Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Ảnh hưởng của năng suất nhân tố tổng hợp đến xuất khẩu: Trương hợp ngành dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.24 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------

TRẦN LÊ DIỆU LINH

ẢNH HƢỞNG CỦA NĂNG SUẤT NHÂN TỐ TỔNG
HỢP ĐẾN XUẤT KHẨU: TRƢỜNG HỢP NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------

TRẦN LÊ DIỆU LINH

ẢNH HƢỞNG CỦA NĂNG SUẤT NHÂN TỐ TỔNG
HỢP ĐẾN XUẤT KHẨU: TRƢỜNG HỢP NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN TRỌNG HOÀI



Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi thực hiện.
Các trích dẫn và số liệu đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất
trong phạm vi hiểu biết của tôi. Kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực.

Trần Lê Diệu Linh
TP.Hồ Chí Minh,ngày 31 tháng 10 năm 2014


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục hình
Danh mục bảng
Các từ viết tắt
Tóm tắt

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1
1.1 Đặt vấn đề .......................................................................................................1
1.2 Bối cảnh ngành Dệt may Việt Nam.................................................................2
1.3 Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................3
1.4 Câu hỏi nghiên cứu .........................................................................................3
1.5 Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
1.6 Cấu trúc luận văn ............................................................................................4
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NĂNG SUẤT

VÀ KHẢ NĂNG THAM GIA XUẤT KHẨU .........................................................5
2.1 Khái niệm và nhân tố tác động đến năng suất.................................................5
2.1.1 Khái niệm .................................................................................................5
2.1.2 Những nhân tố tác động đến TFP ............................................................6
2.2 Mối quan hệ giữa năng suất và xuất khẩu .......................................................8
2.3 Mô hình tổng quát .........................................................................................14
2.3.1 Mô hình tính toán TFP ...........................................................................14
2.3.2 Đặc trưng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu: ...........................15


2.4 Tổng hợp các nghiên cứu liên quan: .............................................................20
2.5 Khung phân tích đề nghị cho nghiên cứu: ....................................................22
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................23
3.1 Nguồn dữ liệu ................................................................................................23
3.2 Mô hình tính toán tăng trưởng TFP ..............................................................23
3.3 Mô hình phân tích hồi quy ............................................................................24
3.4 Giải thích mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến xuất khẩu trong mô
hình hồi quy...........................................................................................................26
3.4.1 Biến phụ thuộc ........................................................................................26
3.4.2 Biến độc lập.............................................................................................26
CHƢƠNG 4: HIỆN TRẠNG XUẤT KHẨU NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM................................................32
4.1 Đánh giá hiện trạng xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam .............................32
4.2 Kết quả tính toán TFP ...................................................................................37
4.3 Kết quả hồi quy tác động của TFP đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp
...............................................................................................................................43
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ........................................50
5.1 Kết luận .........................................................................................................50
5.2 Hàm ý chính sách ..........................................................................................51
5.3 Giới hạn nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ....................................54

5.3.1 Giới hạn nghiên cứu ...............................................................................54
5.3.1 Hướng nghiên cứu tiếp theo ...................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................56
PHỤ LỤC .................................................................................................................60


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Hành vi xuất khẩu xác định sự thay đổi trong năng suất ..........................12
Hình 2.2: Hành vi xuất khẩu không xác định sự thay đổi trong năng suất ...............13
Hình 2.3 Khung phân tích của nghiên cứu ................................................................22
Hình 4.1: Nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu dệt may ..........................................36

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Cấu trúc ngành .............................................................................................3
Bảng 2.1 Tóm tắt những nghiên cứu liên quan .........................................................20
Bảng 3.1 Tóm tắt và định nghĩa các biến ..................................................................31
Bảng 4.1 Tỷ trọng các nhóm ngành trong ngành dệt may ........................................37
Bảng 4.2 Thống kê mô tả giữa doanh nghiệp xuất khẩu và không xuất khẩu ..........39
Bảng 4.3 Thống kê mô tả các DN theo ngành năm 2009 .........................................40
Bảng 4.4 Thống kê mô tả các DN theo ngành năm 2010 .........................................42
Bảng 4.5 Kết quả hồi quy mô hình probit .................................................................44
Bảng 4.6 Ước tính xác suất tham gia thị trường xuất khẩu cho biết xác suất ban đầu
...................................................................................................................................44


CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tiếng Anh


:Doanh nghiệp

DN
FDI

Tiếng Việt

Foreign Direct Investment

:Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài

GSO

General Statistics Office

:Tổng cục thống kê

TFP

Total factor productivity

:Năng suất các nhân tố tổng hợp

TPP

Trans-Pacific Strategic

:Hiệp định đối tác Kinh tế chiến


Economic Partnership

lược xuyên Thái Bình Dương

Agreement
R&D

Research & Development

:Nghiên cứu và phát triển

VITAS

Vietnam Textile and Apparel

:Hiệp hội dệt may Việt Nam

Society
VES

Viet Nam Enterprise survey

:Khảo sát doanh nghiệp Việt Nam


TÓM TẮT
Là quốc gia đang phát triển với ngành dệt may có bề dày lịch sử, những năm
gần đây Việt Nam trở thành một nước xuất siêu trong lĩnh vực ngành dệt may. Điều
này có lẽ là một tin mừng cho ngành công nghiệp vốn thâm dụng nhiều lao động ở

nước nhà. Tuy nhiên, việc xuất khẩu vẫn còn hạn chế trong một số nhóm ngành có
ưu thế về vốn, lao động cũng như vị trí thuận lợi tạo cho họ một năng suất cao hơn
các doanh nghiệp khác. Từ thực trạng này, nghiên cứu dùng phương pháp hạch toán
tăng trưởng để ước tính năng suất các nhân tố tổng hợp TFP và sử dụng mô hình hồi
quy probit để đo lường tác động của nhân tố năng suất các nhân tố tổng hợp và một
số biến liên quan đến đặc tính của doanh nghiệp đến khả năng tham gia thị trường
xuất khẩu của các doanh nghiệp. Kết quả hồi quy cho thấy, năng suất các nhân tố
tổng hợp TFP thường cao hơn ở các doanh nghiệp xuất khẩu và có tác động mạnh
mẽ đến việc tham gia thị trường xuất khẩu. Qua đó tác giả đưa ra một số gợi ý về
mặt chính sách để góp phần thúc đẩy tăng trưởng TFP và tạo điều kiện cho nhiều
doanh nghiệp tham vào thị trường xuất khẩu hơn nữa.


