Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Các yếu tố quyết định cán cân thương mại của Việt Nam - Phương pháp ARDL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THÀNH TRUNG

CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM - PHƯƠNG PHÁP ARDL

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THÀNH TRUNG

CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM - PHƯƠNG PHÁP ARDL

Chuyên ngành: Tài chính–Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ THU HỒNG

TP. Hồ Chí Minh – 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bài luận văn thạc sĩ với chủ đề “Các yếu tố quyết định cán cân
thương mại của Việt Nam-Phương pháp ARDL” hoàn toàn do tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn của TS Đinh Thị Thu Hồng. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Ngoài ra, trong luận văn có sử dụng một số nhận
xét, đánh giá của các tác giả khác, cơ quan, tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Tôi cam đoan sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực và các nội dung
được trình bày trong luận văn này.

TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Nguyễn Thành Trung

năm 2018


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1

CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT......................................................................4
2.1. Giới thiệu.........................................................................................................4
2.2 Các lý thuyết truyền thống liên quan đến các yếu tố xác định của cán cân
thương mại .............................................................................................................5
2.2.1. Năng suất và cán cân thương mại ............................................................7
2.2.2. Thu nhập và cán cân thương mại ..............................................................9
2.2.3. Tỷ giá, hiệu ứng giá tương đối và cán cân thương mại...........................11
2.2.4. Góc nhìn tiền tệ của cán cân thương mại ................................................15
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm .......................................................................17
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................27
3.1 Nguồn dữ liệu và cách xác định biến số ......................................................27
3.2. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................32
3.2.1. Ưu điểm của phương pháp ARDL ..........................................................32
3.2.2. Thiết lập mô hình ...................................................................................33
3.2.3. Kiểm định đường bao (F-Bounds Test) và mô hình sai số hiệu chỉnh ...34
3.3. Vận dụng mô hình ARDL............................................................................37
3.4. Kiểm định chẩn đoán ...................................................................................40
3.4.1. Kiểm định tính ổn định ...........................................................................41
3.4.2. Kiểm định tính tương quan chuỗi ...........................................................41


3.4.3. Kiểm định phương sai thay đổi ...............................................................42
3.4.4. Kiểm định lỗi xác định hồi quy ...............................................................42
3.4.5. Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư ................................................43
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ .........................................................................................44
4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị ............................................................................44
4.2. Kiểm định đồng liên kết ...............................................................................46
4.3. Kiểm định hồi quy ARDL............................................................................47
4.4. Kiểm định chẩn đoán ...................................................................................51
4.5. Kiểm định nhân quả Granger .....................................................................52

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ......................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Thuật ngữ

Viết đầy đủ tiếng Anh

Viết đầy đủ tiếng Việt

ARDL

Autoregressive distributed
Mô hình tự hồi quy phân phối trễ
lag model

BoP

Balance of Payment

DGE

Multi-country dynamic
Mô hình cân bằng động tổng thể đa
general equilibrium model quốc gia

DSGE


Dynamic stochastic
general equilibrium

Mô hình cân bằng tổng thể dao động

ML

Marshall Lerner

Điều kiện Marshall Lerner

GDP

Gross domestic product

Tổng sản phẩm quốc nội

GNI

Gross national income

Tổng thu nhập quốc gia

IMF

International Monetary
Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế


IRF

The impulse response
function

Hàm phản ứng xung

WB

World Bank

Ngân Hàng Thế Giới

M3

Money Supply

Cung tiền M3

TFP

Total factor productivity

Tổng nhân tố năng suất

Cán cân thanh toán


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số thứ tự


Tên Bảng Biểu

2.1

Tóm tắt một số lý thuyết về các yếu tố xác
định của cán cân thương mại.

