Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Các yếu tố tác động đến việc tham gia tổ hợp tác của nông hộ huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.28 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________

NGUYỄN THÀNH NGHIỆP

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THAM GIA
TỔ HỢP TÁC CỦA NÔNG HỘ HUYỆN TRÀ CÚ,
TỈNH TRÀ VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________

NGUYỄN THÀNH NGHIỆP

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THAM GIA
TỔ HỢP TÁC CỦA NÔNG HỘ HUYỆN TRÀ CÚ,
TỈNH TRÀ VINH

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. TRƢƠNG ĐĂNG THỤY

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Các yếu tố tác động đến việc tham gia tổ

hợp tác của nông hộ huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh” hoàn toàn do tôi thực
hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và
có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất
thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Nghiệp


MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT LUẬN VĂN
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1
1.1 Đặt vấn đề ..........................................................................................................1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................5

1.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................5
1.4 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................5
1.5 Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................6
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................7
2.1 Các khái niệm ....................................................................................................7
2.1.1 Khái niệm về hộ nông dân và kinh tế hộ .....................................................7
2.1.1.1 Khái niệm hộ nông dân .........................................................................7
2.1.1.2 Khái niệm kinh tế nông hộ ....................................................................7
2.1.2 Khái niệm về tổ hợp tác...............................................................................7
2.1.3 Vai trò của tổ hợp tác ..................................................................................9
2.1.4 Những lợi ích của tổ hợp tác .....................................................................10
2.1.5. Sự giống nhau và khác nhau giữa Tổ hợp tác và hợp tác xã

…………11

2.2 Lược khảo các nghiên cứu về quyết định tham gia tổ hợp tác .....................122
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................311
3.1 Mô hình kinh tế lượng ...................................................................................311
3.2 Khung phân tích nghiên cứu ..........................................................................311
3.3 Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................344
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ...............................................................355


4.1 Thống kê mô tả ..............................................................................................355
4.2 Mô hình hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia tổ hợp tác 399
4.3 Những yếu tố quan trọng khi quyết định tham gia tổ hợp tác ......................411
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................511
5.1 Kết luận ..........................................................................................................511
5.2 Kiến nghị........................................................................................................522
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Tình hình tham gia Tổ hợp tác tại huyện Trà Cú năm 2014.......................3
Bảng 1.2 Tình hình tham gia Tổ hợp tác tại huyện Trà Cú năm 2016.......................4
Bảng 3.1 Định nghĩa các biến trong mô hình ........................................................... 33
Bảng 4.1: Tham gia tổ hợp tác ................................................................................ 355
Bảng 4.2: Giới tính ..................................................................................................... 5
Bảng 4.3: Nghề chính ............................................................................................. 366
Bảng 4.4: Nghề phụ ................................................................................................ 366
Bảng 4.5: Trình độ học vấn .................................................................................... 377
Bảng 4.6: Thông tin về hoạt động trồng trọt .......................................................... 377
Bảng 4.7: Mô hình logit phân tích các yếu tố tác động đến việc tham gia tổ
hợp tác .................................................................................................. 399
Bảng 4.8: Tác động biên ........................................................................................... 41
Bảng 4.9: Tầm quan trọng của các yếu tố quyết định việc tham gia vào tổ hợp tác ......... 2
Bảng 4.10: Cảm nhận lợi ích của hộ nông dân khi tham gia sản xuất với tổ hợp tác.... 455
Bảng 4.11: Cảm nhận rủi ro của hộ nông dân khi tham gia sản xuất với tổ hợp tác ..... 488


DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1 Khung phân tích nghiên cứu ....................................................................322


TÓM TẮT LUẬN VĂN

Cùng với các chủ trương, chính sách của Trung ương về khuyến khích nông
hộ tham gia tổ hợp tác, đã tác động tích cực đến quy mô, số lượng tổ kinh tế hợp tác
tại các địa phương trên toàn quốc. Trong những năm gần đây tổ hợp tác trên địa bàn
tỉnh Trà Vinh liên tục phát triển nhanh, tăng bình quân trên 3%/năm; đến năm 2014

có 1.359 tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp chuyên về cây trồng; tại huyện Trà Cú
năm 2014 có 292 tổ hợp tác với 5.656 thành viên (người) tham gia; đến năm 2016
có 366 tổ hợp tác, với 8.688 thành viên (người) tham gia. Tổ hợp tác tuy quy mô
không lớn như hợp tác xã, nhưng đã góp phần tích cực trong việc hình thành và phát
triển hợp tác xã kiểu mới trong tương lai nhằm thực hiện thắng lợi tái cơ cấu sản
xuất ngành nông nghiệp.
Tuy nhiên, tại huyện Trà Cú tỷ lệ nông hộ tham gia tổ hợp tác sản xuất
không cao, mặc dù đã mang lại nhiều lợi ích cho nông dân. Vì vậy luận văn tập
trung phân tích các yếu tố tác động đến quyết định tham gia tổ hợp tác của nông hộ
ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Với mô hình kinh tế lượng xác định xác suất quyết
định tham gia vào tổ hợp tác.
Các nghiên cứu cho thấy khi các hộ nông dân hợp tác tổ chức lại sản xuất
thì sẽ được hưởng rất nhiều thuận lợi, bao gồm việc được học hỏi và hướng dẫn
quy trình kỹ thuật, tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô và sức mạnh thị trường
khi thương lượng với người mua sản phẩm và người bán vật tư, cũng như được
cung cấp thông tin về thị trường. Luận văn này tập trung nghiên cứu các yếu tố tác
động đến quyết định tham gia tổ hợp tác của các nông hộ trồng trọt, từ đó đề xuất
các chính sách thúc đẩy tham gia tổ hợp tác ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, góp
phần thực hiện thắng lợi tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp của huyện nhà trong thời
gian tới.


