu.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

19


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
+ Kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu qua biên giới, trên biển và đất
liền.
+ Hỗ trợ tìm kiếm thị trường, tổ chức nghiên cứu và tìm kiếm thị trường
hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh.
3. Lạm phát giai đoạn 2004-2005:
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tăng trưởng và phát triển trở lại
sau một thời gian dài thiểu phát từ 1999 đến 2003 thì đến giai đoạn 2004-2005 lại
lâm vào thời kỳ lạm phát mới. Mặc dù trong thời gian 2004 và đầu 2005, tình
hình lạm phát đang ở mức kiểm soát được nhưng nguy cơ bùng phát lạm phát cao
vẫn đe dọa sự ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam.
3.1. Tình hình biến động giá cả năm 2004:
3.1.1. Tình hình biến động giá cả:
Giá tiêu dùng trong năm 2004 tăng cao hơn so với mức tăng giá tiêu dùng

của các năm 2001,2002 và 2003. Giá tiêu dùng so với tháng trước của tất cả các
tháng trong năm (trừ tháng 10) đều tăng, do vậy giá tiêu dùng so với tháng 12 liên
tục tăng qua các tháng, giá tiêu dùng tháng 12 so với cùng kỳ đã tăng lên 9,5% và
giá bình quân năm 2004 tăng 7,7% so với năm 2003, là mức tăng cao nhất so với
mức tăng giá bình quân các năm gần đây (năm 2001 giảm 0,3%, năm 2002 tăng
3,9% và năm 2003 tăng 3,2%).
Giá vàng các tháng so với tháng trước biến động theo các chiều hướng khác
nhau, nhưng có xu hướng tăng liên tục từ tháng Tám và tăng cao vào các tháng
cuối năm. Giá vàng các tháng trong năm 2004 so với cùng kỳ đều tăng từ 12% trở
lên, bình quân giá vàng 2004 tăng 16,5% so với năm 2003, chủ yếu do giá vàng
trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới thị trường vàng trong nước. Giá đô la Mỹ
trong các tháng trong năm biến động không đáng kể so với các tháng trước và chỉ
tăng nhẹ so với tháng 12 năm 2003, do vậy bình quân năm 2004 giá đô la Mỹ chỉ
tăng 1,6% so với năm 2003. Tuy nhiên trong năm 2004 giá đô la Mỹ giảm so với
một số đồng tiền khác và giảm mạnh so với đồng Euro.
Biểu 5: Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 12 năm 2004
Tháng 12 năm 2004 so với (%):
Kỳ gốc (2000)
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Lương thực, thực phẩm và dịch
vụ ăn uống
Trong đó: Lương thực
Thực phẩm
Đồ uống và thuốc lá
May mặc, giày dép và mũ nón
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Thiết bị và đồ dùng gia đình
Dược phẩm, y tế

119,0


Tháng12
năm 2003
109,5

Tháng 11
năm 2004
100,6

126,7

115,6

100,7

124,6
128,4
113,8
110,3
125,5
108,4
133,9

114,3
117,1
103,6
104,1
107,4
103,6
109,1


101,1
100,7
100,3
100,5
100,5
100,3
100,1

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

20


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Phương tiện đi lại, bưu điện
Giáo dục
Văn hoá, thể thao, giải trí
Đồ dùng và dịch vụ khác
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG
CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ

100,9
117,7
99,7
115,2
174,8
111,1

105,9

98,2
102,2
105,2
111,7
100,4

100,4
100,1
100,1
101,0
104,9
100,1

Biểu 6: Chỉ số giá năm 2004 (So với tháng trước)

LTTP

LT

TP

101,1

101,6

102,1

101,6

May

Đồ uống,
mặc,
thuốc lá
giày dép
102,9
101,2

103,0
100,8
100,5
100,9
100,8
100,5
100,6
100,3
100,0
100,2
100,6

105,1
101,6
100,9
101,8
101,5
100,4
100,7
100,4
99,8
100,0
100,7


101,5
102,8
101,8
102,3
105,0
99,7
100,8
100,4
99,8
100,7
101,1

106,8
101.3
100,6
101,8
101,8
100,7
100,8
100,4
99,8
99,7
100,7

100,5
98,3
100,3
100,4
100,0

100,2
100,4
100,4
100,0
100,0
100,3

Tháng

Chung

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Lương thực thực phẩm

99,7
100,5
100,7
99,9

101,0
100,2
100,4
100,5
100,2
100,2
100,5

Nhà ở, vật
liệu xây
dựng
100,8
101,5
102,1
100,4
100,2
100,4
100,2
99,8
100,0
100,6
100,5
100,5