2.2

Tóm tắt dấu tác động trong dài hạn của các
yếu tố xác định chính của cán cân thương mại
từ một số nghiên cứu gần đây

3.1

Kỳ vọng dấu và nguồn của dữ liệu nghiên
cứu

3.2

Thống kê mô tả các biến số

4.1

Kết quả kiểm định tính dừng ADF

4.2

Kết quả kiểm định PP


4.3

Kiểm định đường bao

4.4

Kết quả ước lượng dài hạn của mô hình
ARDL(1,0,0,3,3,1,0) với biến phụ thuộc
LnTB

4.5

Kết quả ước lượng ngắn hạn với biến phụ
thuộc là LnTB

4.6

Kiểm định chẩn đoán

4.7

Kiểm định nhân quả Granger


DANH MỤC HÌNH VẼ
Số thứ tự

Tên Bảng Biểu


2.1

Khung phân tích xác định các yếu tố ảnh
hưởng cán cân thương mại

3.1

Xu hướng của các biến nghiên cứu

4.1

Kết quả kiểm định tính ổn định của hệ số ước
lượng


TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này xem xét tác động của yếu tố tỷ giá, thu nhập, cung tiền, lạm phát
và giá dầu lên cán cân thương mại của Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng mô hình tự hồi
quy phân phối trễ (ARDL) với dữ liệu hàng quý từ quý 4 năm 1998 đến quý 4 năm
2016 tại Việt Nam. Kết quả cho thấy không có đủ bằng chứng về sự tác động của tỷ
giá hối đoái thực đến cán cân thương mại Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn,
trong khi các yếu tố khác như thu nhập nội địa, giá dầu và lạm phát thì có tác động
cùng chiều, thu nhập nước ngoài, cung tiền thì có tác động ngược chiều với cán cân
thương mại Việt Nam trong dài hạn.

Từ khóa: Cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái thực, thu nhập nội địa, lạm phát, giá dầu,
thu nhập quốc tế, ARDL


1


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Cán cân thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định tình trạng
sức khỏe của nền kinh tế. Cán cân thương mại là sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia. Nếu xuất khẩu của quốc gia lớn hơn nhập khẩu, cán cân
thương mại đạt trạng thái thặng dư. Tương tự, nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu, cán
cân thương mại rơi vào tình trạng thâm hụt. Thâm hụt thương mại không tốt cho tăng
trưởng kinh tế dài hạn. Tình trạng này buộc một quốc gia đi vay vốn từ Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) hoặc Ngân hàng Thế giới để duy trì cán cân thương mại. Do các khoản
thanh toán trả lãi cho các khoản vay, quốc gia có ít tiềm lực đầu tư vào các dự án mới,
tạo ra áp lực lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt khác, khi tài khoản vãng lai thâm
hụt, nó có thể được tài trợ bởi các tập đoàn đa quốc gia. Các tài sản tốt nhất của một
quốc gia có thể sẽ rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến nguy cơ phá sản
trong nền kinh tế và làm cho các nhà đầu tư mất niềm tin và hủy bỏ đầu tư khỏi đất
nước. Hơn nữa, tình trạng thâm hụt gây ra sự suy giảm lớn trong giá trị tiền tệ, làm
giảm mức sống và sự tự tin của các cơ hội đầu tư mới. Tình trạng trên còn làm giảm
mức thu nhập trong một thời gian dài. Tương tự, nếu thâm hụt cán cân thương mại tích
lũy do thâm hụt trong tài khoản vãng lai, một quốc gia buộc phải phụ thuộc vào chi
tiêu của người tiêu dùng. Sự tăng trưởng của khu vực xuất khẩu giảm do tính cạnh
tranh kém. Cuối cùng, tình trạng thâm hụt cán cân thương mại kéo dài có thể dẫn đến
sự xóa bỏ ngành công nghiệp của một quốc gia,kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế của
chính quốc gia đó (Ahad và Muzammil, 2015). Tại Việt Nam, tình trạng thâm hụt
trong cán cân thương mại kéo dài suốt nhiều năm qua; nếu tiếp tục kéo dài và không
được kiểm soát sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Do đó, việc
nghiên cứu và phân tích các nhân tố tác động đến cán cân thương mại có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm điều chỉnh cán cân thương mại để
kích thích tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Trong thực tế, về mặt lý thuyết, giảm giá hoặc tăng giá danh nghĩa của tỷ giá hối
đoái được giả định làm thay đổi tỷ giá hối đoái thực và do đó tác động trực tiếp đến
cán cân thương mại (Himarios, 1989; Bahmani-Oskooee, 2001); tuy vậy, nhiều nghiên