1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển, bức tranh chung về
thương mại hàng hóa Việt Nam với thế giới từ năm 2003 đến nay là giá trị nhập
khẩu lớn hơn so với giá trị xuất khẩu, thâm hụt tăng dần theo thời gian. Tuy nhiên,
xuất khẩu của Việt Nam nói chung xác lập vị thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu
ở nhóm hàng hóa cơ bản như dầu mỏ và khoáng sản, nông sản, hàng dệt may, da
giày, thủy sản, đồ gỗ và điện tử. Đây là những ngành thâm dụng lao động lớn nhưng
về xu thế không còn tăng trưởng nhanh trên thế giới, đồng thời rất dễ bị ảnh hưởng
bởi việc hạ thấp chi phí từ các đối thủ mới có chi phí lao động thấp.
Sau các bài báo tiên phong của Melitz (2004), Melitz & Ottaviano (2003) và
Bernard & cộng sự (2003) đã đưa ra các giả định về doanh nghiệp đại diện cho các
ngành và lý thuyết nền về mối quan hệ giữa các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
không đồng nhất và sự cân bằng trong thương mại quốc tế. Giả định quan trọng
trong lý thuyết này đó chính là những doanh nghiệp có năng suất các nhân tố tổng

hợp cao sẽ tự đưa ra quyết định của họ về việc có tham gia vào thị trường xuất khẩu
hay không. Giả định này cung cấp cho chúng ta kết quả đó là tồn tại một mối quan
hệ nhân quả từ năng suất doanh nghiệp và khả năng tham gia xuất khẩu.
Theo kết quả trong báo cáo điều tra về năng lực cạnh tranh công nghệ ở Việt
Nam (2011) thì 28% doanh nghiệp được hỏi cho biết lãi suất cao là khó khăn chính
của họ, 19% nói rằng lạm phát cao và biến động ảnh hưởng tiêu cực đến việc kinh
doanh của họ, 17,5% trong số trên 10 nghìn doanh nghiệp cho biết họ khó tiếp cận
vốn vay và 7% nói rằng doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi nguồn điện cung cấp không
ổn định và chính sách kinh tế vĩ mô không thể dự đoán được. Có thể vì lý do này
mà doanh nghiệp Việt Nam khó lòng đầu tư nâng cao năng suất sản xuất của họ để
hướng ra thị trường xuất khẩu nếu không có sự trợ giúp từ phía chính phủ. Ở bài
luận văn này, tác giả sẽ tập trung ở một cấp độ vi mô hơn và chọn ngành dệt may
làm đối tượng để nghiên cứu. Nghiên cứu này sẽ cung cấp một kiểm tra thực
nghiệm về mối quan hệ giữa năng suất doanh nghiệp và việc quyết định tham gia


2

vào thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc 3 lĩnh vực trong ngành dệt
may đó là: sản xuất sợi, ngành dệt và sản xuất trang phục.
1.2 Bối cảnh ngành Dệt may Việt Nam:
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng, liên quan đến việc sản xuất sợi, dệt nhuộm, vải, thiết kế
sản phẩm, hoàn tất hàng may mặc và cuối cùng là phân phối hàng may mặc đến tay
người tiêu dùng. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã đem lại cho ngành Dệt may Việt
Nam những cơ hội rất lớn về thị trường, về đầu tư, và trên khía cạnh hội nhập quốc
tế về chính sách, pháp luật và đàm phán. Nhìn chung nhà nước ta cũng có sự quan
tâm các vấn đề về chính sách cũng như về toàn cầu hóa, định hướng ngành dệt may
theo hướng xuất khẩu, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập về nguồn
nguyên vật liệu, ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may, các chính sách vi

mô để có thể thúc đẩy ngành phát triển hơn. Ngoài ra, ngành Dệt may nước ta vẫn
còn nhiều hạn chế về công nghệ, trình độ người lao động chưa cao, nguồn vốn chưa
dồi dào, nên năng suất các yếu tố tổng hợp vẫn còn nhiều hạn chế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, qua bảng 1.1 về cấu trúc của ngành cho chúng ta thấy, ngành
dệt may có chu kỳ ngành tương đối phát triển, có những biến động về doanh thu
thấp nên cũng có một sự hấp dẫn tương đối đối với các doanh nghiệp ngoài ngành.
Tuy vậy, đối với ngành dệt may ở nước ta thì mức độ hỗ trợ, mức độ tập trung và
mức độ toàn cầu hóa tương đối thấp. Đặc biệt, khả năng gia nhập vào thị trường
xuất khẩu tỏ ra rất khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Từ các yếu tố trên đã đặt ra câu hỏi liệu việc khó khăn trong gia nhập vào thị
trường xuất khẩu có liên quan tới năng suất các nhân tố tổng hợp của các doanh
nghiệp thuộc ngành dệt may hay không?