1
CHƢƠNG 1:
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Nông nghiệp ở nước ta có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là
ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế; cung cấp số lượng lớn về lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tham gia xuất khẩu thu về
ngoại tệ cho nền kinh tế. Nông nghiệp đóng góp khoảng 17% trên Tổng sản phẩm

trong nước GDP Ngân hàng thế giới, 2015). Nông nghiệp không chỉ là nơi cung
cấp lao động cho các khu vực kinh tế khác mà còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn,
góp phần bảo vệ môi trường sinh thái nông thôn; sự ổn định về xã hội và an toàn về
lương thực của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nông nghiệp - nông
thôn. Nông nghiệp - nông thôn còn là nơi tập trung sinh sống của đại bộ phận dân
cư trong cả nước. Chính vì những lí do đó mà Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách lớn nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp - nông thôn và được
ưu tiên đặc biệt nhất trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Việt Nam là nơi có số dân nông thôn đông, chiếm khoảng 66,4% dân số của
cả nước (Ngân hàng thế giới, 2015) và 69,3% lực lượng lao động xã hội (Báo cáo
điều tra lao động việc làm, Tổng cục thống kê, 2015). Ngoài ra, Nước ta là một
trong những nước có nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu, điều kiện sinh thái tốt cho
cây trồng để xuất khẩu, tạo điều kiện cho lao động nông thôn nước ta có công ăn
việc làm, ổn định đời sống nhân dân. Trong những năm vừa qua ngành nông nghiệp
đã có những bước phát triển đáng kể góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế, xã hội
nông thôn của cả nước, trong đó ngành nông nghiệp là ngành mũi nhọn đã đem về
cho người nông dân nhiều thành tựu kinh tế đáng kể trong thời kỳ hội nhập.
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới nông nghiệp, đã góp phần đưa
nền kinh tế nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng, sản xuất lương thực đảm
bảo nhu cầu cho toàn xã hội. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển biến
tích cực theo hướng đa dạng; tuy nhiên sự chuyển biến còn chậm, cơ cấu vẫn chưa


2
đạt mức độ hợp lý. Vì vậy cần nhận thức rõ những tồn tại trong nông nghiệp để đưa
ra phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng
ngày càng hợp lý và hoàn thiện. Kinh tế tập thể là một trong những yếu tố thúc đẩy
sự phát triển của nông nghiệp, nâng cao thu nhập, sức cạnh tranh thị trường, hạn chế
rủi ro cho người nông dân, góp phần ổn định kinh tế nông thôn, đưa nền nông
nghiệp nước nhà từng bước vững chắc; trong đó vai trò của tổ hợp tác là rất quan

trọng và không thể thiếu được, chính vì thế năm 2005 Quốc Hội đã đưa cụm từ
“định nghĩa tổ hợp tác” vào Bộ Luật Dân sự, trên cở sở đó Chính Phủ đã ban hành
Nghị định số 151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007 về tổ chức và hoạt động của tổ hợp
tác, Bộ Kế hoạch và đầu tư có Thông tư số 04/2008/TT-BKH ngày 09/7/2008
Hướng dẫn một số quy định tại Nghị định số 151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007 về
tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành
Quyết định số 122/QĐ-UBND ngày 22/01/2015 Phê duyệt Kế hoạch đổi mới, phát
triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tỉnh Trà Vinh giai
đoạn 2015-2020. Quán triệt các chủ trương, chính sách của Trung Ương, tỉnh;
Huyện ủy Trà Cú đã xây dựng Kế hoạch số 146-KH/HU, ngày 23/3/2015 về xây
dựng và phát triển kinh tế tập thể của huyện giai đoạn 2015 - 2020.
Như vậy cho thấy cùng với sự phát triển chung của cả nước thì trong những
năm gần đây tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh Trà Vinh liên tục phát triển nhanh, tăng
bình quân trên 3%/năm, đến năm 2014, trên địa bàn tỉnh có 1.895 tổ hợp tác với
40.627 thành viên (người), với tổng diện tích tham gia tổ hợp tác 36,237 ha, trong
đó có 1.359 tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp chuyên về cây trồng (nguồn: Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh). Tại huyện Trà Cú năm 2014 có 292
tổ hợp tác với 5.656 thành viên người) tham gia, với diện tích đất 5.049,06 ha; đến
năm 2016 có 366 tổ hợp tác, với 8.688 thành viên người) tham gia, với diện tích
đất 5.962,7 ha, chiếm 15,46% số lao động sản xuất nông nghiệp của huyện.


3
Bảng 1.1 Tình hình tham gia Tổ hợp tác tại huyện Trà Cú năm 2014
Tên xã, thị trấn
Số tổ hợp tác

Stt
(thuộc huyện Trà Cú)


Thành viên

Diện tích đất

(ngƣời)

đất (ha)

01

Xã Phước Hưng

68

2.061

1.948,64

02

Xã Tập Sơn

23

451

517,31

03


Xã Tân Sơn

16

433

552,12

04

Xã An Quảng Hữu

9

114

48,2

05

Xã Lưu Nghiệp Anh

19

234

146,48

06


Xã Ngãi Xuyên

12

85

43,1

07

Thị Trấn Trà Cú

5

77

51,86

08

Xã Thanh Sơn

7

189

196,3

09


Xã Kim Sơn

4

58

1,2

10

Xã Hàm Giang

5

126

11,2

11

Xã Hàm Tân

21

102

59,85

12


Xã Đại An

9

90

22,35

13

Xã Định An

6

69

1,5

14

Thị trấn Định An

-

-

-

15


Xã Đôn Xuân

7

66

65,6

16

Xã Đôn Châu

11

134

5,15

17

Xã Ngọc Biên

25

568

465,3

18


Xã Long Hiệp

34

703

630,64

19

Xã Tân Hiệp

11

96

300,46

292

5.656

5.049,06

Tổng cộng

(Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Trà Cú)


4

Bảng 1.2 Tình hình tham gia Tổ hợp tác tại huyện Trà Cú năm 2016
Tên xã, thị trấn
Stt