2

cứu lại không tìm thấy bằng chứng thống kê mạnh mẽ nào kết nối các thay đổi tỷ giá
hối đoái và cán cân thương mại (xem Greenwood, 1984; Mahdavi và Sohrabian, 1993;
Rahman và Mustafa, 1996; Rahman và cộng sự, 1997). Thêm vào đó,bằng chứng thực
nghiệm cũng cho thấy những thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực ảnh hưởng đến cán
cân thương mại ở một số nước nhưng không phải cho tất cả, ngụ ý rằng hướng tác
động của thay đổi tỷ giá hối đoái thực lên cán cân thương mại vẫn chưa rõ ràng.Đặc
biệt, nghiên cứu của Liew và cộng sự (2003) đã chỉ ra rằng cán cân thương mại ở các
quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tiền tệ hơn là tỷ giá hối đoái danh
nghĩa và do đó,tác giả kết luận rằng vai trò của thay đổi tỷ giá hối đoái trong cán cân
thương mại đang được phóng đại. Thêm nữa, Hassan và Zaman (2012) cho thấy mối
quan hệ ngược chiều và đáng kể giữa giá dầu và cán cân thương mại trong cả ngắn hạn
và dài hạn. Điều đó chỉ ra với sự gia tăng của giá dầu, chi phí vật liệu và hàng hóa tăng
lên và dẫn đến tình trạng thâm hụt thương mại (mất cân đối thương mại). Một kết quả
khác cũng cho thấy giá dầu tác động đáng kể, đặc biệt là ở các nước nghèo, các nước
đang phát triển và các nước nhập khẩu dầu. Các kết quả trên tạo động lực cho tác giả
tiến hành phân tích toàn diện các yếu tố chính tác động đến cán cân thương mại tại
Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu sử dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ ARDL và kỹ
thuật kiểm định nhân quả Granger trên dữ liệu hàng quý bắt đầu từ quý 4 năm 1998
đến quý 4 năm 2016, nhằm xác định liệu có hiện diện mối quan hệ giữa cán cân
thương mại và tỷ giá hối đoái (phương pháp độ co giãn), thu nhập (phương pháp hấp
thụ), cung tiền (phương pháp tiền tệ), mức giá và giá dầu tại Việt Nam hay không.
Nghiên cứu giúp các nhà hoạch định và giới nghiên cứu trả lời các câu hỏi:
i) Tỷ giá có tác động cán cân thương mại Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn
hay không, điều kiện ML có tồn tại hay không, đường cong J có tồn tại hay không ?
Trả lời câu hỏi trên nhằm giải đáp tính hiệu quả của các chính sách tỷ giá tại Việt

Nam.
ii) Thu nhập trong nước và ngoài nước tác động thế nào đến Việt Nam, chính
sách tăng trưởng có phải là chính sách phù hợp trong bối cảnh Việt Nam không ?


3

iii) Cung tiền ảnh hưởng thế nào đến cán cân thương mại Việt Nam ?
iv) Mức giá có phải là yếu tố xác định quan trọng của cán cân thương mại Việt
Nam không ?
v) Giá dầu có phải là yếu tố xác định quan trọng của cán cân thương mại Việt
Nam không ?
Phần tiếp theo của nghiên cứu gồm có 4 phần: phần 2 trình bày các lý thuyết liên
quan về cán cân thương mại, các nhân tố tác động đến cán cân thương mại cũng như
trình bày các nghiên cứu thực nghiệm trước đây trên thế giới và tại Việt Nam. Phần 3
giới thiệu về phương pháp nghiên cứu. Phần 4 trình bày về các bằng chứng thực
nghiệm từ kết quả hồi quy; và cuối cùng, phần 5 tóm tắt kết quả nghiên cứu và các đề
xuất cũng như hạn chế của nghiên cứu.


4

CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT
2.1. Giới thiệu
Tại sao cán cân thương mại của một số quốc gia thặng dư, trong khi một số
khác lại thâm hụt và nguyên nhân gây ra sự khác nhau giữa các quốc gia là gì? Để
trả lời cho câu hỏi trên, Chương 2 điểm lại các cơ sở lý thuyết của các yếu tố quyết
định chính của sự mất cân bằng thương mại, cũng như đề cập các nghiên cứu thực
nghiệm đánh giá dấu (sign) và độ lớn của các hệ số trong các mối quan hệ giữa cán
cân thương mại với các yếu tố quyết định.