3

Bảng 1.1 Cấu trúc ngành
Chu kỳ ngành

Phát triển

Rào cản gia nhập ngành

Thấp/Cao*

Biến động doanh thu

Thấp


Mức độ toàn cầu hóa

Thấp

Hỗ trợ ngành

Thấp

Mức độ cạnh tranh

Cao

Mức độ tập trung

Thấp

Mức độ quy định

Trung bình

* Rào cản gia nhập ngành Thấp đối với kinh doanh nội địa, Cao đối với kinh doanh xuất khẩu

Nguồn: VITAS 2014
1.3 Mục tiêu nghiên cứu:
 Đánh giá hiện trạng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.
 Xác định tác động của năng suất các yếu tố tổng hợp đến khả năng tham gia
xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may.
 Kiến nghị một số gợi ý về chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động tham gia thị
trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu

Bài viết nỗ lực trả lời câu hỏi trọng tâm: “ Phải chăng các doanh nghiệp có
năng suất nhân tố tổng hợp cao sẽ có xu hướng tham gia vào thị trường xuất khẩu ?”
thông qua việc lần lượt trả lời các câu hỏi cụ thể:
 Năng suất các nhân tố tổng hợp tác động như thế nào đến hành vi tham
gia vào thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may
Việt Nam?
 Chính sách nhằm cải thiện và thúc đẩy năng suất nhân tố tổng hợp cho
ngành dệt may ở nước ta như thế nào để khẳng định vị thế trên thị trường
xuất khẩu ?
1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chéo ở cấp độ ngành với ngành được chọn là
ngành dệt may Việt Nam, trong giai đoạn 2008 - 2010. Dữ liệu tính toán chủ yếu lấy
từ Niên giám thống kê hàng năm và trên trang web của Tổng cục thống kê. Nghiên


4

cứu sử dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng của Solow (1956) để tính toán tăng
trưởng TFP và sử dụng phương pháp ước lượng hàm phân phối tích lũy CDF hồi
quy phương trình probit để đánh giá tác động năng suất nhân tố tổng hợp TFP lên
khả năng tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu nhằm kiểm định lại các kết quả của các
nghiên cứu trước về mối liên hệ giữa TFP và khả năng tham gia thị trường xuất
khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành Dệt may Việt Nam. Sau đó, tác giả sẽ đưa
ra một số gợi ý về mặc chính sách để nâng cao năng suất, thúc đẩy các doanh
nghiệp Việt Nam nhanh chóng tham gia vào thị trường xuất khẩu.
1.6 Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có 5 chương, tiếp sau chương giới thiệu là chương 2, chương
này trình bày cơ sở lý thuyết sử dụng để đánh giá tác động của TFP đến tỷ lệ tham
gia xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua các mô hình. Trong chương này cũng sẽ

nêu ra một số nghiên cứu liên quan đến nghiên cứu này. Chương 3 sẽ trình bày
phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, bao gồm mô tả số liệu và mô hình phân tích.
Phần kết quả và thảo luận về chỉ số TFP và tác động của nó đến khả năng tham gia
xuất khẩu của các doanh nghiệp sẽ được trình bày ở chương 4. Chương 5 sẽ là phần
kết luận, kiến nghị và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.


5

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
NĂNG SUẤT VÀ KHẢ NĂNG THAM GIA XUẤT KHẨU
Trong phần này, đầu tiên tác giả sẽ khái quát về TFP và những nhân tố tác
động đến TFP sau đó sẽ tìm mối quan hệ giữa khả năng tham gia thị trường xuất
khẩu và năng suất nhân tố tổng hợp và cuối cùng là tóm tắt một số nghiên cứu liên
quan. Đối với nghiên cứu này, năng suất nhân tố tổng hợp TFP sẽ được tác giả sử
dụng như là năng suất của doanh nghiệp và xuất khẩu của doanh nghiệp ở đây chính
là hành vi tham gia vào thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp đó.
2.1 Khái niệm và nhân tố tác động đến năng suất
2.1.1 Khái niệm
Năng suất nhân tố tổng hợp TFP hay còn được gọi là phần dư Solow được
đưa ra lần đầu tiên bởi Robert Solow trong nghiên cứu về lý thuyết tăng trưởng kinh
tế của mình năm 1956. Khái niệm TFP ban đầu được dùng trong phân tích vĩ mô,
nhưng sau đó nó cũng được sử dụng rộng rãi trong các phân tích vi mô ở cấp độ
ngành hay doanh nghiệp. Theo Solow (1956) hàm sản xuất được viết dưới dạng:
Y = A(t)F(K,L) , A(t) chính là TFP. (2.1)
Nhiều nghiên cứu cho rằng TFP thể hiện một phần của đầu ra còn lại không
giải thích được sự đóng góp trong các yếu tố đầu vào. Cụ thể, TFP đo lường đóng
góp cho đầu ra của nền kinh tế vượt ra ngoài đóng góp bởi số lượng lao động, máy
móc và vốn sử dụng. Như vậy, TFP phản ảnh tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, của giáo dục và đào tạo, qua đó gia tăng đầu ra không chỉ phụ thuộc vào tăng

thêm về số lượng của đầu vào mà còn vào cả chất lượng của các yếu tố đầu vào là
vốn và lao động. Tăng TFP gắn liền với áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công
nghệ, cải tiến phương thức quản lý và nâng cao kỹ năng, trình độ tay nghề của
người lao động. Cùng với lượng đầu vào như nhau, lượng đầu ra có thể lớn hơn nhờ
vào việc cải tiến chất lượng của lao động, của vốn và sử dụng có hiệu quả hơn các
nguồn lực này.
Do đó, việc tăng TFP ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế khi mà nền kinh tế hiện nay đang chuyển sang hướng phát triển mới. Nâng cao


6

TFP tức là nâng cao hơn kết quả sản xuất cùng với đầu vào. Điều này là rất quan
trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao
động, nâng cao TFP sẽ góp phần nâng mức lương thuởng, điều kiện lao động được
cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái
sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế,
nâng cao phúc lợi xã hội.
TFP có thể tăng vì nhiều lý do: chất lượng của lao động tăng lên, giúp nâng
cao kiến thức và kỹ năng giúp họ làm việc có năng suất hơn; thay đổi về thành phần
hay chất lượng của vốn khiến cho vốn sử dụng có hiệu quả cao hơn như là đầu tư
vào các dây chuyền thiết bị hiện đại, sử dụng nhân công tay nghề cao, tập trung
nghiên cứu và phát triển sản phẩm…; áp dụng tiến bộ, kỹ thuật quản lý thông qua
các quá trình học tập, sáng tạo, vay mượn từ tri thức toàn cầu, hay chỉ đơn giản là
rút kinh nghiệm từ thực tế làm việc,.. ; tái cơ cấu lại nền kinh tế hay còn gọi là tái
phân bổ nguồn lực; phát triển thị trường để tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn và lao
động; ngoài ra những thay đổi ngắn hạn về cầu cũng có thể làm thay đổi TFP.
2.1.2 Những nhân tố tác động đến TFP:
Chất lượng nguồn lao động: Đầu tư vào nguồn nhân lực làm tăng năng lực
cho lực lượng lao động, nâng cao trình độ học vấn làm tăng khả năng tiếp thu, ứng

dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ; nâng cao kỹ năng, tay nghề của người
lao động. Đầu vào có chất lượng của nguồn lao động làm tăng năng lực sản xuất ra
các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao- yếu tố rất quan trọng làm tăng TFP. Ở các
quốc gia đang phát triển, vai trò của vốn nhân lực là để hấp thu các công nghệ hiện
đại từ các quốc gia phát triển. Ở quốc gia phát triển, vai trò nguồn vốn nhân lực là
để thực hiện các đổi mới công nghệ. Yếu tố tác động tới chất lượng lao động là đầu
tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), chất lượng nền giáo dục đào tạo,
tác động FDI (Haacker, 1999) và học tập bằng cách thực hành -learning by doing
(Arrow, 1962).
Thay đổi nhu cầu hàng hoá, dịch vụ: Khi có thay đổi về nhu cầu hàng hóa,
dịch vụ sẽ có tác động tới TFP thông qua việc tăng nhu cầu trong nước và xuất khẩu


7

về sản phẩm, hàng hóa, đây chính là cơ sở và điều kiện quan trọng để sử dụng tối
ưu và phát huy tối đa các nguồn lực. Melitz (2003) cho rằng nhu cầu xuất khẩu tăng
doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư vào công nghệ, thực hiện chuyên môn hóa, mở
rộng sản xuất nhằm tăng năng suất, giảm chi phí lao động (Hiệu quả kinh tế theo
quy mô).
Thay đổi cơ cấu vốn đầu tư: tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực có tỷ lệ
tăng trưởng cao, có lợi thế so sánh, có công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin
và truyền thông, công nghệ hiện đại, tự động hóa. Yếu tố này thể hiện việc đầu tư
vốn vào những lĩnh vực có năng suất cao, từ đó sẽ nâng cao hiệu quả của cả nền
kinh tế. Đầu tư vào công nghệ mới sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm chi phí
sản xuất. Thông qua cơ cấu lại vốn, các ngành sẽ hoạch định tốt hơn nhằm tăng hiệu
quả sản xuất, kinh doanh.
Thay đổi cơ cấu kinh tế: Thay đổi cơ cấu kinh tế các ngành và thành phần
kinh tế, phân bổ nhiều hơn các nguồn lực phát triển cho các ngành hoặc thành phần
kinh tế có năng suất cao hơn, tận dụng tốt lợi thế so sánh từ đó đóng góp vào việc

tăng TFP.
Áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ: Trong các yếu tố kể trên, yếu tố tiến bộ
khoa học kỹ thuật - công nghệ đóng góp vào tăng TFP được được cho là quan trọng
hơn cả (Hall và Jones, 1999). Thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, đổi mới; nghiên cứu
và phát triển sản phẩm; cải tiến quy trình sản xuất; ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật;
áp dụng công nghệ quản lý tiên tiến (hệ thống, công cụ quản lý tiên tiến…) để tác
động nâng cao năng suất.
Theo lý thuyết tân cổ điển của Solow (1956) đã chỉ ra rằng tiến bộ công nghệ
là nguồn gốc của tăng trưởng trong dài hạn và nó là nhân tố quyết định đến tăng
trưởng TFP. Như vậy, trong các yếu tố cần tác động để có thể gia tăng TFP, những
nội dung về KH&CN cần phải tập trung là nâng cao kỹ năng, trình độ tay nghề của
người lao động; tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cải
tiến phương thức quản lý, phát triển tài sản trí tuệ….


8

2.2 Mối quan hệ giữa năng suất và xuất khẩu
Ý tưởng cho rằng hoạt động tham gia xuất khẩu có liên quan đến tăng trưởng
kinh tế đã được công nhận trong các tài liệu trong nhiều năm (Beckerman 1962;
Kaldor 1970; Caves 1971; Balassa 1988), nhưng mối quan hệ nhân quả về hai khái
niệm này vẫn còn chưa rõ ràng. Một mặt, các tài liệu tăng trưởng xuất khẩu dự đoán
rằng tham gia xuất khẩu tạo ra một sự gia tăng sản lượng và năng suất của đất nước.
Mặt khác, các học giả cho rằng có sự tác động trực tiếp từ tăng trưởng năng suất
đến việc tham gia xuất khẩu. Nhiều lập luận ủng hộ giả thuyết tăng trưởng dựa vào
xuất khẩu đưa ra trong những năm qua. Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu là một thành
phần quan trọng của nhu cầu tự định và xác định một hiệu ứng số nhân trên đầu tư
và hiệu quả (Beckerm 1962; Kaldor 1970; Thirlwall 1980) cả trong xuất khẩu (tác
động trực tiếp) và trong ngành liên quan trong nền kinh tế nội địa (hiệu ứng liên
kết) (Khan và Khanum 1997). Thứ hai, tăng trưởng của lĩnh vực xuất khẩu thúc đẩy

