Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

So sánh chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc và những hàm ý chính sách cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.35 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƢƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
*************

HỒ SỸ MINH

SO SÁNH
CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG HÀM Ý
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƢƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
*************

HỒ SỸ MINH

SO SÁNH
CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG HÀM Ý
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành:

Chính sách công



Mã số:

60340402

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ VIỆT PHÚ

Thành phố Hồ Chí Minh, 2016


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử
dụng trong luận văn đều đƣợc dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trƣờng Đại học Kinh
tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2016
Tác giả

Hồ Sỹ Minh


ii

LỜI CẢM ƠN

Trƣớc tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bố mẹ, vợ và những ngƣời thân yêu
trong gia đình của tôi, những ngƣời đã sát cánh và luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt khóa học.
Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Lê Việt Phú, ngƣời đã dành rất nhiều
thời gian, hƣớng dẫn nhiệt tình và tận tâm trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Huỳnh Thế Du đã tận tình góp ý, định hƣớng, khuyến
khích và động viên trong suốt thời gian tôi hoàn thiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn Quý thầy cô giáo, tập thể nhân viên tại Chƣơng trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright, những ngƣời với tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực cao nhất của mình đã
truyền đạt kiến thức và tạo mọi điều kiện, cơ hội giúp tôi tiếp cận đến các lĩnh vực tri thức
mới mẻ và hữu ích trong suốt khóa học. Tôi xin cảm ơn thầy Phạm Duy Nghĩa, thầy Đinh
Công Khải đã tƣ vấn và giúp đỡ tôi trong quá trình lựa chọn đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và tập thể lớp MPP7 đã động
viên và giúp đỡ tôi trong suốt khóa học và thời gian thực hiện luận văn.


iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................... ii
MỤC LỤC ....................................................................................................................... iii
TÓM TẮT ......................................................................................................................... v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. vii
DANH MỤC HÌNH HỘP............................................................................................... viii
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU................................................................................................ 1
1.1. Bối cảnh chính sách .................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................... 2
1.3. Câu hỏi chính sách...................................................................................................... 2

1.4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn thông tin .............................................................. 3
1.6. Kết cấu luận văn ......................................................................................................... 3
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH ........................................ 4
2.1. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp và cách thức sửa chữa .................................................. 4
2.1.1. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp .................................................................................. 4
2.1.2. Cách thức sửa chữa vấn đề ủy quyền – tác nghiệp .................................................... 6
2.2. Xử lý vấn đề ủy quyền – tác nghiệp bằng chính sách luân chuyển cán bộ .................... 7
2.2.1. Luân chuyển cán bộ tạo ra cơ chế khuyến khích....................................................... 7
2.2.2. Luân chuyển cán bộ tạo ra cơ chế cạnh tranh ........................................................... 9
2.2.3. Luân chuyển cán bộ tạo ra cơ chế giám sát............................................................... 9
CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ ỦY QUYỀN – TÁC NGHIỆP TRONG MÔ HÌNH TỔ CHỨC
NHÀ NƢỚC CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ...................................................... 12
3.1. Mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc tập quyền XHCN......................................... 12
3.1.1. Mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc của Việt Nam ........................................... 13
3.1.2. Mô hình tổ chức chính quyền địa nhà nƣớc của Trung Quốc .................................. 15


iv

3.2. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp trong mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc tập quyền
XHCN ............................................................................................................................. 15
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với mô hình tổ chức nhà nƣớc ở Việt Nam và Trung Quốc
dẫn đến nhu cầu luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý .................................................... 18
CHƢƠNG 4: SO SÁNH CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ..................................................................... 19
4.1. Chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam, Trung Quốc và tác
động đến tăng trƣởng kinh tế địa phƣơng ......................................................................... 19
4.2. Quá trình hình thành và mục tiêu của chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
của Việt Nam và Trung Quốc .......................................................................................... 20

4.3. So sánh kết quả thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt
Nam và Trung Quốc ........................................................................................................ 24
4.3.1. Cơ chế khuyến khích từ chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý .............. 24
4.3.2. Cơ chế cạnh tranh từ chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý .................. 28
4.3.3. Cơ chế giám sát từ chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ...................... 30
4.4. Đánh giá chung ......................................................................................................... 32
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM ........ 34
5.1. Kết luận .................................................................................................................... 34
5.2. Khuyến nghị chính sách ............................................................................................ 35
5.3. Hạn chế của luận văn ................................................................................................ 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 39
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 45


v

TÓM TẮT
Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong những chính sách quan trọng của ĐCS
Việt Nam trong công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ. Bên cạnh mục tiêu của chính sách
là bồi dƣỡng toàn diện cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy
hoạch đƣợc rèn luyện trong thực tiễn, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ ở các địa
phƣơng thì việc thực hiện hiệu quả công tác LCCB lãnh đạo, quản lý có thể tạo ra động lực
tăng trƣởng kinh tế cho các địa phƣơng. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác LCCB ở Việt
Nam chƣa phát huy đƣợc vai trò và sự kỳ vọng đặt ra.
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia phát triển theo định hƣớng XHCN nên hình thức
tổ chức bộ máy nhà nƣớc và chính quyền các địa phƣơng là tƣơng tự nhau. ĐCS Việt Nam
và Trung Quốc đóng vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện trong mọi vấn đề, bao gồm cả
công tác tổ chức cán bộ của các cơ quan Đảng và cơ quan hành chính nhà nƣớc. Trong đó,
LCCB lãnh đạo, quản lý là một trong những chính sách thể hiện quyền lực của Trung ƣơng

Đảng và CQTW đối với các địa phƣơng. Chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý nhằm tạo ra
các cơ chế khuyến khích, cạnh tranh và giám sát đối với CQĐP, giải quyết vấn đề ủy
quyền – tác nghiệp giữa CQTW và CQĐP. Tuy nhiên, có sự khác biệt trong việc áp dụng
chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam và Trung Quốc. So sánh giữa chính sách
LCCB lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc cho thấy đƣợc những thành tựu và
tồn tại trong việc thực hiện chính sách này của mỗi quốc gia.
Với cùng mục tiêu ban đầu của chính sách là nhằm đào tạo, bồi dƣỡng toàn diện cho thế hệ
lãnh đạo kế cận, tuy nhiên, theo thời gian, mục tiêu chính sách LCCB mà Trung Quốc áp
dụng dần thay đổi để phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn. Chính sách LCCB lãnh
đạo, quản lý ở Trung Quốc phần nào phát huy hiệu quả, tạo ra các cơ chế khuyến khích,
cạnh tranh và giám sát đối với CQĐP trong việc thiết kế và thực thi chính sách nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của các địa phƣơng. Đối với Việt Nam, bên cạnh nhƣng thành tựu
đạt đƣợc, chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý hiện nay vẫn còn rất nhiều hạn chế trong
việc xử lý vấn đề ủy quyền – tác nghiệp khi chƣa tạo ra cơ chế khuyến khích, cơ chế cạnh
tranh và cơ chế giám sát đối với CQĐP. Thứ nhất, thiếu minh bạch trong chỉ tiêu đánh giá
về năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý mặc dù đây là một trong những cơ sở quan trọng
trong công tác quy hoạch cán bộ. Thứ hai, việc xác định các cán bộ do Trung ƣơng quản lý
thuộc diện luân chuyển về các địa phƣơng giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan


vi

Đảng và nhà nƣớc ở địa phƣơng còn thiếu minh bạch và thống nhất. Thứ ba, việc đánh giá,
bố trí và sử dụng cán bộ sau luân chuyển thiếu sự minh bạch và nặng về hình thức. Thứ tư,
việc LCCB lãnh đạo, quản lý theo chiều ngang, tức là từ địa phƣơng này sang địa phƣơng
khác không hƣớng đến mục tiêu cải thiện kinh tế cho các địa phƣơng kém phát triển. Thứ
năm, cán bộ đƣợc luân chuyển về địa phƣơng không giữ chức vụ đứng đầu hệ thống chính
trị hay bộ máy chính quyền nên khả năng tạo ảnh hƣởng và mức độ đóng góp còn hạn chế.
Thứ sáu, việc áp dụng luật “hồi tỵ” trong LCCB lãnh đạo, quản lý chƣa triệt để, là mầm
mống phát sinh tham nhũng trong công tác cán bộ tại địa phƣơng đó. Thứ bảy, chƣa có quy

định xử phạt đối với những vi phạm trong công tác LCCB lãnh đạo, quản lý. Điều này có
thể dẫn đến tình trạng tham nhũng trong việc đánh giá cán bộ.
Từ thực tế đó, luận văn đƣa ra ba nhóm giải pháp chung và năm nhóm giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao tính hiệu quả trong công tác LCCB lãnh đạo, quản lý hiện nay ở Việt Nam,
góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các địa phƣơng. Các nhóm giải
pháp cụ thể đó là: i) xây dựng hệ thống các tiêu chí định lƣợng cụ thể, rõ ràng nhằm đánh
giá năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phƣơng cũng nhƣ đội ngũ cán bộ
trẻ thuộc diện Trung ƣơng quản lý trong quy hoạch; ii) đẩy mạnh việc LCCB lãnh đạo,
quản lý theo chiều ngang, tức là từ địa phƣơng này sang các địa phƣơng khác; iii) trong
một số trƣờng hợp nhất định, cán bộ luân chuyển đảm nhận chức vụ cao nhất trong bộ máy
chính trị ở địa phƣơng, có tiếng nói quyết định và là ngƣời chịu trách nhiệm cao nhất trong
việc ban hành các chính sách; iv) đẩy mạnh việc luân chuyển các cán bộ lãnh đạo, quản lý
cao nhất ở các địa phƣơng gắn liền với luật “hồi tỵ” và v) luật pháp hóa các quy định trong
công tác tổ chức cán bộ nói chung và LCCB nói riêng.


vii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BBT

Ban bí thƣ

BCT

Bộ Chính trị

CQTW

Chính quyền Trung ƣơng


CQĐP

Chính quyền địa phƣơng

ĐCS

Đảng Cộng sản

HĐND

Hội đồng nhân dân

LCCB

Luân chuyển cán bộ

UBND

Ủy ban nhân dân


viii

DANH MỤC HÌNH HỘP
Trang
Hình 1: Sơ đồ tổ chức hệ thống chính trị và bộ máy nhà nƣớc Việt Nam ......................... 14
Hình 2: Mối quan hệ ủy quyền – tác nghiệp trong bộ máy nhà nƣớc ................................ 17
Hình 3: Chính sách luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc
qua từng giai đoạn ........................................................................................................... 23

Hộp 1: Chính sách phát triển kinh tế của chính quyền Trung ƣơng Trung Quốc ............... 29
Hộp 2: Khuyến nghị chung .............................................................................................. 36


1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh chính sách
Chính sách luân chuyển cán bộ (LCCB) lãnh đạo, quản lý là một trong những chính sách
quan trọng trong công tác cán bộ, đƣợc quy định tại Nghị quyết 03-NQ/TW của Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII năm 1997, Nghị quyết 11-NQ/TW
của Bộ Chính trị khóa IX năm 2002 và Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ chính trị khóa IX
năm 2004. Theo đó, mục tiêu của chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý là “nhằm sử dụng có
hiệu quả và tạo nên sự đồng đều trong đội ngũ cán bộ, bồi dƣỡng toàn diện cán bộ, tạo điều
kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ quy hoạch đƣợc rèn luyện trong thực tiễn, khắc
phục tình trạng khép kín, cục bộ trong từng ngành, từng địa phƣơng, từng tổ chức”. Tuy
nhiên, trên thực tế, công tác LCCB lãnh đạo, quản lý vẫn còn gặp nhiều hạn chế, thiếu
minh bạch và thiếu hiệu quả khi mà đội ngũ cán bộ đƣợc luân chuyển chƣa thể hiện đƣợc
vai trò và sự đóng góp của mình vào sự phát triển chung của các địa phƣơng.
Tháng 3/2014, lần đầu tiên Bộ chính trị (BCT) và Ban bí thƣ (BBT) công khai danh sách
cán bộ thuộc diện Trung ƣơng quản lý đƣợc luân chuyển, điều động về công tác tại các địa
phƣơng1. Trong danh sách 44 cán bộ đƣợc luân chuyển đợt này, có 2 cán bộ đƣợc BCT
phân công, điều động giữ chức Phó bí thƣ tỉnh ủy, 23 cán bộ đƣợc chỉ định tham gia Ban
chấp hành, ban thƣờng vụ và giữ chức Phó bí thƣ các tỉnh, thành ủy, 19 cán bộ đƣợc chỉ
định tham gia Ban chấp hành và giới thiệu để Hội đồng nhân dân (HĐND) bầu giữ chức
Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh. Sau hơn một năm sau luân chuyển, có đến 5
cán bộ đƣợc tín nhiệm bầu giữ chức Bí thƣ tỉnh ủy, 2 cán bộ đƣợc bầu giữ chức Chủ tịch
UBND tỉnh trong nhiệm kỳ mới. Ngoài ra, có 6 trƣờng hợp trở về lại Trung ƣơng đảm
nhận chức vụ cũ nhƣ trƣớc khi luân chuyển và hiện nay 5/6 trƣờng hợp đã đƣợc bổ nhiệm

vị trí cao hơn (Xem Phụ lục 2). Nhƣ vậy, sau khoảng thời gian tƣơng đối ngắn, 12/44 cán
bộ đƣợc luân chuyển vào tháng 3/2014 đảm nhận chức vụ cao hơn so với vị trí đƣợc luân
chuyển. Trong khi đó, hầu nhƣ không có sự thay đổi nào trong tăng trƣởng kinh tế của các
địa phƣơng có cán bộ luân chuyển này (Xem Phụ lục 3).