Chỉ số giá 6 tháng đầu năm đã tăng tới 7.2% so với tháng 12/2003. Sau
một loạt biện pháp chống lạm phát đã được áp dụng thì tình hình giá cả được cải
thiện, giá cả các tháng 6 tháng cuối năm có tăng chậm lại và thấp hơn so với 6
tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2004 so với tháng 12/2003 tăng
9,5%. Trong đó, giá lương thực thực phẩm vẫn là tăng cao nhất (15,6%).Mức độ
tăng giá cao 6 tháng đầu năm và cả năm 2004 chỉ tập trung vào các nhóm hàng là

lương thực thực phẩm, thuốc tân dược, giá nhà ở và vật liệu xây dựng. 6 tháng
đầu năm 2004 so với tháng 12/2003, giá nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng
cao nhất là 13,2%, trong đó giá lương thực tăng 11,5%, giá thực phẩm tăng
14,6%. Tình hình giá cả cả năm 2004 cũng phản ánh xu thế như 6 tháng đầu năm
tuy có chuyển biến đôi chút: giá lương thực tăng cả năm so với tháng 12/2003 là
15,6%, trong đó giá lương thực tăng 14,3% và giá thực phẩm tăng 17,1%. Điều
này được lý giải do dịch cúm gà nên gây ra tổng cung thực phẩm thấp hơn tổng
cầu thực phẩm vào các tháng đầu năm. Còn giá lương thực các tháng cuối năm
tăng chậm lại do sự giảm bớt xuất khẩu lương thực nên sự mất cân đối giữa tổng
cung lương thực so với tổng cầu lương thực được cải thiện hơn. 6 tháng đầu năm
2004, giá dược phẩm y tế tăng 6,6%; giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,4%.
Điều này cho thấy 6 tháng cuối năm nhờ có chính sách chống đầu cơ thuốc và
luật đất đai có hiệu lực, cũng như có nhiều công trình xây dựng nhà đang dần đưa
vào cuộc sống hơn nên đã làm cho mức giá các mặt hàng này giảm xuống.
SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

21


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
Quan sát 6 tháng đầu năm 2004, trong 6 tháng có đến 4 nhóm hàng có chỉ
số giá tiêu dùng giảm so với tháng 5/2004. Đó là nhóm hàng nhà ở và vật liệu
xây dựng mặc dù so với tháng 12/2003 vẫn tăng 4,8% nhưng so với tháng 5/2004
giảm 0,2%; dược phẩm y tế giảm 0,1%; văn hóa thể thao giải trí giảm 0,4%; giáo
dục giảm 0,1% (và so với tháng 12/2003 thì chỉ số này còn giảm tới 3,1%).
Ngoài ra 1 số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhẹ như may mặc, giày dép, mũ nón
(tăng 2,1%); thiết bị và đồ dùng gia đình cũng tăng 1,6% so với tháng 12/2003
(so với tháng 5/2004 hai nhóm hàng này có chỉ số giá tăng 0,1%). Tháng 6 chỉ số
giá đô la Mỹ vẫn giữ nguyên trong khi giá vàng đã giảm tới 1,4%. Đến tháng
7/2004, giá các mặt hàng tăng không đáng kể so với tháng 6 trừ giá dược phẩm

