Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Chùa Nam Nhã và chùa Phước Hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.95 KB, 6 trang )

Chùa Nam Nhã
Chùa Nam Nhã, do lão Thái Nguyễn Giác Duyên lập nên, hồi cuối thế kỷ
19, nổi tiếng về vẻ đẹp kiến trúc bề thế, vững chãi mà hài hòa với thiên
nhiên. Chùa cũng từng là trụ sở chính của phong trào Đông du (1907 –
1940). Năm 1917, chùa được trùng tu. Sân chùa rộng rãi trồng nhiều cây,
giữa sân là hòn non bộ cao hơn 2m. Chùa chủ trương ăn chay nhưng
không cạo đầu hay mặc nâu sồng và rất đề cao ý chí tự lực tự cường để
tồn tại và phát triển.
Trong chính điện có bàn thờ sư cụ Giác Nguyên, Lịch Đại Tổ sư, ban thờ
Tam giáo với ba pho tượng bằng đồng là tượng Đức Phật Thích Ca, Đức
Khổng Tử và tượng Lão Tử. Hai bên chính điện là hai ngôi nhà 5 gian
dành cho phái nam và phái nữ ở. Phía sau là khu vườn mộ, nơi yên nghỉ
của những người tham gia phong trào Đông Du và xây dựng chùa. Ngôi
chùa này nổi tiếng không chỉ về vẻ đẹp kiến trúc, mà còn bởi lịch sử hình
thành và phát triển của nó gắn liền với phong trào cách mạng của nhân
dân và tinh thần bất khuất của một số sĩ phu, văn thân yêu nước trong
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chùa Nam Nhã thuộc ấp Bình Nhật, xã Long Tuyền (nay thuộc phường
An Thới thành phố Cần Thơ), phía trước chùa là dòng sông Bình Thủy in
hình những bóng cây đại thụ, đối diện là đình Long Tuyền uy nghi đồ sộ.
Phía đông là cồn Sơn ví như trái châu của suối Rồng (Long Tuyền) và
cồn Bình Thủy ví như lưỡi rồng, nằm giữa dòng sông Hậu cuồn cuộn
chảy theo những lớp sóng bạc đầu.
Chùa được xây cất trên một khoảnh đất hàng chục mẫu, cổng chùa xây
bằng gạch cổ, lợp ngói ta, vững chãi bề thế. Sân chùa được bao quanh
bởi một khu vườn lớn trải dài ra tận bờ sông Bình Thủy; giữa vườn là
hòn non bộ cao trên 2m được đặt trong một bồn nước trong xanh xây
bằng gạch tầu đỏ sậm, trong vườn trồng nhiều cây tùng, cây trắc và các
cây cổ thụ khác. Đan xen dưới những gốc cây này là những cây kiểng
quý giá, tuổi ngót 100 năm được cắt uốn rất công phu.
Chính diện là một ngôi nhà lớn 5 gian, xây theo lối vòng cung, mỗi gian


được 4 cột xi-măng chống đỡ với 3 vòm bán nguyệt. Các họa tiết hoa
văn trang trí ở đây đều được tô đắp rất công phu tỉ mỉ làm tăng vẻ mỹ lệ
của gian chính diện. Sau chính điện là một hành lang dài có hai căn
phòng tiếp khách quý. Bên phải và bên trái chùa là 2 dãy nhà lợp ngói
gọi là Đông Lan đường (còn gọi là Cần đạo đường) dùng cho nam giới
và Tây Lan đường (còn gọi là Khôn đạo đường) dùng cho nữ giới ăn
thông với nhà bếp. Sau chùa là cả một vườn cây ăn trái, xanh tốt quanh
năm, mùa nào quả ấy, tiêu biểu cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Lịch sử chùa Nam Nhã có nhiều nét độc đáo. Nguyên từ năm 1895 do
chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của các vị lão sư Đinh Hảo Khiêm, Ngô Cẩn
Tiền ở chùa Quảng Nam (Đa Kao, Sài Gòn) xuống Bình Thủy truyền
đạo Minh Sư thờ Tam Giáo (Nho, Phật, Lão), lão thái Nguyễn Giác
Duyên bèn dẹp tiệm thuốc bắc ở chợ Bình Thủy về ấp Bình Nhật và lập
nên ngôi chùa Nam Nhã. Đầu tiên, ngôi chùa chỉ có 3 gian, cột gỗ, cổng
và mái lợp ngói rất đơn sơ gồm chính điện là gian giữa, hai gian bên là
Đông Lan đường và Tây Lan đường. Đến năm Đinh Tî (1917), Nguyễn
Giác Duyên và em là Nguyễn Giác Cung, cùng ban chủ sự chùa gồm
Dương Văn Đạt (thầy Ba Chệt), Mai Thị Đồ, Bùi Hữu Sanh (con trai thủ
khoa Bùi Hữu Nghĩa) cùng chung lo xây lại chùa lần thứ hai có nhà Tam
Bảo. Đến năm 1923, chùa lại được tu bổ, hoàn thiện thêm một lần nữa và
có quy mô to lớn như ngày nay.
Nam Nhã chính là tên hiệu thuốc bắc của lão thái Nguyễn Giác Duyên,
chùa còn có tên là Minh Sư. Từ ngày đầu thành lập, tại chùa đã có nhiều
hoạt động yêu nước và tiến bộ.
Chùa Nam Nhã còn nổi tiếng vì đây là trụ sở chính của phong trào Đông
du (1907-1940) do cụ Phan Bội Châu khởi xướng. Ngôi chùa là nơi
thường lui tới của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Cường Để,
Nguyễn Hào Vĩnh... Trong thời kỳ Đông du, chùa đã tự tổ chức ra nhiều
cơ sở kinh tài, lấy tiền nuôi học sinh du học, chống lại chính sách ngu
dân của thực dân Pháp. Tại đây, nhiều cuộc bình thơ, họa thơ đã được tổ