(thuộc huyện Trà Cú)

Số tổ hợp tác

Thành viên

Diện tích đất

(ngƣời)

đất (ha)

01

Xã Phước Hưng

79

2.512

2.041,55

02

Xã Tập Sơn


44

1.272

762,24

03

Xã Tân Sơn

22

689

662,16

04

Xã An Quảng Hữu

15

247

98,26

05

Xã Lưu Nghiệp Anh


20

316

176,65

06

Xã Ngãi Xuyên

21

296

99,13

07

Thị Trấn Trà Cú

5

77

51,86

08

Xã Thanh Sơn


8

357

201,43

09

Xã Kim Sơn

5

89

3,15

10

Xã Hàm Giang

15

378

35,79

11

Xã Hàm Tân


24

198

85,44

12

Xã Đại An

12

142

45,66

13

Xã Định An

8

95

24,57

14

Thị trấn Định An


1

35

2,24

15

Xã Ngọc Biên

31

874

511,26

16

Xã Long Hiệp

38

834

698,25

17

Xã Tân Hiệp


18

276

465,30

366

8.688

5.962,7

Tổng cộng

(Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Trà Cú. Năm 2015 xã
Đôn Châu và Đôn Xuân chuyển nhập về huyện Duyên Hải)


5
Tổ hợp tác tuy quy mô không lớn như hợp tác xã, nhưng đã góp phần tích
cực trong việc hình thành và phát triển hợp tác xã kiểu mới trong tương lai, từ đó đã
thúc đẩy nông hộ tự nguyện tham gia tổ hợp tác ngày càng đông bình quân
3%/năm), cơ bản đã giải quyết tốt trong mối liên kết sản xuất giữa nông hộ với
doanh nghiệp nhằm tiêu thụ hàng nông sản được thuận lợi hơn, rủi ro trong sản xuất
được kéo giảm; nhu cầu về vốn để sản xuất cũng được cải thiện đáng kể, những vật
tư đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc phục vụ nông nghiệp…
được mua với giá ưu đãi hơn; tiếp cận kiến thức khoa học kỹ thuật được thường
xuyên, thông tin thị trường, giá cả mặt hàng nông sản, chủng loại cây trồng cần tập
trung sản xuất, được thị trường yêu chuộng được tiếp cận liên tục và nhanh hơn so
với hộ không tham gia tổ hợp tác. Đây là những yếu tố quan trọng để khuyến khích

nông hộ quyết định tham gia tổ hợp tác.
Tuy nhiên, tại huyện Trà Cú tỷ lệ nông hộ tham gia tổ hợp tác sản xuất
không cao, mặc dù đã mang lại nhiều lợi ích cho nông dân. Vì vậy luận văn tập
trung phân tích “các yếu tố tác động đến quyết định tham gia tổ hợp tác của nông
hộ ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn này tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến quyết định tham
gia tổ hợp tác của các nông hộ trồng trọt, từ đó đề xuất các chính sách thúc đẩy
tham gia tổ hợp tác ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Những yếu tố nào ảnh hưởng đến quyết định tham gia tổ hợp tác của các hộ
nông dân trồng trọt trên địa bàn huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh?
Làm thế nào để nâng cao tỷ lệ tham gia tổ hợp tác của hộ trồng trọt trong
thời gian tới?
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu


6
Luận văn sử dụng mô hình logit để phân tích các yếu tố tác động đến quyết
định tham gia tổ hợp tác của nông hộ. Bên cạnh đó luận văn cũng sẽ hỏi trực tiếp
nông hộ về các yếu tố quyết định đến sự tham gia tổ hợp tác để tìm ta các biện pháp
khuyến khích nông hộ tham gia.
1.5 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn khảo sát 231 nông hộ trồng trọt tại huyện Trà
Cú, tỉnh Trà Vinh, bao gồm cả các hộ có và không có tham gia tổ hợp tác năm 2016.
Phạm vi thời gian: năm 2015.
Luận văn gồm 5 chương. Chương 2 trình bày các khái niệm về nông hộ, kinh
tế nông hộ, tổ hợp tác, vai trò của tổ hợp tác, lợi ích của việc tham gia tổ hợp tác
đồng thời lược khảo các nghiên cứu về quyết định tham gia hợp tác của nông hộ.
Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu. Chương 4 trình bày kết quả phân tích.

Kết luận và kiến nghị được trình bày ở Chương 5.


7
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Các khái niệm
2.1.1 Khái niệm về hộ nông dân và kinh tế hộ
2.1.1.1 Khái niệm hộ nông dân
Hộ nông dân là các hộ tham gia vào các hoạt động liên quan đến trồng trọt và
chăn nuôi nhằm mục đích mưu sinh Arayama và cộng sự, 2006). Là tập hợp những
người có chung huyết thống có quan hệ mật thiết với nhau, cùng đóng góp sức lao
động, tiền của, đất đai và các đầu vào khác vào việc trồng trọt hoặc chăn nuôi và từ
đó tiêu dùng một phần các sản phẩm mà họ làm ra Gandari và cộng sự, 2014).
2.1.1.2 Khái niệm kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của xã hội, trong đó các
nguồn lực của đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là của chung để
tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn chung, mọi quyết
định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ hộ, được Nhà nước
thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác lại cho
rằng, kinh tế nông hộ bao gồm toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất mở rộng: sản
xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Kinh tế hộ thể hiện được các loại hộ hoạt động
kinh tế trong nông thôn như hộ nông nghiệp, hộ nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp, ngư nghiệp. Như vậy, “Kinh tế nông hộ là kinh
tế của những hộ gia đình có quyền sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ yếu
sức lao động gia đình; sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn
và tham gia ở mức độ không hoàn hảo vào hoạt động của thị trường” Ellis, 1988).
2.1.2 Khái niệm về tổ hợp tác
Hợp tác và liên kết trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân nhằm nâng
cao năng lực sản xuất và mua bán hàng hóa nông sản, tăng khả năng tiếp cận thị