1

/>

2

Đối với Trung Quốc, cho dù còn nhiều vấn đề do bản chất của mô hình tổ chức bộ máy nhà
nƣớc, nhƣng chính sách LCCB đang thực hiện lại cho thấy hiệu quả của nó đối với sự phát
triển kinh tế của các địa phƣơng. Wu (2010) chỉ ra rằng, chính quyền Trung ƣơng (CQTW)
Trung Quốc sử dụng tiêu chí tăng trƣởng kinh tế để đánh giá năng lực lãnh đạo của những
ngƣời đứng đầu địa phƣơng. Địa phƣơng nào cho thấy rõ đƣợc sự phát triển nổi bật thì
chính quyền địa phƣơng (CQĐP) đó có nhiều hơn các cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp
chính trị, đƣợc luân chuyển đến các địa phƣơng khác hoặc luân chuyển ra Trung ƣơng đảm
nhận chức vụ cao hơn trong bộ máy quyền lực. Tƣơng tự, nghiên cứu của Zhang và Gao
(2008) cho thấy rằng, chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý là một trong những động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các địa phƣơng khi các địa phƣơng có cán bộ luân
chuyển thì tốc độ tăng trƣởng khả quan hơn.
Cấu trúc thể chế chính trị và quá trình cải cách kinh tế có nhiều điểm tƣơng đồng và chính
sách LCCB đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc xem là một trong những chiến
lƣợc quan trọng trong chính sách cán bộ của mình. Tuy nhiên, kết quả thực hiện của chính
sách đối với sự phát triển kinh tế địa phƣơng của hai quốc gia thì khác nhau. Xuất phát từ
những thực tiễn trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “So sánh chính sách luân chuyển cán
bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc và những hàm ý chính sách cho Việt
Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và
Trung Quốc nhằm tìm ra giải pháp phù hợp đối với Việt Nam. Có bốn vấn đề cụ thể sẽ
đƣợc triển khai. Thứ nhất, khái quát về mục tiêu và quá trình thực hiện chính sách LCCB
lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc. Thứ hai, so sánh sự giống và khác nhau
trong chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc. Thứ ba, phân tích
những hạn chế, tồn tại của chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý hiện nay ở Việt Nam. Thứ
tư, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả và vai trò của chính sách LCCB
lãnh đạo, quản lý đối với tăng trƣởng kinh tế địa phƣơng.
1.3. Câu hỏi chính sách
Để đạt đƣợc những mục tiêu trên, nghiên cứu tập trung vào ba câu hỏi chính sách sau:
- Thứ nhất, có sự giống và khác nào trong chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý của Việt
Nam và Trung Quốc?


3

- Thứ hai, vì sao chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý của Trung Quốc phát huy hiệu quả
trong tăng trƣởng kinh tế địa phƣơng còn Việt Nam thì không?
- Thứ ba, giải pháp nào giúp cho chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý phát huy tính hiệu
quả trong việc đóng góp cho sự phát triển kinh tế địa phƣơng ở Việt Nam?
1.4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Chính sách luân chuyển đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý địa
phƣơng cấp tỉnh của Việt Nam và Trung Quốc.
- Phạm vi nghiên cứu: So sánh sự giống và khác nhau trong chính sách LCCB lãnh đạo,
quản lý địa phƣơng cấp tỉnh của Việt Nam và Trung Quốc.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn thông tin
Luận văn sử dụng phƣơng pháp phân tích chủ đạo là so sánh, đối chiếu giữa chính sách
LCCB lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc.
Nguồn thông tin mà luận văn sử dụng là các văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc
thực hiện LCCB lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc. Luận văn còn sử dụng

các công trình nghiên cứu đã đƣợc công bố trên các tạp chí của các nhà khoa học đánh giá,
phân tích về thực trạng và kết quả của chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý đang diễn ra ở
Việt Nam và Trung Quốc.
1.6. Kết cấu luận văn
Luận văn đƣợc chia thành 5 chƣơng. Chƣơng 1 trình bày bối cảnh chính sách, câu hỏi
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Chƣơng 2 giới thiệu
khung phân tích lý thuyết và tổng quan các công trình nghiên cứu, kinh nghiệm quốc tế
trong lĩnh vực này. Chƣơng 3 trình bày nội dung về vấn đề ủy quyền – tác nghiệp trong mô
hình tổ chức nhà nƣớc tập quyền Xã hội chủ nghĩa. Chƣơng 4 so sánh chính sách LCCB
lãnh đạo, quản lý của Việt Nam và Trung Quốc. Chƣơng 5 đề xuất các khuyến nghị chính
sách nhằm góp phần cải thiện hiệu quả của chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý qua sự đối
chiếu với Trung Quốc.


4

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH

Chƣơng 2 giới thiệu về cơ sở lý thuyết và khung phân tích chủ đạo mà luận văn sử dụng,
đồng thời tóm lƣợc các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả trên
thế giới liên quan đến vấn đề nghiên cứu mà luận văn đề cập.
2.1. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp và cách thức sửa chữa
2.1.1. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp
Lý thuyết về ủy quyền – tác nghiệp (Principal – Agent Theory) đƣợc khởi xƣớng từ các
công trình nghiên cứu độc lập của Stephen Ross (1973) và Barry Mitnick (1973), sau đó
đƣợc phát triển bởi Jensen và Mecskling (1976). Jensen và Meckling (1976) định nghĩa về
mối quan hệ giữa ngƣời ủy quyền và ngƣời tác nghiệp nhƣ là một hợp đồng, trong đó
những ngƣời chủ (ngƣời ủy quyền) giao quyền điều hành cho ngƣời tác nghiệp, thay mặt
họ ra các quyết định trong quá trình quản lý. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp là một trong
những hệ quả của hiện tƣợng bất cân xứng thông tin. Đó là tình trạng mà trong một giao

dịch, một bên sở hữu thông tin đầy đủ hơn so với bên còn lại (Akerlof, 2001; Stiglitz, 2001;
Spence, 2001). Sự khác biệt về lợi ích khiến cho những ngƣời ngƣời tác nghiệp lựa chọn và
thực thi các quyết định mang lại lợi ích cho bản thân họ, mặc dù điều này có thể gây thiệt
hại cho những ngƣời ủy quyền. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp không chỉ xảy ra trong môi
trƣờng các công ty mà còn là một trong những cơ sở quan trọng giải thích cho việc thiết kế
và thực thi chính sách của khu vực công (Tolofari, 2005). Trong khu vực công, những
công chức trong chính quyền đƣợc xem nhƣ là những ngƣời tác nghiệp, đại diện cho ngƣời
dân (ngƣời ủy quyền) trong việc điều hành bộ máy nhà nƣớc, cung cấp các dịch vụ công và
thực thi chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Mối quan hệ này đƣợc Boston
và cộng sự (1996) mô tả là một hợp đồng đƣợc pháp luật quy định. Ngƣời dân (ngƣời ủy
quyền) là những ngƣời phải đóng thuế nhằm chi trả các khoản thu nhập cho những công
chức (ngƣời tác nghiệp). Tuy nhiên, mặc dù là những ngƣời ủy quyền nhƣng ngƣời dân
không thể kiếm soát đƣợc hoạt động của bộ máy chính quyền vì họ không có thông tin.
Ngƣợc lại, những ngƣời hoạt động trong chính quyền các cấp sở hữu thông tin một cách
đầy đủ hơn, bao gồm những thông tin phục vụ cho quá trình hoạch định và thực thi chính
sách, thông tin về kết quả của việc thực hiện chính sách đó. Đây chính là hệ quả của vấn đề
bất cân xứng thông tin trong khu vực công. Đối với những cán bộ, công chức điều hành bộ