và y tế tăng 1%, giá thực phẩm tăng 0,7%, giá lương thực giảm 0,3% chỉ có giá
phương tiện đi lại và bưu điện vẫn tăng cao là 3%, giá vàng tăng 0,5%, giá đô la
giảm 0,1%.
3.1.2. Nguyên nhân tăng giá thị trường:
3.1.2.1. Nguyên nhân khách quan:
+ Do giá cả trên thị trường thế giới có nhiều biến động, trong đó phải kể
đến việc tăng giá của một số mặt hàng chiến lược như phôi thép, dầu thô (giá dầu
có lúc đến 55 USD/1 thùng) nên đã đẩy chi phí sản xuất tăng cao kéo theo giá cả
hàng hoá dịch vụ tăng.
+ Vào cuối năm 2003, đầu năm 2004, dịch cúm gia cầm bùng phát ở nhiều
nước trong đó có Việt Nam, tình trạng này đã làm ngành chăn nuôi gặp rất nhiều
khó khăn. Mặc dù đã khôi phục lại được đàn gia cầm nhưng nguy cơ lan dịch
quay trở lại vẫn luôn thường trực đã làm cho giá cả thực phẩm tăng cao và kéo
dài cho đến nay.
+ Ảnh hưởng của điều kiện thời tiết như hạn hán ở một số địa phương vào
dịp cuối năm cũng làm cho giá của lương thực vẫn có chiều hướng tăng đều. Mặt
khác do chi phí đầu vào của ngành chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp tăng như
giá thức ăn, giá phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu... vì vậy việc tăng giá lượng
thực thực phẩm là tất yếu.
3.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan:
+ Hiện tượng tăng giá hàng hoá năm 2004 có thể là kết quả của chương
trình "kích cầu" giai đoạn 1999-2001.
Vào những năm 1999-2001 nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng giảm
phát làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Để khắc phục tình trạng đó Chính phủ
đã thực hiện chương trình "kích cầu". Một loạt các giải pháp đã được thực hiện
như thực thi chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng, cơ chế cho vay "thông
thoáng" đã góp phần đẩy tăng trưởng tín dụng. Bên cạnh đó chi tiêu của ngân
sách nhà nước do đầu tư cũng được tăng cường, kết quả của những "cú huých"
vào tổng cầu đã giúp cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên
7%/năm, lạm phát gia tăng từ mức âm lên đến 3% vào năm 2003. Đi đôi với

những kết quả đạt được lại nảy sinh nhưng nguy cơ tiềm ẩn gây lạm phát cao như
tăng trưởng tín dụng cao nhưng tràn lan, thâm hụt ngân sách nhà nước so với
GDP là không nhỏ, thất thoát trong quản lý NSNN đặc biệt trong xây dựng cơ
bản là vấn đề nổi cộm nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

22


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
+ Công tác kiểm soát giá cả của nhà nước còn kém chặt chẽ nên đã xảy ra
hiện tượng tư nhân thao túng thị trường, đẩy giá để kiếm lời ở một số mặt hàng
như giá thép, giá thuốc gây tác động xấu mặt bằng giá cả trong nước.
+ Để thực hiện chế độ cải cách tiền lương, nhà nước đã thực hiện tăng
lương cho công chức từ tháng 10-2004 (dự kiến truy lĩnh vào tháng 11-2004
nhưng cho đến gần cuối tháng 12-2004 kế hoạch này chưa được thực thi) và dư
âm của việc ngân hàng nhà nước phát hành loại tiền mới đưa vào lưu thông đã
gây tâm lý thiếu tin tưởng của người dân vào sự ổn định của VND.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên thì nhiều nhà
phân tích cũng cho rằng việc xác định chỉ số lạm phát dựa vào CPI và quyền số
ấn định cho các nhóm hàng được xác định từ năm 2000 là chưa phản ánh đúng
mức độ lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy các nhà quản lý đều nhận định hiện
tượng tăng giá hàng hoá như vậy là chưa đáng lo ngại, lạm phát ở mức đó phù
hợp với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Nhà sản xuất thì hy vọng chi phí sản xuất sẽ
hạ, lãi suất kinh doanh của các ngân hàng thương mại vẫn tương đối ổn định,
ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo hướng "bình thản"... Tuy
nhiên sự biến động tăng của giá cả hàng hoá dịch vụ năm 2004 có thể báo hiệu
những vấn đề đặt ra đối với kinh tế Việt Nam năm 2005.
3.2. Tình hình giá cả trong năm 2005:

3.2.1. Tình hình giá cả:
Theo số liệu công bố của Tổng cục thống kê, tính đến hết tháng 12-2005,
chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã lên tới 8,4%, vượt xa so với mức 6,5% theo
Nghị Quyết của Quốc hội đề ra từ đầu năm, thấp hơn so với mức 9,5% của năm
2004 và cao gấp 3 lần so với mức 3,0 % của năm 2003.
Giá tiêu dùng tháng 12/2005 tiếp tục tăng 0,8% so với tháng trước, bằng
mức tăng giá của tháng 9 và là mức tăng tương đối cao so với mức tăng 0,4% của
tháng 10 và tháng 11. Như vậy, giá tiêu dùng so với tháng trước của tất cả các
tháng trong năm 2005 đều tăng tuy mức độ có chênh lệch giữa các tháng, tăng
thấp nhất là 0,4% và tăng cao nhất là 2,5% (tháng 2/2005, là tháng Tết).
So
với tháng 12/2004, giá tiêu dùng tháng 12 năm 2005 tăng 8,4%, đáng chú ý là giá
của tất cả 10 nhóm hàng hoá và dịch vụ đều tăng. Gía bình quân 12 tháng tăng
8,3% so với năm 2004, là mức tăng khá cao so với các năm gần đây: giá 2004
tăng bình quân 7,7%, năm 2003 tăng 3,2%; giá 2002 tăng 3,9%.
Giá vàng tháng 12 đạt mức tăng kỷ lục so với tháng trước (+7,5%) và vượt
mức tăng giá của tất cả các tháng từ đầu năm đến nay. Giá vàng tăng mạnh chủ yếu
do giá vàng trên thị trường thế giới tăng, mặt khác do tăng lãi suất đồng đô la Mỹ
và tăng giá tiêu dùng, người dân đã chuyển sang dự trữ vàng nhiều hơn trước, làm
tăng cầu. So với tháng 12 năm 2004 giá vàng tăng 11,3%. Giá đô la Mỹ tương đối
ổn định, giá các tháng so với tháng trước chỉ tăng ở mức từ 0% đến 0,2%; so với
tháng 12 năm trước tăng 0,9%, bình quân 12 tháng tăng 0,6% so với năm trước.

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

23


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh


Biểu 7: Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 12 - 2005
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 12 năm 2005
Tháng 12 năm 2005 so với (%):

Chỉ số giá tiêu dùng
Lương thực, thực phẩm
Trong đó: Lương thực
Thực phẩm
Đồ uống và thuốc lá
May mặc, giày dép và mũ nón
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Thiết bị và đồ dùng gia đình
Dược phẩm, y tế
Phương tiện đi lại, bưu điện
Trong đó: Bưu chính, viễn thông
Giáo dục
Văn hoá, thể thao, giải trí
Đồ dùng và dịch vụ khác
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG
CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ

Kỳ gốc
(2000)
129.5
140.8
134.5
144.0
119.3
115.8
137.8

113.7
140.5
110.3
74.9
123.6
102.4
122.4
194.8
112.0

Tháng 12
năm 20004
108.4
110.8
107.8
112.0
104.9
105.0
109.8
104.8
104.9
109.1
90.8
105.0
102.7
106
111.3
100.9

Tháng 11

năm 2005
100.8
101.4
101.2
101.7
100.5
100.6
100.6
100.6
100.3
98.9
100.0
100.4
100.2
100.7
107.5
100.1

3.2.2. Nguyên nhân của diễn biến tăng giá:
Phân tích các nhóm hàng và nguyên nhân của diễn biến tăng giá, có thể
thấy như sau:
+ Tăng giá cao nhất trong cả năm 2005 là nhóm mặt hàng lương thực thực phẩm.Tính chung trong cả 12 tháng đầu năm 2005, nhóm lương thực- thực
phẩm tăng 10,8%, thấp hơn so với mức tăng kỷ lục 15,6% của cả năm 2004,
trong đó riêng nhóm hàng thực phẩm đã tăng tới 12% và nhóm mặt hàng lương
thực tăng 7,8%.
Nguyên nhân do giá xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng, giá thu mua một số
mặt hàng lương thực làm thức ăn gia súc tăng, làm tăng giá các mặt hàng lương
thực trong nước. Diện tích đất đai sản xuất lương thực có xu hướng giảm do
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, do đất đai canh tác được chuyển sang đất đô thị, đất
khu công nghiệp, đất làm được giao thông và các mục đích khác. Mặt khác giá

thành sản xuất các mặt hàng lương thực cũng tăng lên. Đặc biệt là giá thóc gạo
xuất khẩu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long tăng khá bởi nhu cầu thu mua lúa
gạo cho xuất khẩu. Do tác động bởi giá gạo trên thị trường thế giới và giá gạo
xuất khẩu của Việt Nam tăng. Do ảnh hưởng cơn bão số 7 ở các tỉnh phía Bắc, lũ
ở Đồng bằng sông Cửu Long, mưa lũ tại các tỉnh miền Trung trong các tháng
10,11 và tháng 12-2005. Bởi vậy đã làm cho giá lương thực trong năm 2005 tăng

SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

24


GVHD: Ths. Trịnh Thị Trinh
tới 7,8%. Tuy nhiên vẫn thấp hơn mức tăng 14,3% của mặt hàng lương thực
trong năm 2004.
Trong khi đó giá mặt hàng thực phẩm tính chung trong năm 2005 tăng
12%, thấp hơn so với cả năm 2004 đã tăng kỷ lục, tới 17,1%. Nguyên nhân là do
tác động của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng. Chính phủ chỉ đạo kiên
quyết và các địa phương cũng triển khai đồng bộ việc tiêu huỷ gia cầm, việc cấm
lưu thông gia cầm,...cũng như tình trạng đóng băng tiêu thụ các sản phẩm ở nhiều
địa phương. Do đó nhu cầu tiêu thụ thực phẩm được dồn sang các mặt hàng khác
làm cho giá bán lẻ nhóm mặt hàng này tăng lên. Trước tình hình diễn biến của
dịch cúm gia cầm đến cuối tháng 11-2005 đã lan rộng đến 17 tỉnh thành phố
trong cả nước, cũng như tình trạng tiêu thụ các sản phẩm gia cầm ở nhiều địa
phương bị đóng băng, sẽ làm cho giá thực phẩm trong tháng 12-2005 sẽ tiếp tục
tăng khá. Cùng với tác động của lũ lụt ở khu vực miền Trung, do nhu cầu tiêu thụ
vào dịp cuối năm nên chỉ số giá CPI trong tháng 12-2005 vẫn tiếp tục tăng khá
tới 1,7%
+ Mức tăng lớn đứng hàng thứ hai trong năm 2005 là nhóm mặt hàng nhà
ở và vật liệu xây dựng. Trong năm 2005 nhóm này đã tăng 9,8%. Nguyên nhân

của tình trạng đó là do giá sắt thép trên thị trường thế giới và giá bán lẻ thị trường
trong nước tăng cao; đồng thời nhu cầu xi măng và các mặt hàng vật liệu xây
dựng khác trong nước cũng tăng, tác động lên giá bán lẻ.
+Mức tăng đứng hàng thứ ba trong cả năm 2005 là nhóm phương tiện đi
lại và bưu điện. Tính chung trong 12 tháng nhóm này tăng 9,1%. Nguyên nhân
chủ yếu là do giá bán lẻ xăng dầu trong nước tăng cao.Cũng trong 11 tháng đầu
năm 2005, giá bán lẻ các mặt hàng xăng dầu thị trường trong nước được điều
chỉnh tăng tới 3 đợt, với tổng mức tăng bình quân từ 45,6% đến 55%. Đến lượt
nó, nguyên nhân của việc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước là do giá dầu
thô trên thị trường thế giới tăng cao lên mức đỉnh điểm trong hàng chục năm qua.
Đến ngày 22-11-2005 giá bán lẻ xăng dầu được điều chỉnh giảm 500đ/lít, nhưng
không tác động giảm cước phí giao thông vận tải và đi lại.
+ Thứ tư là nhóm đồ dùng và dịch vụ khác trong năm 2005 tăng 6,0%.
Tiếp đến là nhóm mặt hàng giáo dục; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 5,0%;
dược phẩm y tế tăng 4,9%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 4,8%. Riêng nhóm
văn hoá thể thao giải trí có mức tăng thấp nhất là 2,7%.
+ Vàng và đôla Mỹ không tính trong chỉ số tăng giá tiêu dùng CPI nhưng
riêng giá vàng tăng tới 11,3%.
+ Về tiền tệ: Trong năm 2005 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần tăng
các loại lãi suất chủ đạo, 2 lần tăng lãi suất cơ bản đồng Việt Nam và giữ mức
cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Thực tế các chỉ
tiêu: khối lượng tiền cung ứng ra lưu thông, dư nợ cho vay,...của hệ thống ngân
hàng thấp hơn cùng kỳ và cả năm 2004. Tổng phương tiện thanh toán đến hết
tháng 11-2005 tăng 16,4% so với 31-12-2004, dự báo cả năm sẽ chỉ tăng khoảng
18%, thấp hơn mức 30,39% của năm 2004 và 24,94% của năm 2003. Bản thân
các Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng kiểm soát chặt chẽ cho vay. Thậm chí
nhiều NHTM Nhà nước còn khống chế chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ của các chi
nhánh NHTM trực thuộc. Các NHTM còn đẩy mạnh huy động vốn trong nền
kinh tế, đồng thời đầu tư khoảng trên 22.000 tỷ đồng vào Tín phiếu kho bạc Nhà


SVTH:Nguyễn Văn Cường. Lớp: 33K07.2

25


×