8
trường là xu thế tất yếu đã được khẳng định ở nhiều nước trên thế giới. Với điều
kiện hiện nay, hình thức hợp tác liên kết giữa một số hộ dân, hộ gia đình thành tổ
hợp tác để cùng thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh được đánh giá là thích
hợp để huy động nguồn lực, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đây là hình
thức hợp tác đơn giản và có khả năng áp dụng rộng rãi ở các vùng miền, phù hợp
với nông dân có hoạt động sản xuất nhỏ lẻ, vốn ít, dễ bị thiệt thòi khi tham gia thị
trường (Sổ tay xây dựng và phát triển Tổ hợp tác của Cục kinh tế hợp tác và phát
triển nông thôn - Jica, Hà Nội, 2012).
Trong chiến lược phát triển Nông thôn giai đoạn 2010 - 2020, tầm nhìn
2030, phát triển các hình thức kinh tế tập thể là một nội dung rất quan trọng nhằm
thực hiện giảm nghèo bền vững, thúc đẩy phát triển sản xuất nông sản hàng hóa
quy mô lớn. Tổ hợp tác được xem là bước khởi đầu, làm nền tảng thúc đẩy các
hình thức hợp tác có tổ chức chặt chẽ hơn như hợp tác xã, hiệp hội… (Sổ tay xây
dựng và phát triển Tổ hợp tác của Cục kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn Jica, Hà Nội, 2012). Trong những năm gần đây sự liên kết trong sản xuất nông
nghiệp ở nước ta đang được Đảng, Chính phủ quan tâm và ban hành nhiều chủ
trương, chích sách để khuyến khích các mô hình kinh tế tập thể và đã hình thành
số lượng tương đối nhiều, trong đó có tổ hợp tác . Điều này chứng tỏ rằng hiện tại
nhu cầu hợp tác, họp nhóm, liên kết, giúp đở, tương trợ nhau của nông hộ trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết.
Tổ hợp tác được pháp luật thừa nhận theo luật dân sự năm 2005 của Việt
Nam: Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ 03 cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài
sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu
trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự. Tổ hợp tác còn có các tên gọi
khác nhau là: „nhóm cùng sở thích‟, „tổ đổi công‟, „nhóm liên kết‟, „câu lạc bộ‟,
„chi hội‟, „nhóm hoạt động‟ hay đơn giản là mang tên dịch vụ mà tổ nhóm cung
cấp như „tổ đường nước‟, „tổ lúa giống‟… khác với hợp tác xã, tổ hợp tác là hình

thức hợp tác đơn giản, có quy mô thành viên, quy mô hoạt động, tài sản, vốn


9
thường nhỏ. Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân. (Sổ tay xây dựng và phát triển
Tổ hợp tác của Cục kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn - Jica, Hà Nội, 2012).
2.1.3 Vai trò của tổ hợp tác
Tổ hợp tác có vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển nông
nghiệp, đặc biệt là phù hợp với điều kiện sản xuất nhỏ lẻ ở nước ta như: làm đầu
mối tiêu thủ sản phẩm với giá bán hợp lý, tiếp cận thị trường nông sản do nông hộ
làm ra, tổ chức lại sản xuất, ký kết hợp đồng với doanh nghiệp theo yêu cầu và
đơn đặc hàng của nơi tiêu thụ; dựa vào kế hoạch sản xuất của thành viên, Tổ hợp
tác có trách nhiệm liên kết với doanh nghiệp để cung cấp đầu vào phục vụ sản
xuất, như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với giá cả hợp lý, chất lượng được đảm
bảo, giảm giá thành sản xuất; thông qua Tổ hợp tác, các thành viên được hỗ trở
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó làm thay đổi sản xuất theo
kiểu truyền thống sang hướng an toàn, hạn chế rủi ro, có chất lượng và nâng cao
thu nhập; khi thành viên có nhu cầu về vốn, tổ hợp tác có nhiệm vụ tạo điều kiện
để các thành viên có cơ hội tiếp cận nguồn vốn để phục vụ sản xuất được tốt hơn;
ngoài ra, tổ hợp tác đóng vai trò chủ lực trong việc giúp nông hộ chuyên môn hóa
được một số khâu trong sản xuất, như hình thành các đội chuyên làm đất, bón
phân, phun thuốc, thu hoạch, hỗ trợ kỹ thuật… để phục vụ cho thành viên tổ hợp
tác, từ đó giúp thành viên chủ động được các khâu làm đất, chăm sóc đến thu
hoạch với giá phù hợp với túi tiền người dân tại địa phương.
Việc thúc đẩy nông hộ tham gia tổ hợp tác đang được Chính phủ và chính
quyền địa phương quan tâm sâu sắc, một số nơi ban hành nhiều chủ trương, chính
sách hỗ trợ như hỗ trợ về kinh phí mua vật tư đầu vào, hệ thống tưới tiêu, công cụ
bảo quản thất thoát sau thu hoạch nhằm, đầu tư trang thiết bị, máy móc cho các tổ
hợp tác nhằm khuyến khích nông dân tham gia vào tổ hợp tác càng nhiều để hình
thành mối liên kết trong sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản, ổn định thị trường,