5

máy nhà nƣớc, Tanzi (2000) cho rằng, họ có xu hƣớng lựa chọn các chính sách nhằm mang
lại những lợi ích cho chính họ (hoặc nhóm lợi ích của họ) bởi vì họ không phải gánh chịu
những thiệt hại do chính sách đó gây ra. Những thiệt hại này thuộc về toàn xã hội.
Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp trong khu vực công là cơ sở giải thích quan trọng cho lý
thuyết về lựa chọn công. Huỳnh Thế Du và Đỗ Thiên Anh Tuấn (2014) phân chia lựa chọn
công thành hai nhóm: i) cần thiết cho xã hội, cho cộng đồng nhƣng không có sự ủng hộ của
những ngƣời có ảnh hƣởng; và ii) không thực sự cần thiết nhƣng đƣợc sự ủng hộ của
những ngƣời có quyền lực, có ảnh hƣởng. Trong trƣờng hợp chỉ đƣợc lựa chọn một thì các
nhà hoạch định chính sách luôn lựa chọn nhóm thứ hai “bởi vì số đông “thiểu số” kia

không phải là người ra quyết định mà thực tế chính thiểu số “to lớn” nọ mới được quyền
lựa chọn” (Huỳnh Thế Du và Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014). Sự khác nhau trong kết quả của
việc lựa chọn chính sách là cơ sở phân biệt giữa hai phƣơng pháp lựa chọn chính sách
công: lựa chọn công “cứng” và lựa chọn công “mềm”. Lựa chọn công “cứng” là khi: “các
cá nhân vì quyền lợi cá nhân hạn hẹp, hành động một cách khá duy lý nhìn từ góc độ riêng
của họ, có xu hướng tạo ra các kết quả phi lý về mặt tập thể” (Huỳnh Thế Du, 2015). Lựa
chọn công “mềm” là khi: “các cá nhân hiểu biết hơn về quyền lợi riêng của họ và nói
chung có thể đi đến những kết quả duy lý về mặt tập thể” (Peterson, trích từ Huỳnh Thế
Du, 2015). Nhƣ vậy, lựa chọn công “cứng” xảy ra khi các nhà hoạch định chính sách, với
quyền lực đƣợc ngƣời dân ủy quyền, tận dụng nguồn lực xã hội để lựa chọn và thực hiện
các chính sách đem lại lợi ích cho cá nhân hoặc nhóm lợi ích của mình. Lựa chọn công
“cứng” là một trong những trục trặc của vấn đề ủy quyền – tác nghiệp trong khu vực công
khi những ngƣời tác nghiệp là những ngƣời có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn
chính sách.
Ngoài ra, ở các quốc gia Xã hội chủ nghĩa (XHCN), vấn đề ủy quyền – tác nghiệp còn xảy
ra trong mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của ĐCS với sự điều hành, quản lý của bộ máy nhà
nƣớc. Lieberthal và Lampton (1992) khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ĐCS và chính
quyền nhà nƣớc ở Trung Quốc thì thấy rằng, bộ máy nhà nƣớc có đặc điểm thực hiện các
công việc hành chính và thực thi các chính sách mà ĐCS hoạch định. Bên cạnh đó, một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc các lựa chọn công “cứng” thƣờng xảy ra ở những
quốc gia XHCN là do cơ chế ra quyết định tập thể và không một cá nhân nào phải gánh
chịu trách nhiệm cho các quyết định đó. Và đáng tiếc thay, những nghiên cứu của James


6

Buchanan, Mancur Olson và Gordon Tullock lại cho thấy rằng, trong một tập thể, mọi
ngƣời đều tƣ duy một cách duy lý nhƣng lại đƣa ra những kết quả hành động phi lý về mặt
tập thể (Trích từ Huỳnh Thế Du, 2013).
Nhƣ vậy, dù ở môi trƣờng nào thì những ngƣời sở hữu thông tin đầy đủ hơn (ngƣời tác

nghiệp) cũng đều hành động vì lợi ích và mục tiêu riêng của họ. Hay nói cách khác, vấn đề
ủy quyền – tác nghiệp là lý thuyết quan trọng giải thích cho sự lựa chọn và thực thi chính
sách của các nhà lãnh đạo, quản lý trong khu vực công.
2.1.2. Cách thức sửa chữa vấn đề ủy quyền – tác nghiệp
Sự khác biệt về lợi ích giữa ngƣời ủy quyền và ngƣời tác nghiệp chính là nguyên nhân dẫn
đến vấn đề ủy quyền – tác nghiệp. Ngƣời tác nghiệp hành động dựa trên mục tiêu và lợi ích
cá nhân của mình, kể cả khi điều đó gây tổn hại đến lợi ích của ngƣời ủy quyền. Vì thế,
cách sửa chữa vấn đề ủy quyền – tác nghiệp là làm sao thu hẹp khoảng cách về lợi ích của
ngƣời ủy quyền và ngƣời tác nghiệp hoặc tạo ra các cơ chế khuyến khích, cạnh tranh và
giám sát việc thực hiện đối với ngƣời tác nghiệp. Jensen và Meckling (1976) đƣa ra ba
nhóm giải pháp nhằm giải quyết vấn đề ủy quyền – tác nghiệp:
Thứ nhất là cơ chế khuyến khích. Cơ chế này đƣợc thực hiện bằng cách ngƣời ủy quyền
đƣa ra các hình thức thƣởng phạt tƣơng ứng với kết quả thực hiện của ngƣời tác nghiệp.
Theo đó, ngƣời tác nghiệp có thể nhận đƣợc các khoản khen thƣởng nếu nhƣ kết quả thực
hiện tốt và ngƣợc lại, phải chấp nhận bồi thƣờng nếu nhƣ kết quả thực hiện gây nên thiệt
hại cho ngƣời ủy quyền. Đồng thời, cơ chế này cũng có thể đƣợc vận hành thông qua việc
ngƣời ủy quyền có thể lựa chọn ngƣời tác nghiệp bằng hình thức bổ nhiệm hoặc thông qua
việc phân bổ ngân sách hoạt động cho ngƣời tác nghiệp.
Thứ hai là cơ chế cạnh tranh. Thông thƣờng, một ngƣời ủy quyền có thể lựa chọn nhiều
ngƣời tác nghiệp khác nhau. Việc tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa những ngƣời tác nghiệp
đƣợc xem là một trong những giải pháp nhằm giám sát hoạt động của ngƣời tác nghiệp.
Khi đó, dƣới áp lực của sự cạnh tranh và đào thải, ngƣời tác nghiệp sẽ hành động vì lợi ích
của ngƣời ủy quyền. Tuy nhiên, cơ chế cạnh tranh sẽ thất bại nếu nhƣ những ngƣời tác
nghiệp tạo thành liên minh và hành động chống lại lợi ích của ngƣời ủy quyền.
Thứ ba là cơ chế giám sát. Việc thực hiện cơ chế này nhằm hạn chế vấn đề thông tin bất
cân xứng xảy ra trong ủy quyền – tác nghiệp. Cơ chế giám sát cho phép ngƣời ủy quyền có
thể biết đƣợc hành vi của ngƣời tác nghiệp thông qua các hình thức khác nhau nhƣ: báo