Các nghiên cứu có thể được chia theo các cột khác nhau (xem Hình 2.1). Một
cột trình bày sự phát triển của các lý thuyết cân bằng thương mại bao gồm 3 phần
chính: lý thuyết dòng chảy hình thái giá cổ điển (the classical price-specie flow
theory), mô hình Keynes với giả định giả cả cứng nhắc (sticky price) và thời kỳ hậu
Keynes (post-Keynesian period) kết hợp các yếu tố tiền tệ. Theo đó, theo thời gian,
xuất phát từ3 lý thuyết chính,3 phương pháp dần xuất hiện nhằm xác định mối quan
hệ giữa cán cân thương mại của một quốc gia và các yếu tố quyết định của nó. Hai
phương pháp tiếp cận, cụ thể là phương pháp tiếp cận độ co giãn (elasticity
approach) của Robinson(1937) và phương pháp tiếp cận hấp thụ (absorption
approach) của Alexander (1952, 1959) được phát triển từ mô hình Keynes. Một
cách tiếp cận khác, cách tiếp cận tiền tệ (monetary approach) được phát triển từ lý
thuyết tiền tệ (Johnson, 1977). Phương pháp độ co giãn là một phân tích cân bằng
từng phần, trong khi 2 phương pháp tiếp cận còn lại là phân tích cân bằng tổng quát.
Các cột còn lại được tổ chức theo 3 kênh thông qua đó, tất cả các yếu tố quyết định
có thể ảnh hưởng đến cán cân thương mại của một quốc gia. Một cách tổng quát,
cán cân thương mại được định nghĩa là sự chênh lệch giữa xuất khẩu của một quốc
gia với nhập khẩu của quốc gia đó. Từ quan điểm này, các yếu tố quyết định của
cán cân thương mại là bất kỳ yếu tố nào ảnh hưởng đến nhập khẩu và xuất khẩu của
một quốc gia và có thể được theo dõi dựa qua 3 kênh chính: phía cung (supplyside), phía cầu (demand-side) và hiệu ứng giá tương đối (relative priceeffect).


5

Thu nhập trong nước ảnh hưởng cùng chiều đến nhu cầu hàng hóa và dịch vụ
nước ngoài (nhập khẩu) và sau đó, tác động ngược chiều đến cán cân thương mại.
Năng suất trong nước ảnh hưởng cùng chiều đến sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong
nước, một phần trong số đó là xuất khẩu. Như vậy, thu nhập là yếu tố bên cầu, trong
khi năng suất là yếu tố bên cung. Tỷ giá hối đoái, như một yếu tố “truyền dẫn”, ảnh
hưởng đến giá cả tương đối hàng xuất khẩu trên nhập khẩu. Ngoài ra, các yếu tố
tiền tệ cũng được xem xét khi chúng tác động đến cán cân thương mại thông qua

các tác động của chúng lên tỷ giá hối đoái và thu nhập trong nước. Ví dụ, một chính
sách tiền tệ mở rộng dẫn đến lãi suất giảm, do đó, gây ra sự định giá thấp trong tỷ
giá hối đoái. Việc mất giá nội tệ có thể dẫn đến sự cải thiện về cán cân thương mại.
2.2. Các lý thuyết truyền thống liên quan đến các yếu tố xác định của cán cân
thương mại
Lý thuyết về cán cân thương mại hoặc cán cân tài khoản vãng lai quan tâm đến
các yếu tố kinh tế quyết định của cán cân thương mại. Ba giả thuyết lớn về cán cân
thương mại gồm:(1) Theo cơ chế dòng chảy hình thái giá cổ điển phát triển bởi
David Hume (1752), việc điều chỉnh cán cân thương mại được xem như một quá
trình tự động trong nền thương mại tự do. Học thuyết này phổ biến trước cuộc Đại
suy thoái trong những năm 1930. (2) Kể từ khi xuất hiện sự mất cân bằng ở nhiều
quốc gia sau Thế chiến I và sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định (Klein,
1948), phương pháp kinh tế vĩ mô Keynes được nhiều quốc gia chấp nhận rộng rãi
(Johnson, 1958). Cách tiếp cận Keynes hỗ trợ sự can thiệp của chính phủ trên thị
trường. (3) Trong những năm 1950, phương pháp tiền tệ được đề xuất bởi Frenkel
và Johnson (1976). Theo cách tiếp cận này, sự cân bằng của cán cân thương mại
được coi là hiện tượng tiền tệ (trong các mô hình sử dụng phương pháp tiền tệ, thuật
ngữ “cán cân thanh toán” thay vì “cán cân thương mại” thường được sử dụng nhiều
hơn nhằm nắm bắt thành phần tài khoản quốc tế của một quốc gia).