hướng tới một nông sản sạch, an toàn cho người tiêu dùng. Từ đó cho thấy vai trò


10
của tổ hợp tác rất quan trọng, tạo điều kiện, khuyến khích nông hộ tham gia tổ hợp
tác ngày càng nhiêu hơn.
2.1.4 Những lợi ích của tổ hợp tác
Theo sổ tay xây dựng và phát triển Tổ hợp tác của Cục kinh tế hợp tác và
phát triển nông thôn - Jica (Nhà xuất bản Hà Nội, 2012) thì tổ hợp tác có ba lợi ích
cơ bản như sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế: Thông qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tổ
hợp tác có khả năng giảm chi phí do cùng mua chung vật tư, tăng khả năng tiếp cận
và ứng dụng các khoa học kỹ thuật và tiếp cận thị trường. Tổ hợp tác còn làm các
việc mà từng thành viên riêng lẻ khó có thể thực hiện được như xây dựng và quản lý
hệ thống tưới, tiêu nước, xây dựng đê bao chống lũ.
Thứ hai, lợi ích xã hội: Thay vì hoạt động nhỏ lẻ dựa trên hộ gia đình,
các tổ hợp tác được hình thành từ nhóm thành viên thuộc các hộ khác nhau, dựa
trên sự tin tưởng và chia sẻ lợi ích trong công việc, tăng cường mối quan hệ
làng xóm, cộng đồng.
Thứ ba, phát triển cộng đồng: Ở nhiều vùng miền, các hàng hóa, dịch vụ ít
khi đáp ứng được nhu cầu đa dạng của cộng đồng, nhất là các loại hàng hóa dịch
vụ công cộng. Các tổ hợp tác thuộc lĩnh vực này cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu
cầu của bản thân cộng đồng địa phương, từ đó cải thiện điều kiện sống của cả
cộng đồng.
Đối với đất nước ta, thực tế sản xuất nông nghiệp tại một số địa phương cho
thấy mô hình tổ hợp tác trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp thực sự là điểm tựa
tin cậy cho các nông hộ. Nguyên nhân là do nó đã mang lại hiệu quả cả về mặt kinh
tế và xã hội.
Tổ hợp tác là cơ sở để hình thành hợp tác xã kiểu mới, liên hiệp hợp tác xã,
doanh nghiệp - hợp tác xã, các hiệp hội nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời tổ hợp

tác là vệ tinh quan trọng cho hợp tác xã kiểu mới.


11
Kinh tế hợp tác đã và đang từng bước được đầu tư, tích lũy, xây dựng, tiến
dần đến việc hình thành những vùng sản xuất quy mô lớn, giúp nông hộ tận dụng
lợi thế theo quy mô, góp phần tăng thu nhập cho nông dân. Lý do là mô hình kinh tế
hợp tác nổi bật ở khả năng hỗ trợ và đảm nhiệm những công việc chỉ thực hiện được
ở quy mô lớn mà người nông dân cá thể làm không hiệu quả hoặc không thể làm.
Ngoài ra, hợp tác còn là tổ chức có vai trò bảo vệ quyền lợi cho các tổ viên. Tổ hợp
tác còn là tiền đề hình thành sự kết nối giữa người nông dân - doanh nghiệp - thị
trường nhưng hiện nay.
Tổ hợp tác tạo điều kiện cho các tổ viên học hỏi trao đổi kinh nghiệm sản
xuất với nhau; củng cố tình đoàn kết và duy trì mối quan hệ xóm giềng; đồng thời
giúp các tổ viên nâng cao trình độ canh tác, cải thiện đời sống, và tăng thu nhập.
Mặt khác, tổ hợp tác có thể giúp đỡ, tương trợ nhau trong sản xuất và qua đó khắc
phục được nhiều mặt yếu kém của các hộ đơn lẻ như thiếu vốn, kỹ thuật, nhân lực
cũng như kinh nghiệm sản xuất. Tổ hợp tác còn giúp tổ viên sử dụng đất đai, lao
động, vật tư và tiền vốn hiệu quả hơn.
Do đó, việc thúc đẩy tổ hợp tác phát triển mạnh mẽ hơn là một vấn đề quan
trọng, tất yếu cần nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ. Để làm được điều này cần phải
phát huy vai trò của các đoàn thể, hiệp hội, và bộ máy nhà nước.
Để thúc đẩy sự hình thành tổ hợp tác, trước hết cần tiếp tục xây dựng thể chế
hỗ trợ, xây dựng các chính sách phù hợp để phát triển kinh tế hợp tác, đồng thời hỗ
trợ nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh cho các tổ hợp tác. Bên cạnh đó, cần
phải cho nông hộ thấy được lợi ích của việc tham gia tổ hợp tác.
Phần tiếp theo trình bày lược khảo các nghiên cứu về quyết định tham gia
hoạt động hợp tác của các nông hộ trên thế giới.
2.1.5 Sự giống nhau và khác nhau giữa Tổ Hợp tác và Hợp tác xã
Tổ hợp tác và hợp tác xã đều là những tổ chức họat động dưới hình thức hợp

tác dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa các thanh viên và được pháp luật công nhận
về quy định bộ máy tổ chức, cách thức quản lý và hình thức hoạt động. Khác với


12
Hợp tác xã, quy mô, hình thức của tổ hợp tác hoạt động dưới dạng hình thức giản
đơn, có quy mô thành viên tương đối ít; quy mô hoạt động, tài sản, vốn thường nhỏ
hơn hợp tác xã. Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân, Hợp tác xã có con dấu
riêng được cơ quan có thẩm quyền cấp phép sử dụng và có pháp nhân, có hạch toán,
kế toán rõ ràng; tổ hợp tác là bước đệm quan trọng để hình thành và tiến lên hợp tác
xã nhằm tạo mối liên kết vững chắc cho người nông dân. Tuy vậy, ở đây luận văn
chỉ tập trung đi sâu phân tích các yếu tố tác động đến quyết định tham gia tổ hợp tác
của nông hộ, vì vậy không tập trung nghiên cứu sâu về vai trò, quy mô, cách thức tổ
chức hoạt động của Hợp tác xã.
2.2 Lƣợc khảo các nghiên cứu về quyết định tham gia tổ hợp tác
Awotide và cộng sự (2015). Factors Influencing Smallholder Farmers
Participation
Theo định nghĩa của Liên minh Hợp tác xã Quốc tế (International Co
operative Alliance - ICA), hợp tác xã là tổ chức tự chủ của những người tự nguyện
liên kết với nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã
hội và văn hóa thông qua một tổ chức cùng nhau làm chủ chung và quyền quyết
định được thực thi một cách dân chủ. Các hợp tác xã đóng vai trò quan trọng trong
việc cải thiện điều kiện kinh tế - xã hội của các thành viên trong tổ chức và cộng
đồng đang sinh sống tại địa phương. Theo Awotide và cộng sự (2015), quyết định
tham gia vào một tổ chức hợp tác xã của người nông dân được dựa trên giả định, sự
tham gia đó phải tối đa hóa hữu dụng kỳ vọng của họ. Quyết định chịu sự ảnh
hưởng của một tập hợp các yếu tố có liên quan đến các biến nhân khẩu học và các
biến kinh tế - xã hội của hộ gia đình.
Awotide và cộng sự (2015) sử dụng mô hình probit để phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào các tổ chức nông dân của những hộ nông