7


cáo, kiểm tra hay chế độ thƣởng phạt. Tuy nhiên, quá trình thực hiện giám sát thƣờng phát
sinh chi phí rất cao.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, phƣơng thức lãnh đạo cũng có thể là cơ
chế giải quyết vấn đề ủy quyền – tác nghiệp. Miller (1992) lập luận rằng, việc lãnh đạo
hiệu quả có thể truyền cảm hứng cho ngƣời tác nghiệp, khiến họ hạn chế lợi ích của mình
và thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức. Breton và Wintrobe (1982) xem một trong
những yếu tố quan trọng trong lãnh đạo là tạo niềm tin cho ngƣời tác nghiệp (cấp dƣới) của
mình trong hệ thống quyền lực (nhƣ cơ hội thăng tiến hoặc hình thức khen thƣởng nào đó).
Breton và Wintrobe (1982) cho rằng, khi nhận đƣợc các cam kết tích cực từ ngƣời ủy
quyền (cấp trên) thì ngƣời tác nghiệp (cấp dƣới) sẽ nỗ lực hành động để cam kết đó đƣợc
thực hiện. Ngƣợc lại, đối với các cam kết tiêu cực (nhƣ trừng phạt hay sa thải) khiến cho
ngƣời tác nghiệp hạn chế hành động đi ngƣợc lại với lợi ích của ngƣời ủy quyền. Nhƣ vậy,
cơ chế lãnh đạo cũng là giải pháp nhằm sửa chữa vấn đề ủy quyền – tác nghiệp.
Nhìn chung, những cơ chế này không thể giải quyết triệt để vấn đề ủy quyền – tác nghiệp
nhƣng nó phần nào thu hẹp khoảng cách về lợi ích của ngƣời ủy quyền và ngƣời tác
nghiệp, tạo ra rào cản nhằm hạn chế những hành động trục lợi cá nhân của ngƣời tác
nghiệp và hình thành các cơ chế kiểm tra và giám sát cho ngƣời ủy quyền. Trong luận văn
này, tác giả sử dụng khung phân tích của Jensen và Meckling (1976) nhằm giải quyết vấn
đề ủy quyền – tác nghiệp xảy ra trong khu vực công, bao gồm ba cơ chế: khuyến khích,
cạnh tranh và giám sát.
2.2. Xử lý vấn đề ủy quyền – tác nghiệp bằng chính sách luân chuyển cán bộ
Lĩnh vực nghiên cứu về vai trò của chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý vẫn còn tƣơng đối
mới mẻ và các công trình nghiên cứu còn hạn chế. Phần này trình bày một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu về việc sử dụng chính sách luân chuyển cán bộ trong khu vực công,
đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý nhƣ là một phƣơng pháp nhằm giải quyết vấn đề ủy
quyền – tác nghiệp thông qua ba cơ chế: khuyến khích, cạnh tranh và giám sát.
2.2.1. Luân chuyển cán bộ tạo ra cơ chế khuyến khích
Luân chuyển là một trong những hình thức đƣợc các tổ chức thƣờng xuyên sử dụng nhằm
nâng cao chất lƣợng đội ngũ lao động và cải thiện sự đóng góp của họ cho tổ chức

(Parsons, 1951). Điều này đƣợc giải thích rằng, thông qua quá trình luân chuyển, ngƣời lao
động trải nghiệm, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm qua các vị trí khác nhau và khi trở về


8

vị trí cũ, khả năng đóng góp của họ đối với sự phát triển của tổ chức gia tăng đáng kể
(Ortega, 1999; Weichel và cộng sự, 2010). Đồng quan điểm, Campion, Cheraskin, và
Stevens (1994) cho rằng, quá trình luân chuyển mang lại hai tác động tích cực, đó là giúp
cho ngƣời lao động tích lũy kinh nghiệm nhanh hơn và thích nghi tốt hơn ở các môi trƣờng
làm việc khác nhau. Sự phát triển kỹ năng của ngƣời lao động thông qua luân chuyển là
yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển của tổ chức và khả năng thăng tiến trong sự
nghiệp của họ (Ortega, 2001). Những nhân viên có năng lực, đƣợc đánh giá thông qua
thành tích đạt đƣợc trong công việc, sẽ đƣợc các nhà quản trị lựa chọn luân chuyển và đề
bạt cho những chức vụ quản lý cao hơn trong tƣơng lai (Baiman và Demski, 1980). Với
việc áp dụng chính sách luân chuyển, ngƣời lao động (ngƣời tác nghiệp) cố gắng phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ, đạt thành tích cao để có nhiều hơn những cơ hội thăng tiến trong tổ
chức. Nhƣ vậy, với sự hình thành cơ chế khuyến khích, vấn đề ủy quyền – tác nghiệp giữa
những ngƣời chủ và ngƣời lao động đƣợc hạn chế thông qua chính sách luân chuyển.
Không chỉ đƣợc áp dụng trong môi trƣờng tƣ nhân, luân chuyển còn là một trong những
công cụ quan trọng trong chính sách sử dụng cán bộ nhà nƣớc mà chính quyền các quốc
gia sử dụng, đặc biệt là việc luân chuyển đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nghiên cứu của
Krueger (1974; Frye và Shleifer (1997) cho thấy rằng, việc bổ nhiệm và tuyển chọn các
nhà lãnh đạo, quản lý ở địa phƣơng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của
địa phƣơng nói riêng và đóng góp vào sự phát triển của quốc gia nói chung. Ở một số quốc
gia, các quan chức địa phƣơng đƣợc ngƣời dân trực tiếp chọn ra thông qua bầu cử, là
những ngƣời có năng lực và phát huy tối đa khả năng đóng góp của mình đối với sự phát
triển của địa phƣơng thông qua các mối quan hệ với ngƣời dân và nhân viên của mình
(McFarland và Seeger, 2010). Ở một số quốc gia khác, các chức danh lãnh đạo, quản lý ở
địa phƣơng cấp tỉnh thƣờng đƣợc quyết định bởi CQTW, dựa trên năng lực, sự đóng góp

của họ đối với sự phát triển kinh tế của các địa phƣơng đó (Huang, 2002). Trong mối quan
hệ này, CQTW giữ vai trò là ngƣời ủy quyền và CQĐP là ngƣời tác nghiệp. CQTW lựa
chọn những cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực ở các địa phƣơng, thông qua tiêu chí tăng
trƣởng kinh tế của địa phƣơng đó, giữ các chức vụ cao hơn trong bộ máy chính trị và cơ
quan nhà nƣớc ở Trung ƣơng (Wu, 2010). Điều này khiến cho các quan chức địa phƣơng
tập trung vào việc lựa chọn và thực thi các chính sách phục vụ cho việc phát triển kinh tế
địa phƣơng thay vì trục lợi cho cá nhân và cho nhóm lợi ích của họ (Li và Zhou, 2005).