việc phân bổ lại nguồn lực từ các ngành phi thương mại và cho ngành xuất khẩu của
chính nó, làm gia tăng tương đối năng suất tổng thể của đất nước (Bernard and
Jensen 1999b; Giles and Williams 2000). Thứ ba, xuất khẩu là một phương tiện
để tạo ra dòng vốn ngoại tệ, cần thiết để tài trợ cho hoạt động nhập khẩu (Thirlwall
1980). Cuối cùng, định hướng ra bên ngoài có thể dẫn đến hiệu quả đạt được cho
các doanh nghiệp do phát triển kinh tế theo quy mô và sự học hỏi kết hợp với phổ
biến kiến thức từ các quan hệ quốc tế (Ngân hàng Thế giới 1993).
Theo quan điểm của Caves (1971) và một số nghiên cứu khác ủng hộ quan
điểm cho rằng có mối quan hệ nhân quả từ tăng trưởng năng suất để tham gia xuất
khẩu. Đặc biệt, họ cho rằng tăng trưởng kinh tế giúp nâng cao kĩ năng sản xuất và
công nghệ tạo ra cơ sở cho việc có lợi thế trong cạnh tranh quốc tế và lần lượt xác
định kim ngạch xuất khẩu (Krugman 1984). Hơn nữa, người ta lập luận rằng các
doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu phải chịu chi phí chìm do việc phải thành lập
một kênh phân phối quốc tế hoặc các thích ứng của sản phẩm với các tiêu chuẩn
nước ngoài trong đó xác định rằng chỉ có các doanh nghiệp lớn hơn và hiệu quả hơn
sẽ bắt đầu tham gia xuất khẩu ( Roberts và Tybout 1997; Bernard và cộng sự 2000).


9

Bên cạnh đó, những nghiên cứu này còn tập trung vào các dữ liệu kinh tế vĩ mô,
một số các công trình gần đây đã cố gắng đi đến cấp độ vi mô, nhìn vào hướng quan
hệ nhân quả giữa hoạt động tham gia xuất khẩu và tăng trưởng năng suất tại mức độ
cấp doanh nghiệp. Đây là một bộ phận mới của lý thuyết khai thác ngày càng tăng
tính sẵn có của các bộ dữ liệu cấp doanh nghiệp, cho phép tìm hiểu sự ảnh hưởng
của hiệu quả đạt được từ hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp đó là một trong những
kênh mà qua đó hoạt động xuất khẩu xác định tăng trưởng kinh tế.
Có hai câu hỏi quan trọng của lý thuyết này là: “Các doanh nghiệp hiệu quả
hơn do tham gia xuất khẩu?” và “Có phải những doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
thì hiệu quả hơn ?”. Thực tế, sự tương quan giữa năng suất và xuất khẩu có thể là

kết quả của hai yếu tố khác nhau, nhưng không loại trừ lẫn nhau. Một mặt, các
doanh nghiệp kinh doanh tốt trở thành nhà xuất khẩu bởi vì xuất khẩu đòi hỏi một
số chi phí bổ sung chẳng hạn như chi phí vận chuyển, chi phí liên quan đến việc
thiết lập một kênh phân phối hoặc chi phí sản xuất để thay đổi sản phẩm cho thị
trường quốc tế. Sự thay đổi này ngụ ý rằng chỉ có các doanh nghiệp hoạt động tốt
hơn mong đợi mới có thể trang trải các chi phí bổ sung hợp lý và sẽ thâm nhập vào
thị trường xuất khẩu. Do đó, mối tương quan giữa năng suất và xuất khẩu có thể
phát sinh như là sự tự lựa chọn tốt hơn của các doanh nghiệp để đi vào thị trường
xuất khẩu. Mặt khác, các nhà xuất khẩu có thể học hỏi từ sự hiện diện của họ trong
thị trường quốc tế vì hai lý do chính. Đầu tiên, quan hệ quốc tế với người mua và
khách hàng có khả năng bồi dưỡng kiến thức và lan tỏa công nghệ chẳng hạn như
tiếp cận được chuyên môn kỹ thuật bao gồm sản phẩm mới thiết kế và phương pháp
sản xuất mới. Thứ hai nhu cầu quốc tế, xác định một năng suất sử dụng cao hơn và
cho phép khai thác kinh tế theo quy mô.
Đầu tiên ở câu hỏi thứ nhất, đối với Đài Loan, Aw và cộng sự (2000) tìm
thấy các doanh nghiệp mới được xuất khẩu tốt hơn các công ty khác trước khi gia
nhập thị trường xuất khẩu, và trong một số ngành công nghiệp mà họ học được cách
cải thiện năng suất sau nhập cảnh. Theo nghiên cứu của Kraay (1999), ông ước tính
một phương trình bảng năng động duy nhất của ba chỉ số về năng suất và hiệu quả


10

(TFP, năng suất lao động, chi phí đơn vị) vào độ trễ của kết quả và cường độ xuất
khẩu, đo bằng tỷ lệ doanh thu xuất khẩu và trong một mẫu của các doanh nghiệp
Trung Quốc, ông tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ giả thuyết học hỏi thông
qua xuất khẩu.
Bleaney và cộng sự (2000) ước tính một hiệu ứng ngẫu nhiên bằng phương
trình bảng động để làm việc trong một mẫu của các doanh nghiệp đến từ Belarus,
Nga và Ukraine và thấy rằng việc làm hiện nay là tích cực liên quan đến các thị

phần xuất khẩu đầu ra trong giai đoạn trước. Họ giải thích phát hiện này là phù hợp
với lý thuyết học tập, mặc dù, nói đúng ra, họ đã không nhìn vào bất kỳ thay đổi
hiệu quả của doanh nghiệp
Giai đoạn tiếp theo các học giả đã nhắm vào câu hỏi thứ hai, bằng chứng
thực nghiệm cho thấy rằng các doanh nghiệp sẽ trở thành nhà xuất khẩu thì trước đó
họ sẽ có một số lợi thế tương đối phong phú và rõ ràng. Một số nghiên cứu nhấn
mạnh lợi thế sản xuất của các doanh nghiệp xuất khẩu (Roberts và Tycơn.,1997;
Bernard và Jensen 1999b, 2001; Bernard và Wagner năm 1997, năm 2001; Aw và
cộng sự 1998). Những người khác tập trung vào vai trò của sự năng động trong sáng
tạo (Wakelin năm 1998; Sterlacchini năm 1999; Basile 2001), quy mô doanh nghiệp
(Sterlacchini 2001; Bernard và Jensen 1999a , 2001) và quan hệ với nước ngoài
(Aitken và cộng sự 1997; Sjoholm 1999) trong hành vi xuất khẩu của các doanh
nghiệp. Ở đây, các nhà nghiên cứu tìm thấy năng suất như là một “nhân” mạnh mẽ
tác động đến “quả” là xuất khẩu.
Clerides và cộng sự (1998) đã thận trọng hơn và nỗ lực để sắp xếp ra sự chỉ
đạo của quan hệ nhân giữa năng suất và tham gia xuất khẩu. Họ ước tính một hệ
thống gồm hai phương trình, một là sự lựa chọn vào thị trường xuất khẩu, hai là quá
trình điều chỉnh các chi phí có liên quan đến việc xuất khẩu. Các vấn đề trước được
mô tả thông qua mô hình probit được dùng để kiểm tra quyết định tự lựa chọn vào
thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp có năng suất cao hơn khi tham gia xuất
khẩu. Kinh nghiệm xuất khẩu được đại diện bởi một biến giả (tình trạng xuất khẩu)
dùng để nhận dạng các doanh nghiệp trở thành nhà xuất khẩu hoặc không. Sử dụng