6

Kênh và các yếu tố xác định
chính

Sự phát triển của các lý
thuyết

Lý thuyết


Dòng chảy
hình
thái
giá

Sự
phát
triển
Keynes

Lý thuyết
tiền tệ

Cán cân thương
mại

Phương pháp

Xuất
khẩu

Nhập
khẩu

Độ co
giãn
Hấp thụ

Phía

cung

Giá
tương
đối

Năng suất

Tỷ giá

Phía cầu

Thu nhập

Tiền tệ
Nhân tố tiền
tệ

Ghi chú:Sự phát triển của các lý thuyết và cách tiếp cận có liên quan được thể hiện ở
phía bên trái của Hình 2.1. Ở bên phải, 3 kênh chính, phái cung, giá tương đối và
phía cầu, được sắp xếp để phân tích hành vi của cán cân thương mại. Các yếu tố
quyết định chính, chẳng hạn như năng suất, tỷ giá hối đoái, thu nhập và các yếu tố
tiền tệ được liên kết với nhau. Đối với khung phân tích đơn giản gồm 3 kênh chính,
các hiệu ứng tương tác giữa các biến này không được xét tới.
Ng
Hình 2.1. Khung phân tích xác định các yếu tố ảnh hưởng cán cân thương mại.
Nguồn : Tổng hợp của tác giả
Tầm quan trọng của việc xác định và hiểu rõ các yếu tố quyết định của động
lực cân bằng thương mại có thể được tìm thấy từ những nghiên cứu đầu tiên của các
nhà tư tưởng có sức ảnh hưởng như J.R. Hicks, Johnson và Metzler. Hicks (1953)



7

mô tả “vấn đề đồng đô la dài hạn”tương tự vấn đề mất cân bằng,xuất phát từ sự
chênh lệch năng suất; Johnson (1954) giới thiệu hiệu ứng thu nhập cũng như sự gia
tăng năng suất lên cán cân thương mại - cho thấy rằng hiệu ứng thu nhập có thể
giúp cân bằng hoặc làm trầm trọng thêm cán cân thương mại với giả định giá cả
không linh hoạt (inflexibility); và Metzler (1949) quan tâm đến sự cần thiết điều
chỉnh giá thông qua các thay đổi tỷ giá hối đoái và giữ quan điểm rằng việc phá giá
có hiệu quả trong việc cải thiện cán cân thương mại. Những cú sốc tiền tệ cũng
được đưa vào mô hình của Meade (1951) nhằm phân tích cán cân thanh toán. Theo
đó, các yếu tố quyết định quan trọng như năng suất, thu nhập, tỷ giá hối đoái và các
yếu tố tiền tệ khác được xác định trong các nghiên cứu, sẽ được thảo luận dưới đây.
2.2.1. Năng suất và cán cân thương mại
Đề cập hiệu ứng của năng suất lên cán cân thương mại, chúng ta quay lại mô
hình của Ricardo, trong đó, mô hình thương mại được xác định bởi năng suất ở mỗi
quốc gia. Hicks (1953) phác thảo một phân tích trực quan các mô hình Ricardo về
những hiệu ứng khác nhau của năng suất cải thiện và trạng thái mất cân bằng. Tác
giả lập luận rằng tiến bộ công nghệ ở Mỹ đã làm thị trường quốc gia này ưu tiên các
sản phẩm thay thế nhập khẩu, và do đó, áp đặt một sự mất cân bằng với thế giới bên
ngoài, mà sau này, được mô hình hóa chính thức bởi Johnson (1954). Trong mô
hình hai quốc gia, Johnson thu được các phương trình nắm bắt mối quan hệ giữa
cán cân thương mại và xu hướng giá cả và năng suất. Một mặt, tăng trưởng năng
suất nhanh hơn làm tăng thu nhập thực tế và có xu hướng làm suy giảm cán cân
thương mại. Mặt khác, giá cả giảm tương đối có thể sẽ cải thiện cán cân thương mại
của quốc gia đang phát triển nhanh hơn với giả định rằng độ co giãn của cầu quốc tế
đủ cao để phá giá.
Dornbusch và cộng sự (1977) xem xét tác động của tiến bộ công nghệ đồng
nhất (uniform technological progress) đối với cán cân thương mại trong trường hợp