dân có quy mô nhỏ ở khu vực nông thôn Nigeria. Hành vi tham gia vào một tổ chức
hợp tác xã là một biến nhị phân, nhận giá trị bằng 1 nếu người nông dân là thành
viên của tổ chức, và bằng 0 khi không tham gia. Các biến giải thích được tác giả sử


13
dụng bao gồm: (1) số năm đi học chính thức của chủ hộ (vốn con người), dựa trên
giả thuyết vốn con người làm tăng khả năng nhận thức, lý giải, và ứng phó với các
sự kiện mới của Schultz (1982); (2) tuổi và tuổi bình phương của chủ hộ, tuổi của
chủ hộ được kỳ vọng là có tác động âm đối với quyết định tham gia, điều này có
nghĩa là những người nông dân trẻ tuổi có xác suất tham gia vào các tổ chức hợp tác
xã cao hơn những người nông dân cao tuổi. Nguyên nhân là do sự e ngại rủi ro của
người nông dân có xu hướng gia tăng theo số tuổi Simtowe và cộng sự (2007); (3)
giới tính của chủ hộ được: những gia đình có chủ hộ là nam được kỳ vọng có xác
suất tham gia vào các tổ chức hợp tác xã cao hơn so với những gia đình có chủ hộ là
nữ vì nó có liên quan đến sự bất bình đẳng về giới và các mối quan hệ trong xã hội.
Theo Woldu, Tadesse và Waller (2013), phụ nữ có tình trạng kinh tế - xã hội thấp
hơn đáng kể so với nam giới, điều này làm giới hạn các cơ hội để họ tiếp cận và
tham gia vào các tổ chức chính thức tại địa phương. Khi so sánh với nam giới, phụ
nữ thường gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và sở hữu đất đai, tín dụng và
thông tin (FAO, 2011; World Bank, 2009). Bên cạnh đó, có nhiều quan điểm cho
rằng, ngoài việc làm nông, sinh sản và duy trì nòi giống mới là trách nhiệm chính
của phụ nữ trong một gia đình, vì vậy chi phí cơ hội đối với thời gian của phụ nữ sẽ
cao hơn nam giới, điều này làm giảm động cơ tham gia vào các tổ chức nông dân
của họ (Meinzen-Dick và Zwarteveen, 1998); (4) quy mô hộ gia đình dùng để đo
lường sự sẵn có của lao động trong một hộ; và (5) các biến giải thích khác được kỳ
vọng có tác động dương đến sự tham gia như: tổng diện tích đất sẵn có của nông
dân (ha); tổng thu nhập của nông trại; tổng sản lượng đầu ra của nông trại (kg);
khoảng cách đến thị trường sản phẩm gần nhất (km); khả năng tiếp cận tín dụng
(biến giả); tiết kiệm nông nghiệp; và chi tiêu nông nghiệp trên mỗi hecta đất.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tuổi của chủ hộ có tác động âm đến sự tham
gia vào các tổ chức hợp tác xã của người nông dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với
kết luận của Simtowe và cộng sự (2007), những trẻ tuổi có mức độ ưa thích rủi ro
và họ sẵn sàng đón nhận sự thay đổi hơn so với những người nông dân lớn tuổi. Về
mặt trung bình, tuổi của chủ hộ tăng lên 1 thì xác suất tham gia vào tổ chức hợp tác


14
xã sẽ giảm khoảng 2,8%. Nhưng kết quả hồi quy lại cho thấy, biến tuổi bình
phương có tác động dương đến sự tham gia. Kết quả này được giải thích theo giả
thuyết chu kỳ vòng đời của tuổi liên quan đến sự tham gia của người nông dân trong
các tổ chức hợp tác xã và nó phản ánh mối quan hệ phi tuyến tính giữa tuổi tác và
hành vi tham gia. Về cơ bản, có thể thấy rằng tuổi tác của người nông dân sẽ giảm
đến một mức độ nhất định và sau đó tham gia sẽ bắt đầu tăng trở lại. Nam giới có
xác suất tham gia vào các tổ chức hợp tác xã nhiều hơn nữ. Trong khi đó, số năm đi
học có tác động âm đến xác suất tham gia, nghĩa là số năm đi học càng tăng, xác
suất tham gia vào các tổ chức nông dân càng giảm. Điều này đi ngược lại với kỳ
vọng và giả định ban đầu. Tiết kiệm có tác động tiêu cực đến sự tham gia. Sản
lượng đầu ra và chi tiêu nông nghiệp trên mỗi hecta đất có tác động tích cực đến xác
suất tham gia. Các yếu tố còn lại bao gồm quy mô hộ gia đình, tổng diện tích đất
sẵn có của nông dân, khoảng cách đến thị trường sản phẩm gần nhất, và khả năng
tiếp cận tín dụng không có ý nghĩa thống kê trong mẫu phân tích.
Fischer & Qaim (2012). Linking smallholders to markets
Để phân tích hành vi tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp, Fischer và
Qaim (2012) sử dụng khung phân tích mô hình hữu dụng ngẫu nhiên (random
utility), với giả định tối đa hóa độ hữu dụng khi đối mặt với sự giới hạn nguồn lực
của hộ gia đình. Dữ liệu được thu thập từ 444 hộ trồng chuối thuộc các tỉnh
Muranga, Nyeri, Embu, and Meru ở cao nguyên Kenya, vào tháng 6 và tháng 7 năm
2009. Biến phụ thuộc được định nghĩa là sự tham gia vào một tổ chức hợp tác xã, là
một biến nhị phân, nhận giá trị bằng 1 nếu người nông dân là thành viên của tổ