9

Nhƣ vậy, việc áp dụng chính sách luân chuyển nhƣ là một hình thức thăng tiến tạo ra cơ
chế khuyến khích mà qua đó, vấn đề ủy quyền – tác nghiệp giữa CQTW và CQĐP, giữa
ngƣời dân và CQĐP sẽ đƣợc loại trừ.
2.2.2. Luân chuyển cán bộ tạo ra cơ chế cạnh tranh
Theo Fama (1980), sự cạnh tranh khiến cho những ngƣời lãnh đạo, quản lý có xu hƣớng
lựa chọn và thực hiện các chính sách mang lại lợi thế cho họ trong việc xây dựng hình ảnh
đối với cấp trên. Fama (1980) cho rằng, khi các nhà lãnh đạo cấp cao lấy sự phát triển của
tổ chức là tiêu chí chủ yếu nhằm đánh giá năng lực của ngƣời lãnh đạo, quản lý cấp dƣới
và là cơ sở quan trọng cho việc đề bạt thăng cấp thì việc cạnh tranh đó hoàn toàn có lợi cho
tổ chức. Sự cạnh tranh mà chính sách luân chuyển tạo ra giúp hạn chế việc các nhà lãnh
đạo, quản lý cấp dƣới (là những ngƣời tác nghiệp) hành động vì lợi ích cá nhân, gây ra
những tổn thất cho các nhà lãnh đạo, quản lý cấp trên (ngƣời ủy quyền) và cho tổ chức
(Fama, 1980).
Trong khu vực công, đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở các địa phƣơng, việc đƣợc luân
chuyển ra Trung ƣơng giữ các chức vụ cao hơn trong hệ thống chính trị và cơ quan nhà
nƣớc đƣợc xem là bƣớc tiến lớn trong sự nghiệp của họ. Chính vì thế, sự cạnh tranh trong
đội ngũ lãnh đạo, quản lý giữa các địa phƣơng là điều không thể tránh khỏi và nó đƣợc ví
nhƣ là một giải đấu kéo dài (Mookherjee, 1988). Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các địa
phƣơng cố gắng thể hiện năng lực của mình thông qua việc điều hành địa phƣơng đó, tạo

ấn tƣợng cho CQTW bằng những thành tích đạt đƣợc với địa phƣơng đó (Wu, 2010). Nhƣ
vậy, thông qua việc hình thành sự cạnh tranh, CQTW có thể hạn chế đƣợc vấn đề ủy quyền
– tác nghiệp xảy ra ở CQĐP, đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn và thực thi chính
sách phát triển kinh tế địa phƣơng.
2.2.3. Luân chuyển cán bộ tạo ra cơ chế giám sát
Tùy thuộc vào từng trƣờng hợp, CQTW có thể quyết định luân chuyển, bổ nhiệm các chức
vụ cao hơn đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý các địa phƣơng có năng lực và đóng
góp lớn vào sự phát triển của địa phƣơng đó. Ngƣợc lại, đối với những cán bộ lãnh đạo,
quản lý năng lực yếu kém, điều hành, quản lý không hiệu quả, không tạo ra sự phát triển
đối với kinh tế địa phƣơng thì CQTW có quyền cách chức, luân chuyển xuống những vị trí
thấp hơn trong bộ máy quyền lực. Theo đó, chính sách LCCB trở thành công cụ giám sát
của CQTW đối với CQĐP (Huang, 2002).


10

Ngoài ra, một trong những đối tƣợng thuộc diện LCCB mà CQTW quan tâm giám sát là
những ngƣời nắm giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hai nhiệm kỳ liên tiếp. Chính vì
thế, tƣ duy nhiệm kỳ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến động lực phụng
sự của các cán bộ, công chức làm việc trong khu vực công, đặc biệt là những ngƣời nắm
giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý. Trên thế giới, các nghiên cứu về tƣ duy nhiệm kỳ và giới
hạn nhiệm kỳ đều cho thấy đƣợc sự tác động của nó đến hành vi ra quyết định của ngƣời
lãnh đạo, đặc biệt là các quyết định lựa chọn chính sách kinh tế của một địa phƣơng và một
quốc gia (Rogoff, 1990; Besley và Case, 1992; Besley và Case, 1995; J. M. Johnson và
Crain, 2004). Các nhà nghiên cứu có nhiều quan điểm khác nhau về thời gian nhiệm kỳ
của những ngƣời lãnh đạo, quản lý đối với tăng trƣởng kinh tế địa phƣơng. Quan điểm ủng
hộ kéo dài thời gian nhiệm kỳ đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phƣơng vì
cho rằng điều này sẽ mang lại sự tăng trƣởng kinh tế lâu dài và bền vững hơn. Padro
Miquel và Snyder (2006) nhận định rằng, các nhà lãnh đạo, quản lý địa phƣơng với nhiệm
kỳ lâu dài có nhiều kinh nghiệm hơn, am hiểu tình hình phát triển của địa phƣơng mình

phụ trách hơn, từ đó có thể đề xuất những giải pháp, chính sách kinh tế, xã hội hiệu quả
hơn. Biglaiser và Mezzetti (1997) thì cho rằng, với nhiệm kỳ dài hơn, các nhà lãnh đạo,
quản lý địa phƣơng có nhiều động lực hơn trong việc thực hiện các chính sách đầu tƣ, cải
cách kinh tế mang tính lâu dài nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tƣơng
lai. Ngƣợc lại, thời gian giới hạn trong nhiệm kỳ lãnh đạo, quản lý có thể là nguyên nhân
khiến những ngƣời này có động cơ tham nhũng, hối lộ vì họ biết rằng họ sẽ mất hết quyền
lực sau khi mãn nhiệm (Fredriksson và Svensson, 2003). Khi đó, những ngƣời đứng đầu
địa phƣơng này có xu hƣớng lựa chọn các chính sách kinh tế, đầu tƣ mang lại lợi ích cho
chính bản thân họ mà không quan tâm đến tính hiệu quả của chính sách đó, gây ra sự lãng
phí nguồn lực xã hội. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, việc kéo dài nhiệm kỳ đối với các
cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể làm tổn hại đến sự phát triển kinh tế của địa phƣơng đó.
Việc họ có khả năng duy trì quyền lực và sự lãnh đạo lâu dài khiến cho họ dễ dàng bị chi
phối bởi các chính sách mang nhiều lợi ích nhóm hơn là việc đánh giá tính hiệu quả, thiết
thực của chính sách đó (McNutt, 1997; Fredriksson và Svensson, 2003; Ashworth, 2005).
Nhƣ vậy, việc áp dụng chính sách LCCB kết hợp với chính sách nhiệm kỳ đối với đội ngũ
lãnh đạo, quản lý các địa phƣơng nhằm tạo ra áp lực giám sát của CQTW, đồng thời gia
tăng trách nhiệm của CQĐP trong việc lựa chọn và thực thi các vấn đề về chính sách công.