11

dữ liệu từ các doanh nghiệp từ Colombia, Mexico và Morocco họ tìm thấy bằng
chứng mạnh mẽ của sự lựa chọn, tức là các doanh nghiệp có năng suất cao sẽ tự
quyết định mình có tham gia vào thị trường xuất khẩu hay không và không có bằng
chứng về học tập.

Bernard và Jensen ( 1999) và Bernard và Wagner (1997) theo một chiến lược
thực nghiệm khác nhau để trả lời các câu hỏi về quan hệ nhân quả giữa tham gia
xuất khẩu và năng suất. Họ hồi quy mô hình dữ liệu chéo của tỷ lệ tăng trưởng năng
suất và chỉ số hoạt động khác như là một chức năng của tình trạng xuất khẩu, được
đo bằng một biến nhị phân, biến lấy giá trị 1 nếu một doanh nghiệp được xuất khẩu
trong năm đầu tiên và các biến giải thích khác như: đặc trưng doanh nghiệp, một số
biến giả cho ngành và khu vực địa phương. Kết quả phù hợp với nghiên cứu của
Clerides và cộng sự (1998). Họ nhận ra rằng, không có mối quan hệ nhân quả theo
chiều từ xuất khẩu đến năng suất trong một mẫu các doanh nghiệp của Mỹ và các
doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất của Đức, tình trạng xuất khẩu tốt nhất không
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng về năng suất và trong một số trường hợp thậm chí
còn tác động tiêu cực. Tuy nhiên, họ tìm thấy xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đối
với khả năng sống còn của doanh nghiệp cũng như tăng trưởng về quy mô và đặc
biệt là trong việc làm. Trong một bài báo khác, Bernard và Jensen (1999b) cũng cho
thấy điều này gây ra một sự tăng trưởng tổng năng suất do hiệu ứng thành phần: các
nhà xuất khẩu tăng quy mô doanh nghiệp, thị phần của họ trong năng suất tổng hợp
tăng và kể từ khi họ có kết quả thực hiện tốt hơn trước khi gia nhập thị trường xuất
khẩu, tổng hợp về năng suất đã tăng lên đáng kể.
Aw và cộng sự (1998) so sánh giá trị năng suất trung bình của nhóm các
doanh nghiệp đã trải qua những mô hình khác nhau của quá trình chuyển đổi vào và
ra khỏi thị trường xuất khẩu, để xác định tầm quan trọng của tự lựa chọn và học tập
thông qua xuất khẩu. Họ xác định 4 trạng thái khác nhau cho mẫu của họ: ở ngoài
(doanh nghiệp không xuất khẩu trong thời gian t và t+1), gia nhập (doanh nghiệp
không xuất khẩu trong thời gian t nhưng tham gia xuất khẩu trong thời gian t+1), đi
ra (doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian t nhưng không xuất khẩu trong thời gian


12

t+1), tồn tại (doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian t và t+1). Họ nhận thấy sự

khác biệt giữa các doanh nghiệp của Đài Loan và Hàn Quốc trong tầm quan trọng
của quyết định tự lựa chọn và học tập.
Như vậy, đối với các nghiên cứu trước đây, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy
bằng chứng mạnh mẽ phù hợp với sự tự lựa chọn và trong một số lĩnh vực lại xuất
hiện bằng chứng ủng hộ giả thuyết học tập thông qua xuất khẩu.
Việc xem xét ngắn gọn về các tài liệu cho thấy, mặc dù thực tế rằng chỉ có
trong những năm gần đây các học giả đã bắt đầu nhắm đến những câu hỏi về quan
hệ nhân quả giữa tham gia xuất khẩu và năng suất tại cấp độ vi mô, một số công
trình thực nghiệm đã phát triển mạnh mẽ, sử dụng một loạt các phương pháp thực
nghiệm trên các quốc gia khác nhau dẫn đến kết quả khác nhau. Đáng chú ý, một
trong những quy luật trong các nghiên cứu dường như là nghiên cứu sử dụng tình
trạng xuất khẩu như một biện pháp đo lường kinh nghiệm xuất khẩu có xu hướng là
không tìm thấy có tác dụng học tập trong xuất khẩu, trong khi các nghiên cứu bằng
cách sử dụng phần xuất khẩu trên tổng doanh thu (cường độ xuất khẩu) thì có xu
hướng tìm hiệu ứng học tập tích cực.
Log(productivity)
Exporter
A

Exporter
B

0

x

T

Time


Nguồn: Castellani(2002)

Hình 2.1: Hành vi xuất khẩu xác định sự thay đổi trong năng suất


13

Hiện nay, chưa có khung lý thuyết nào đã được phát triển để giải thích lý
thuyết học tập của doanh nghiệp từ xuất khẩu. Hầu hết các cuộc điều tra thực
nghiệm xây dựng trên ý tưởng rằng nếu hành vi xuất khẩu xác định hiệu ứng học
tập thì các quá trình ngẫu nhiên chi phối năng suất nên được thay đổi bởi các sự
kiện của xuất khẩu. Như trong hình 2.1, so sánh hai doanh nghiệp, doanh nghiệp A
xuất khẩu tại thời điểm x và B thì không, một trong những mong đợi rằng quỹ đạo
sản xuất của A sẽ dốc sau khi tham gia xuất khẩu do quá trình học tập, trong khi
doanh nghiệp B sẽ tiếp tục vào quỹ đạo của nó. Như đã thảo luận ở trên, kiểm tra
giả thuyết này dựa trên cả dữ liệu chéo và dữ liệu bảng.
Log(productivity)