chức, và bằng 0 khi không tham gia.
Fischer và Qaim (2012) dựa vào các lý thuyết trước đây để xác định các biến
giải thích để phân tích hành vi tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp của những
người nông dân ở Kenya. Dựa trên giả thuyết vốn con người làm tăng khả năng
nhận thức, lý giải, và ứng phó với các sự kiện mới của Schultz 1982), trình độ học
vấn và tuổi tác là các biến đo lường đại diện cho yếu tố vốn con người trong phân


15
tích. Tài sản vật chất bao gồm vốn tài chính, đất đai và lao động là các yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến sự đổi mới (trong phân tích này, tham gia vào tổ chức hợp tác
xã là một sự đổi mới trong hoạt động sản xuất của người nông dân) (Boahene,
Snijders, và Folmer, 1999). Các biến đại diện cho vốn vật chất và vốn tài chính bao
gồm diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp bình phương, tổng giá trị
của thiết bị nông nghiệp, số lượng gia súc nông dân sở hữu, khả năng tiếp cận tín
dụng, và việc làm phi nông nghiệp. Quy mô nông trại có thể cũng đóng một vai trò
trong các quyết định, vì diện tích đất càng lớn thì chi phí cố định bình quân trên mỗi
thành viên càng thấp, nó đại diện cho sự sẵn có của lao động trong một hộ.
Mặc dù việc buôn bán chuối không bắt buộc phải thành lập một tổ chức,
nhưng tổ chức này có thể mang đến những lợi ích lớn đối với sự tiếp cận thị trường.
Do đó, đối với những người nông dân trồng chuối, quyết định tham gia một nhóm
cũng đồng nghĩa với việc quyết định giữa bán ở cổng trang trại hay bán cho các đại
lý thu gom. Nếu bán cho các đại lý thu gom thì người nông dân có thể nhận được
mức giá bán cao hơn, nhưng phân phối hàng hóa đến các đại lý cũng mất một khoản
chi phí nhất định. Các trung tâm thu mua thường nằm gần những đoạn đường trải
nhựa, do đó khoảng cách đến đường trải nhựa gần nhất cũng là một biến giải thích.
Quyền sở hữu của chiếc xe tải nhỏ và xe cơ giới là các chỉ số đo lường chi phí vận
chuyển. Giới tính cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia. Hiệu
quả của các luồng thông tin có thể ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào một tổ
chức của nông dân. Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy mạng xã hội của các cá

nhân có liên quan đến các hoạt động đổi mới trong các hộ nông dân có quy mô nhỏ
(Boahene và cộng sự, 1999; Conley và Udry, 2010; Matuschke và Qaim, 2009).
Một số các biến số khác được sử dụng trong phân tích như tham gia vào các nhóm
cộng đồng khác (ví dụ: các nhà thờ, câu lạc bộ tiết kiệm,…) và việc sở hữu điện
thoại để giảm chi phí trao đổi thông tin (vì ở khu vực cao nguyên Kenya, các hộ gia
đình nằm rải rác, không tập trung theo cụm và cách xa trung tâm làng, xã, việc giao
tiếp giữa các hộ trong làng gặp nhiều khó khăn và hạn chế).


16
Kết quả ước lượng mô hình probit cho thấy diện tích đất nông nghiệp do
người nông dân sở hữu có tác động tích cực đến xác suất tham gia vào các tổ chức
hợp tác xã, mỗi 1 arce tăng thêm làm tăng 4,3 điểm phần trăm xác suất tham gia.
Tuy nhiên, xác suất này sẽ giảm xuống đối với các nông trai có diện tích lớn hơn 11
arce, được hàm ý thông qua tác động âm của biến diện tích đất nông nghiệp bình
phương. Tổng giá trị của thiết bị nông nghiệp càng cao thì xác suất tham gia càng
tăng. Tuổi của chủ hộ có tác động dương. Điều này có thể là do những người càng
lớn tuổi thì càng có nhiều kinh nghiệm làm nông. Hơn nữa, thông qua cuộc khảo
sát, Fischer và Qaim (2012) nhận thấy, thế hệ những người trẻ tuổi hơn không đặt
nhiều sự quan tâm đến nghề nông, họ có xu hướng tìm kiếm những việc làm phi
nông nghiệp khác tốt hơn ở các đô thị lớn. Trình độ học vấn và giới tính không có ý
nghĩa về mặt thống kê. Đối với các biến liên quan đến mạng lưới xã hội của người
nông dân thì biến sự tham gia vào các tổ chức cộng đồng khác không có ý nghĩa
thống kê, nhưng việc sở hữu điện thoại di động làm tăng xác suất tham gia của
người nông dân. Vì những người nông dân có điện thoại thì việc liên hệ, thông báo
hội họp và tham gia các hoạt động khác của nhóm sẽ dễ dàng hơn. Nó cho phép vấn
đề giao tiếp giữa người với người thuận lợi hơn, đặc biệt với những hộ nằm xa trung
tâm làng. Khả năng tiếp cận tín dụng và khoảng cách đến đường trải nhựa gần nhất
có tác động tích cực đến xác suất tham gia của người nông dân. Những hộ nông dân
sống càng gần những con đường trải nhựa thì khả năng tiếp cận thị trường của họ sẽ

dễ dàng hơn, họ sẽ ít chịu sự phụ thuộc vào các hoạt động tập thể, đặc biệt là hoạt
động tiếp thị. Ngược lại, đối với những hộ sống xa đường trải nhựa, họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong việc đưa sản phẩm ra thị trường, trong tình huống đó, các tổ
chức hợp tác xã là biện pháp tốt nhất giúp họ cải thiện khả năng tiếp thị hàng hóa.
Nhưng nếu khoảng cách này là từ 6 km trở lên thì xác suất tham gia của những hộ
này sẽ giảm xuống, biến khoảng cách bình phương có tác động âm đến xác suất
tham gia, vì khi đó chi phí vận chuyển đến các trung tâm thu gom và chi phí của
việc tham gia vào các cuộc họp nhóm tăng dần theo khoảng cách. Do đó, nông dân