11

Nhìn chung, mặc dù các công trình nghiên cứu vẫn còn hạn chế nhƣng đều cho thấy hiệu
quả và tác động của chính sách LCCB lãnh đạo, quản lý trong việc xử lý vấn đề ủy quyền –
tác nghiệp giữa CQTW và CQĐP thông qua việc hình thành các cơ chế khuyến khích, cạnh
tranh và giám sát. Các chƣơng tiếp theo sẽ phân tích và so sánh sự khác biệt trong chính
sách LCCB lãnh đạo, quản lý địa phƣơng cấp tỉnh của Việt Nam và Trung Quốc để cho
thấy đƣợc tác động của chính sách này đối với tăng trƣởng kinh tế của các địa phƣơng.


12


CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ ỦY QUYỀN – TÁC NGHIỆP TRONG MÔ HÌNH TỔ CHỨC
NHÀ NƢỚC CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

Chƣơng này trình bày mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc của Việt Nam cũng nhƣ
Trung Quốc, cách thức mà CQTW lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các địa phƣơng và
những trục trặc về vấn đề ủy quyền – tác nghiệp xuất phát từ mô hình đó.
3.1. Mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc tập quyền XHCN
CQĐP đƣợc xem là đại diện cho quyền lực của nhà nƣớc trong việc thực hiện quản lý hành
chính tại mỗi địa phƣơng. Mối quan hệ giữa CQTW và CQĐP phụ thuộc vào hình thức tổ
chức quyền lực nhà nƣớc của từng quốc gia. Mối quan hệ này đƣợc xác định dựa trên bốn
hình thức tổ chức quyền lực nhà nƣớc: tập quyền, tản quyền, phân cấp, phân quyền.
Việt Nam và Trung Quốc đều tổ chức chính quyền nhà nƣớc theo mô hình tập quyền
XHCN, là mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc điển hình của các quốc gia phát triển
theo định hƣớng XHCN. Theo Nguyễn Cửu Việt và Trương Đắc Linh (2011), mô hình
chính quyền nhà nƣớc tập quyền XHCN là mô hình “tổng hợp đầy đủ các yếu tố của tập
quyền, tản quyền và phân quyền kết hợp với ủy quyền. Trong đó các yếu tố tập quyền là
chủ đạo, tản quyền là phổ biến, phân quyền rất yếu ớt và cá lẻ, ủy quyền diễn ra phổ biến
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng”. Trong mô hình này,
CQĐP đƣợc phân chia thành các đơn vị hành chính – lãnh thổ theo cấp bậc. Từng cấp bậc
hành chính cơ bản đều có cơ quan đại diện của ngƣời dân, đƣợc ngƣời dân trực tiếp bầu ra.
Cơ quan này thành lập bộ máy nhà nƣớc cấp tƣơng ứng và chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt
động của cấp chính quyền đó. Bên cạnh đó, “bộ máy nhà nước được tổ chức thành hệ
thống theo thứ bậc chặt chẽ, cả trong quan hệ giữa Trung ương – địa phương, giữa cấp
trên – cấp dưới” (Nguyễn Cửu Việt và Trương Đắc Linh, 2011). Đây chính là yếu tố “song
trùng trực thuộc” đặc trƣng của CQĐP trong mô hình tập quyền XHCN. Theo đó, bộ máy
chính quyền cấp dƣới chịu sự giám sát của đồng thời hai cơ quan, cơ quan đại diện cho
quyền lực ngƣời dân, đƣợc ngƣời dân bầu ra ở cấp tƣơng ứng và bộ máy chính quyền cấp
trên.
Một điểm nổi bật trong hệ thống chính trị và tổ chức bộ máy nhà nƣớc ở các quốc gia

XHCN là vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của ĐCS. Theo Nguyễn Hữu
Khiển (2011), đây là mối quan hệ giữa lực lƣợng chính trị và bộ máy công quyền. Đảng


13

cầm quyền giữ chức năng lãnh đạo còn bộ máy nhà nƣớc giữ chức năng quản lý, tổ chức
và thực thi. Hệ thống chính trị của Đảng cũng đƣợc phân thành các cấp ủy, tƣơng ứng với
từng cấp chính quyền trong bộ máy nhà nƣớc. Cấp ủy Đảng là cơ quan đại diện cho Đảng,
chịu trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối đối với chính quyền cấp tƣơng
ứng (Lieberthal và Lampton, 1992). Kornai (2002) cho rằng, Đảng còn đóng vai trò rất
quan trọng trong việc lựa chọn các thành viên của các cơ quan lập pháp, cơ quan hành
pháp và cơ quan tƣ pháp. Các tổ chức Đảng ra quyết định về tất cả các công việc chủ yếu
của nhà nƣớc trƣớc khi cơ quan nhà nƣớc quyết định (Kornai, 2002). Bên cạnh đó, Đảng
còn thực hiện chức năng lãnh đạo thông qua hệ thống đảng viên, những ngƣời nắm giữ các
chức danh trong bộ máy nhà nƣớc. Đồng thời, Đảng có thể thực hiện quyền bổ nhiệm hoặc
giới thiệu nhân sự của mình trong bộ máy chính quyền nhà nƣớc các cấp, từ Trung ƣơng
đến địa phƣơng (Kornai, 2002).
Nhƣ vậy, đối với địa phƣơng cấp tỉnh, Đảng bộ tỉnh (mà ngƣời đứng đầu là Bí thƣ) đại
diện cho sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ nhân dân tỉnh (mà ngƣời đứng đầu là Chủ
tịch) chịu trách nhiệm tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng đó. Khác với
chức danh Chủ tịch tỉnh, đƣợc bầu từ cơ quan đại diện cho quyền lực của ngƣời dân
(HĐND hay Nhân đại) thì Bí thƣ đƣợc bầu tƣ Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (là cơ quan
đƣợc bầu ra từ các Đảng viên trong tỉnh đó). Ngoài ra, các chức danh lãnh đạo trong Đảng
bộ tỉnh hay chức danh quản lý trong bộ máy CQĐP có thể đƣợc chỉ định, bổ nhiệm hoặc
giới thiệu từ cơ quan Đảng cấp trên (là Trung ƣơng Đảng). Nguyên tắc này thể hiện sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong chính sách cán bộ ở các quốc gia XHCN.
3.1.1. Mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc của Việt Nam
Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015) quy định đơn vị hành chính bao gồm: (i)
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi chung là cấp tỉnh); (ii) huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi chung là cấp huyện); (iii) xã,
phƣờng, thị trấn (gọi chung là cấp xã) và (iv) đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Theo số
liệu từ Tổng cục thống kê, tính đến 01/01/2016, cả nƣớc có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh
(trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung ƣơng: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ), 713 đơn vị cấp huyện (trong đó gồm 546 huyện, và 11.162
đơn vị cấp xã (trong đó gồm 1.581 phƣờng, 603 thị trấn và 8.978 xã).