chức và xuất hiện nhiều áng văn thơ yêu nước, có nội dung đòi độc lập
dân tộc, dân chủ, dân quyền. Văn phẩm Đạo Nam kinh do chùa Nam
Nhã phổ biến, thời kỳ này bị Pháp liệt vào loại sách cấm, đã đề cao vai
trò học vấn, chống ngu muội, chống mê tín, đề cao tiến bộ khoa học kỹ
thuật của văn minh loài người.
Ngày nay, chùa Nam Nhã vẫn duy trì được lối sống giản dị đó, du khách
đến chùa bất kỳ lúc nào cũng thấy một không khí làm việc tấp nập trong
sự yên tĩnh đặc biệt.
Chùa Phước Hậu
Từ Thành phố Cần Thơ, xuôi dòng sông Hậu về phía hạ lưu cách
thị trấn Trà Ôm không đầy một cây số, bạn sẽ thấy ở Tản Nhạn có
một ngôi chùa cổ đứng giữa những tán tre già. Ðây là một di tích
có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử Phật giáo Việt Nam thế
kỷ XX cũng như lịch sử Cách mạng của tỉnh Vĩnh Long và khu
Tây Nam Bộ thời chống Mỹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ chùa Phước Hậu đã trở thành cơ sở
hoạt động của các tổ chức Cách mạng khu Tây Nam Bộ, người
phụ trách cơ sở này là Hoà thượng Hoàng Phú, tục danh của ông
là Võ Văn Minh. Trong số các hiện vật lịch sử cách mạng đang
lưu trữ tại bảo tàng Vĩnh Long có các thẻ tín đồ phật giáo do chùa
Phước Hậu xuất cho một số cán bộ hoạt động công khai ở thành
thị, có thể tìm thấy ở đây thẻ tín đồ kèm với căn cước của đồng
chí Lê Minh lấy tên là Trần Văn Cần và đồng chí Nguyễn Văn
Lưu lấy tên là Trần Văn Sáu. Trải qua bao trận phong ba ngôi
chùa vẫn đứng hiên ngang giữa vòng vây của quân thù. Cơ sở cách
mạng vẫn được giữ nguyên vẹn cho đến ngày thống nhất đất nước,
chùa Phước Hậu lại trở về với không khí trầm mạc, ôn nhã của
chốn thiền lâm ngày ngày sống dưới thanh quê nơi thôn dã như
cha ông xưa từng mơ ước. Mùng một ngày rằm khách thập phương
cùng đồng bào Phật tử đến chùa dâng hoa lễ vật với lòng kính

ngưỡng các vị tổ sư, đó là những bậc chân tu đã đem hết đạo hạnh
và trí tuệ của mình hiến dâng cho tổ quốc, cho đồng bào.
Năm 1994 chùa Phước Hậu được công nhận là Di tích Lịch sử-
Văn hoá xếp vào hạng danh lam trên đất nước Việt Nam. Trong
nắng sớm mưa chiều tiếng chuông trầm hùng của chùa Phước Hậu
cứ mãi ngân vang, tiếng chuông như gợi nhớ bao kỷ niệm về
những ngày đấu tranh gian khổ, về những người khoác áo nâu
sòng đã hiến trọn cuộc đời để giữ chọn mối đạo, vẹn nghĩa với
nước non. Thật đáng trân trọng lý tưởng của đấng tu hành không
phải để tạo công lập đức mà vì sự an nguy của chúng sinh vì sự
giác ngộ đâu là đường đi hay lẽ phải. Cái đẹp của di tích lịch sử
chùa Phước Hậu chính là giá trị nhân văn xuất phát từ truyền
thống yêu nước và đạo nghĩa của dân tộc ta.
Ðến năm 1994, số lượng cò về ngày càng nhiều. Chim bắt đầu xây
tổ nên cây cối chết dần. Trước tình hình đó, ông bàn bạc cùng vợ
con bỏ làm ruộng, đào ao nuôi cá làm thức ăn cho cò, trồng thêm
cây cho chúng cư trú. Ngày tháng trôi qua, dưới sự miệt mài chăm
sóc của gia đình ông cây cối trong vườn lại xanh tốt, lượng cò rủ
nhau về và sinh sản trên phần đất của ông ngày càng nhiều hơn.
Ðiều kỳ lạ là cò chỉ thích quanh quẩn trong "ngôi nhà xanh" mà

×