17
ở các địa điểm quá xa so với đường trải nhựa có xu hướng bán cho thương lái với
giá tại trang trại.
Fischer & Qaim (2014). Smallholder Farmers and Collective Action
Hành động tập thể thông qua các nhóm nông dân có thể là một chiến lược
quan trọng cho những hộ nông dân có quy mô nhỏ tiếp tục tồn tại trong môi trường
cạnh tranh. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định tham gia các tổ chức nông dân. Tuy nhiên, trên thực tế mức
độ cam kết giữa các thành viên trong nhóm cũng là một trong những chủ đề nghiên
cứu cần được quan tâm, vì nó có liên quan đến sự khác biệt giữa chi phí và lợi ích
biên của mỗi thành viên trong nhóm. Những thành viên ít tham gia các hoạt động
của nhóm có thể sẽ bị hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ, cũng như lợi ích
do các hợp tác xã nông dân mang lại. Bên cạnh đó, các thành viên trong các nhóm
nông dân này không bị ràng buộc phải tham gia vào các nhóm tiếp thị của hợp tác
xã, các thành viên có thể tự bán sản phẩm do mình sản xuất. Tuy nhiên, khi tham
gia vào các nhóm tiếp thị, hàng hóa của các thành viên sẽ được các đại lý thu mua
với giá cao hơn khi bán độc lập, vì khi các nhóm tiếp thị bán số lượng lớn hàng hóa
cho các đại lý, các nhóm này sẽ có được một lợi thế mặc cả cao hơn so với các cá
nhân khác. Nghiên cứu của Fischer và Qaim (2014) tập trung phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động do tổ chức hợp tác xã

thực hiện của các thành viên và quyết định tham gia vào các nhóm tiếp thị của các
thành viên. Mẫu gồm 201 các hộ nông dân trồng chuối ở Kenya. Các chỉ số đo
lường mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động do tổ chức hợp tác xã thực hiện
là biến tham gia các cuộc họp của hợp tác xã (biến nhị phân) và biến số lần tham gia
các cuộc họp trong vòng 12 tháng qua, mô hình áp dụng là mô hình probit. Các chỉ
số đo lường quyết định tham gia vào các nhóm tiếp thị của các thành viên là hành vi
tham gia (biến nhị phân); tỷ lệ hàng hóa bán chung thông qua các nhóm tiếp thị; và
sản lượng hàng hóa bán được thông qua các nhóm tiếp thị, mô hình phân tích là mô
hình hai rào cản (double-hurdle model). Các biến giải thích trong mô hình bao gồm


18
tổng diện tích đất thuộc sở hữu của hộ gia đình; hộ có sở hữu xe cơ giới (biến giả);
hộ có sử dụng biện pháp thủy lợi (biến giả); quy mô mảnh vườn trồng chuối; năng
suất trồng chuối, hộ gia đình có trồng các cây trồng khác (cà phê, chè, bông); giới
tính của thành viên (nữ = 1); trình độ học vấn; tuổi tác; tham gia các hoạt động sản
xuất phi nông nghiệp (biến giả); tham gia các nhóm xã hội (biến giả); khoảng cách
đến nơi hội họp hoặc đến các đại lý thu mua; số thành viên trong tổ chức; việc thanh
toán của nhóm bị trì hoãn (biến giả).
Kết quả phân tích cho thấy, đối với các đặc tính cá nhân, những người có quy
mô trồng chuối rất nhỏ hoặc rất lớn có xu hướng ít tham gia vào các hoạt động của
tổ chức. Trong cả hai mô hình họp nhóm và tham gia các nhóm tiếp thị, tỷ lệ kỳ
vọng giữa lợi ích cận biên và chi phí cận biên của việc tham gia nhiều hơn là rất
nhỏ. Điều này hàm ý rằng, những hộ có quy mô canh tác trung bình sẽ thu được lợi
ích nhiều hơn khi tham gia. Số lượng thành viên của hộ gia đình có ảnh hưởng tích
cực đối với mức độ tham gia thường xuyên, vì việc tham gia vào các cuộc họp của
tổ chức là tốn khá nhiều thời gian, các hộ gia đình có đông thành viên thì sự sẵn có
của nguồn lực lao động sẽ cao hơn. Đồng thời, những người nông dân có nhiều kiến
thức chuyên sâu trong hoạt động sản xuất chuối thì xác suất tham gia trong các
nhóm tiếp thị sẽ cao hơn đáng kể.

Đối với các đặc điểm của nhóm, xác suất tham gia các cuộc họp nhóm và tham
gia vào các nhóm tiếp thị là cao hơn đối với những nhóm có đông thành viên hơn, vì
những nhóm có đông thành viên hơn có thể giảm được chi phí giao dịch trên mỗi đơn
vị, kết quả là bán được hàng hóa với giá cao hơn. Ngược lại, việc trì hoãn các khoản
thanh toán trong nhóm làm giảm xác suất và cường độ tham gia vào các nhóm tiếp thị.
Gerichhausen và cộng sự (2009). Cooperation between rural households
Hàm chi phí giao dịch dùng để đo lường chi phí của các hợp tác xã, ví dụ
như chi phí cho các cuộc hội họp, rủi ro đạo đức, những kẻ thụ hưởng miễn phí của
việc sử dụng lao động và rủi ro của người nông dân đối với sự hợp tác. Chi phí giao


×