14

Hình 1: Sơ đồ tổ chức hệ thống chính trị và bộ máy nhà nƣớc Việt Nam
CHÍNH QUYỀN
Trung
ƣơng

Tỉnh

Đại hội Đảng
toàn quốc

Bầu

BCH TW ĐCSVN

chọn

(Tổng bí thƣ)

Đảng ủy


Bầu

BCH Tỉnh ủy

Tỉnh

chọn

(Bí thƣ)

UBND Huyện

Đảng ủy

Bầu

BCH Huyện ủy

(Chủ tịch)

Huyện

chọn

(Bí thƣ)

Đảng ủy Xã

Bầu


BCH Đảng ủy Xã

chọn

(Bí thƣ)

Đại hội đại
biểu toàn quốc

Bầu

Chính phủ

chọn

(Thủ tƣớng)

Hội đồng nhân
dân Tỉnh

Bầu

UBND
Tỉnh

chọn

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

(Chủ tịch)

Huyện



Hội đồng nhân
dân Huyện

Bầu

Hội đồng nhân
dân Xã

Bầu

UBND Xã

chọn

(Chủ tịch)

chọn

(Nguồn: Tác giả tự vẽ)
Cấp chính quyền địa phƣơng gồm có HĐND và UBND. HĐND gồm các đại biểu HĐND
do cử tri địa phƣơng bầu ra và là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, chịu trách
nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp trên. HĐND hiện nay bao gồm
HĐND tỉnh, HĐND huyện và HĐND xã. UBND do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp
hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phƣơng, chịu trách nhiệm trƣớc nhân
dân địa phƣơng, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trên. Nhƣ vậy, đối
với UBND tỉnh, là cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp tỉnh sẽ chịu trách nhiệm trƣớc ngƣời

dân tỉnh đó, trƣớc HĐND tỉnh và trƣớc CQTW (Chính phủ).
Ngƣời đứng đầu hệ thống chính trị của địa phƣơng cấp tỉnh là bí thƣ tỉnh ủy, đƣợc bầu từ
Đại hội Ban chấp hành Đảng bộ của tỉnh, đại diện cho sự lãnh đạo của Đảng tại địa phƣơng
đó. Ngƣời đứng đầu cơ quan hành chính nhà nƣớc địa phƣơng cấp tỉnh là chủ tịch UBND
tỉnh, đƣợc HĐND tỉnh tín nhiệm bầu ra. Thông thƣờng, chủ tịch tỉnh sẽ kiêm nhiệm là phó
bí thƣ tỉnh ủy. Điều này càng thể hiện rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của
CQĐP. Ngoài ra, đối với địa phƣơng cấp tỉnh, BCT và BBT có thể bổ nhiệm hoặc chỉ định
cán bộ tham gia lãnh đạo, quản lý ở địa phƣơng đó.


15

3.1.2. Mô hình tổ chức chính quyền địa nhà nƣớc của Trung Quốc
Hiến pháp Trung Quốc quy định có 3 cấp hành chính: tỉnh, huyện và hƣơng. Theo thống
kê, tính cho đến ngày 31/12/2011, Trung Quốc có 33 đơn vị hành chính cấp tỉnh (bao gồm
22 tỉnh; 4 thành phố trực thuộc Trung ƣơng là Bắc Kinh, Thiên Tân, Thƣợng Hải, Trùng
Khánh; 5 khu tự trị là Ninh Hạ, Nội Mông Cổ, Quảng Tây, Tân Cƣơng, Tây Tạng; 2 đặc
khu hành chính là Hồng Kông, Ma Cao), 2.853 đơn vị hành chính cấp huyện (bao gồm 857
quận, 360 thị xã, 1.456 huyện, 117 huyện tự trị, 49 kỳ, 3 kỳ tự trị. 1 đặc khu và 1 lâm khu),
40.466 đơn vị hành chính cấp hƣơng (bao gồm 19.683 trấn, 12.395 hƣơng, 1.085 hƣơng
dân tộc, 106 tô mộc, 1 tô mộc dân tộc, 7.194 nhai đạo và 2 công sở khu). Trên thực tế,
Trung Quốc đƣợc chia thành 5 cấp đơn vị hành chính: tỉnh, địa khu, huyện, hƣơng và thôn.
Địa khu là đƣợc xem là chi nhánh của chính quyền tỉnh còn thôn là một tổ chức tự quản
của cộng đồng dân cƣ. Tuy nhiên, ở một số hƣơng có địa bàn rộng lớn, thôn hình thành và
đƣợc trao cho nhiều quyền lực hành chính.
Các cấp hành chính đƣợc quy định theo Hiến pháp đều thành lập Hội đồng đại biểu nhân
dân (Nhân đại) và Chính phủ nhân dân do ngƣời dân địa phƣơng trực tiếp bầu ra. Đối với
cấp địa khu và thôn, cơ quan hành chính đƣợc bổ nhiệm bởi chính phủ nhân dân cấp trên
nó. Chính phủ nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm cơ quan hành chính địa khu và chính phủ nhân
dân cấp hƣơng bổ nhiệm cơ quan hành chính thôn. Một điểm đáng lƣu ý, Trung Quốc thừa

nhận sự tồn tại của các khu tự trị, các đặc khu với mức độ độc lập khác nhau, thậm chí độc
lập cả về chính trị nhƣ Hồng Kông và Ma Cao.
Tƣơng tự nhƣ Việt Nam, đội ngũ lãnh đạo, quản lý địa phƣơng cấp tỉnh ở Trung Quốc có
thể đƣợc bầu trực tiếp từ Đại hội Đảng bộ của tỉnh (đối với chức danh bí thƣ) và Nhân đại
cấp tỉnh (đối với chức danh chủ tịch) hoặc đƣợc chỉ định và bổ nhiệm từ BCT Trung ƣơng.
3.2. Vấn đề ủy quyền – tác nghiệp trong mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc tập
quyền XHCN
Nhƣ đã trình bày, vấn đề ủy quyền – tác nghiệp không chỉ xảy ra trong môi trƣờng các
công ty, doanh nghiệp mà nó còn là lý thuyết quan trọng giải thích cho việc lựa chọn chính
sách của các nhà lãnh đạo, quản lý địa phƣơng.
Một cách chi tiết, Terry Moe (1984) cho rằng, sự phân cấp quyền lực trong bộ máy quản lý
nhà nƣớc khiến cho nó tồn tại một chuỗi mối quan hệ giữa ngƣời ủy quyền – ngƣời tác
nghiệp. Theo đó, Moe (1984) chia vấn đề ủy quyền – tác nghiệp trong khu vực công thành


×