Exporter
A
Exporter B

0

x

T

Time


Nguồn: Castellani(2002)

Hình 2.2: Hành vi xuất khẩu không xác định sự thay đổi trong năng suất
Một tác động tích cực của hành vi tham gia xuất khẩu đối với tăng trưởng
năng suất là phù hợp với giả thuyết về học tập thông qua xuất khẩu. Tuy nhiên, kết
quả như vậy có thể là kết quả của một mối quan hệ giả. Trong thực tế, thì tình
huống sẽ giống như mô tả trong hình 2.2, trong đó tham gia xuất khẩu không ảnh
hưởng đến quá trình chi phối ngẫu nhiên sự tăng giảm của năng suất mà là các nhà
xuất khẩu có tăng trưởng năng suất cao hơn trước khi bước vào thị trường xuất


14

khẩu, có thể bị nhầm lẫn với một trong những lý thuyết học hỏi thông qua xuất khẩu
hàng hoá.
Tóm lại, các nghiên cứu ở trên đều cung cấp những lý thuyết nền rất tốt cho
tác giả thực hiện nghiên cứu này. Mỗi nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích
khác nhau, dữ liệu khác nhau và do đó cũng cho những kết quả không giống nhau.
Trong nghiên cứu này, dựa trên kết quả của các nghiên cứu trước đa phần đều cho
ta kết luận có mối quan hệ nhân quả theo chiều năng suất đến khả năng tham gia
xuất khẩu. Do đó, với mục tiêu đánh giá tác động của TFP đến khả năng tham gia
xuất khẩu của ngành dệt may ở Việt Nam tác giả sẽ sử dụng nguồn số liệu thu thập
được, dùng phương pháp hạch toán tăng trưởng để tính toán TFP và hồi qui mô
hình probit cùng với một số biến giải thích liên quan đến doanh nghiệp như: quy
mô doanh nghiệp, cường độ vốn, mức lương trung bình, tuổi của doanh nghiệp,
ngành sản xuất để tiến hành nghiên cứu.
2.3 Mô hình tổng quát
2.3.1 Mô hình tính toán TFP
Dựa trên hàm sản xuất Codd-Douglas, Arnold và Hussinger (2005) đo lường
năng suất nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp với lao động (l) và vốn (k) là những

yếu tố đầu vào và giá trị gia tăng chính là đầu ra (y) của doanh nghiệp, TFP chính là
phần dư của phương trình được biểu diễn dưới dạng logarit sau:
Yit = 𝛽.lit + 𝛾.kit + uit (2.2)
Trong phương trình trên, sai số ước tính uit đại diện cho biến log TFP của DN
i trong thời gian t. Vấn đề được đưa ra đồng thời ở đây chính là một phần của TFP
sẽ được các doanh nghiệp quan sát tại một điểm thời gian đủ sớm để họ ra quyết
định về các yếu tố đầu vào của họ. Tối đa hóa lợi nhuận sau đó hàm ý rằng sự phân
tích rõ sai số chuẩn dự kiến sẽ ảnh hưởng đến quyết định yếu tố đầu vào, khiến ước
tính OLS không phù hợp. Để bắt đầu việc quản lý các yếu tố đầu vào và các sai số,
họ phải giả định lịch sử của các quan sát đầu tiên là những biến ngoại sinh. Ước tính
bán tham số mà họ sử dụng dựa trên những nghiên cứu của Olley và Pakes (1996)


15

bao gồm hai bước. Bước đầu tiên, giả định rằng đầu tư và dung lượng vốn được cho
bởi phương trình sau:
Kit+1 = (1- 𝛿) Kit + Iit

(2.3)

Trong đó K là dung lượng vốn, I là vốn đầu tư. Đầu tư này sau đó là một hàm
của dung lượng vốn và là một bộ phận của TFP kí hiệu 𝜛 được quan sát bởi các
doanh nghiệp trong thời gian sớm nhất đủ có thể ra quyết định đầu tư:
iit = it(𝜛 , kit)

(2.4)

Gọi hàm nghịch đảo của i là h, tức là h( ) = i-1 ( ), có thể được viết: 𝜛 =
ht(iit, kt) và ước lượng:

yit = 𝛽.lit + 𝜙(iit , kit) +eit

(2.5)

Với hàm 𝜙(iit , kit) = 𝛾.kit + ht(iit, kt) được ước lượng bằng một đa thức bậc 3,
lúc này ước tính logarit của lao động phù hợp hơn. Trong bước thứ hai, tác giả xác
định hệ số vốn bằng cách ước tính phương trình:
yit - 𝛽.lit = 𝛾. kit + g(𝜙

- 𝛾. kt-1) + eit

(2.6)

Với g là một hàm chưa xác định, nó được xác định gần giống với một đa
thức bậc 3 được thể hiện liên quan tới 𝜙

và 𝑘

. Các ước tính hệ số nhân tố phù

hợp cho phép xác định phần dư của phương trình (2.2)
Theo những nghiên cứu của Bernard & Jensen (2001a) Olley & Pakes
(1996) và Pavcnik (2002) để tránh các vấn đề về kinh tế lượng xảy ra tính chệch
đồng thời khi ước lượng sai số của phương trình (2.2) họ sử dụng phương pháp ước
lượng bán tham số để có ước tính TFP phù hợp. Phương pháp ước lượng này tạo ra
hệ số các nhân tố ước tính nhấn mạnh sự có mặt đồng thời và tính không đồng nhất
không quan sát được trong sản xuất, mà không tăng đáng kể gánh nặng tính toán.
2.3.2 Đặc trƣng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu:
Mô hình về sự tự lựa chọn vào thị trường xuất khẩu:
Các tài liệu lý thuyết về chi phí chìm và xuất khẩu được phát triển trong các

tài liệu của Dixit (1989a, b), Baldwin (1988), Baldwin và Krugman (1989), và
Krugman (1989). Roberts và Tybout (1997) và Bernard và Jensen (1997) với kinh


16

nghiệm giải quyết các vấn đề về chi phí xuất nhập cảnh trong quyết định xuất khẩu
của doanh nghiệp nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Theo Roberts và Tybout (1997) và Bernard và Jensen (1997) trong mô hình
hóa các quyết định xuất khẩu để doanh nghiệp tối đa lợi nhuận một cách hợp lý
tương tự như quyết định đưa ra thị trường một sản phẩm mới. Doanh nghiệp sẽ xem
xét lợi nhuận ngày hôm nay và dự kiến trong tương lai từ đó ra quyết định có tham
gia vào mạng lưới thị trường nước ngoài với bất kỳ chi phí cố định nào hay không.
Giả định rằng doanh nghiệp luôn có khả năng sản xuất ở mức độ lợi nhuận
tối đa để xuất khẩu là 𝑞 nếu nó xâm nhập vào thị trường nước ngoài. Trong trường
hợp tại khoảng thời gian mà không có chi phí nhập cảnh, doanh nghiệp nhận được
lợi nhuận:
𝜋 (𝑋 , 𝑍 ) = 𝑝 . 𝑞 − 𝑐 (𝑋 − 𝑍 |𝑞 )

(2.7)

Với 𝑝 là giá vốn hàng bán ở nước ngoài và 𝑐 (•) là chi phí biến đổi của sản
xuất tại sản lượng 𝑞 . Các yếu tố ngoại sinh ảnh hưởng đến lợi nhuận, chẳng hạn
như tỷ giá hối đoái, được ký hiệu là 𝑋 , trong khi các đặc tính doanh nghiệp được
đại diện bởi biến 𝑍 . Có thể tăng khả năng xuất khẩu của một doanh nghiệp với các
yếu tố như là: quy mô doanh nghiệp, thành phần lao động, gia tăng năng suất, cơ
cấu sản phẩm và cơ cấu sở hữu.
Nếu lợi nhuận dự kiến là lớn hơn không thì doanh nghiệp sẽ xuất khẩu. Tình
trạng xuất khẩu của doanh nghiệp i trong thời gian t được cho bởi 𝑌 :
𝑌 = 1 𝑛ế𝑢 𝜋 ≥ 0

𝑌 = 0 𝑛ế𝑢 𝜋 < 0
Mở rộng cho mô hình trên để dễ hiểu hơn khi mà không xác định được chi
phí nhập cảnh. Lúc này lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp sẽ là:
Π (𝑋 , 𝑍 ) = 𝐸 (∑

𝛿

. ,𝑝 . 𝑞 − 𝑐 (𝑋 , 𝑍 |𝑞 -)

(2.8)

Miễn là hàm chi phí không phụ thuộc vào mức sản lượng trong một thời gian
trước đó, các giải pháp của vấn đề đưa ra cho vấn đề nhiều thời đoạn này giống với
trường hợp của một giai đoạn.


17

Khi tham gia vào thị trường nước ngoài thì luôn tồn tại một chi phí chìm là
điều hiển nhiên, điều này có thể bao gồm chi phí thông tin về điều kiện nhu cầu
nước ngoài, các chi phí thiết lập một hệ thống phân phối, hoặc các chi phí tìm kiếm
xác định các ngân hàng địa phương và các doanh nghiệp vận tải. Các nhà nghiên
cứu đề cập đến điều này như chi phí gia nhập và họ giả định các chi phí tái diễn đầy
đủ nếu các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường xuất khẩu bất kì khoảng thời gian
nào. Lợi nhuận của doanh nghiệp trong vấn đề tối đa hóa trong một gia đoạn với chí
phí gia nhập được thể hiện như sau:
𝜋̃ (𝑋 , 𝑍 , 𝑌

) = 𝑝 . 𝑞 − 𝑐 (𝑋 − 𝑍 |𝑞 ) − 𝑁. (1 − 𝑌


)

(2.9)

Trong đó N là chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không
phải trả chi phí nhập cảnh nếu nó xuất khẩu trong giai đoạn trước đó, tức là nếu
𝑌

= 1 doanh nghiệp sẽ xuất khẩu nếu lợi nhuận ròng dự kiến trên chi phí đầu vào

là dương, 𝑌 = 1 nếu 𝜋̃ > 0.
Kết hợp với chi phí đầu vào trong một khung phân tích động cung cấp một
giá trị trung bình để quyết định xuất khẩu hiện nay của doanh nghiệp ảnh hưởng đến
các quyết định xuất khẩu trong tương lai. Công thức này của chi phí gia nhập giống
như chi phí chìm mang lại một giá trị tùy chọn được chờ đợi để lựa chọn và do đó
làm gia tăng các khu vực mà doanh nghiệp không lựa chọn để làm thị trường xuất
khẩu. Doanh nghiệp lựa chọn một chuỗi các mức sản lượng, *𝑞 +

nhằm tối đa

hóa lợi nhuận hiện tại và giảm giá trong tương lai:
Π = Et (∑

𝛿

,𝜋̃ . 𝑌 -)

(2.10)

Các chu kỳ lợi nhuận được cho bởi phương trình (2.10) và hạn chế là không

âm bởi vì doanh nghiệp luôn có sự lựa chọn không phải để xuất khẩu. Điều này
giống như là các doanh nghiệp lựa chọn việc xuất khẩu trong từng giai đoạn họ cho
là tốt vì theo giả thuyết cho phép các doanh nghiệp có thể chọn một giai đoạn mà họ
cho là có lợi nhuận. Hàm giá trị giống như trước đó với việc bổ sung chi phí gia
nhập tiềm năng trong lợi nhuận trong thời gian này,
𝑉 (. ) = max(𝜋̃ . ,𝑞 > 0- + 𝛿. 𝐸 ,𝑉
*𝑞 +

(. )|𝑞 -)

(2.11)


×