có dải phân định hàng hóa (continuum of goods). Các tác giả phát triển mô hình cho
mức lương tương đối cân bằng, cấu trúc giá và mẫu hình liên quan của chuyên môn
địa lý hiệu quả (efficient geographic specialization). Tiến bộ công nghệ đồng nhất


8

hàm ý một sự suy giảm tỷ lệ đồng nhất trong yêu cầu đơn vị lao động nước ngoài và
do đó, một sự dịch chuyển đi xuống theo tỷ lệ của yêu cầu đơn vị lao động tương
đối. Do giảm chi phí đơn vị lao động nước ngoài, việc mất lợi thế so sánh ở quốc
gia sở tại sẽ hàm ý sự mất mát của một số ngành trong nước và thâm hụt thương
mại tương ứng.Krugman (1979) cố gắng giới thiệu những thay đổi công nghệ vào lý
thuyết thương mại quốc tế. Tác giả xem xét mẫu hình thương mại giữa một quốc gia
công nghệ tiên tiến và đối tác thương mại ít phát triển hơn dựa trên cơ sở thực tế
hơn. Trong mô hình của mình, tiến bộ kỹ thuật dưới dạng phát triển các sản phẩm
mới thay vì tăng năng suất sản xuất các sản phẩm cũ. Sự chậm trễ của chuyển giao
công nghệ làm phát sinh thương mại, với quốc gia công nghệ tiên tiến xuất khẩu sản
phẩm mới và nhập khẩu các sản phẩm cũ. Đối với các quốc gia kém phát triển, việc
chuyển giao công nghệ cũng mang lại lợi ích cải thiện các điều khoản thương mại
(terms of trade), làm tăng mức lương lao động tương đối và cải thiện sản lượng xuất
khẩu.
Các mô hình nêu trên giả định rằng tất cả các hàng hóa được giao dịch, hay
nói cách khác, có thể được chia thành hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu. Các chỉ
trích xoay quanh giả định này trong lý thuyết thuần túy của thương mại quốc tế
nhấn mạnh giá tương đối của hàng hóa phi thương mại với hàng hóa thương mại
(xem Balassa, 1964; Samuelson, 1964). Do đó, các tác giả mở rộng mô hình thương
mại truyền thống của Ricardonhằm bao gồm hàng hóa phi thương mại (nontradeable goods) và xác định sự khác biệt về năng suất giữa các lĩnh vực thương mại
(tradable sector) và phi thương mại,xem như là nguồn gốc thay đổi giá cả tương đối
nội bộ của một quốc gia. Khi một quốc gia đang trải qua một cú sốc năng suất
dương, chỉ ảnh hưởng đến hàng hóa giao dịch, đồng tiền của quốc gia đó được định

giá cao (tỷ giá thực) và cán cân thương mại bị suy giảm. Giả thuyết BalassaSamuelson đóng một vai trò then chốt trong lĩnh vực này và cung cấp những hàm ý
sâu rộng cho cả nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm.Nhiều phần mở rộng của mô
hình Balassa-Samuelson nhấn mạnh vai trò của truyền dẫn quốc tế. Các mô hình
cân bằng tổng quát bao gồm cả hàng hóa phi thương mại và hàng hóa thương mại


9

đặc thù quốc gia đã góp phần vào các cuộc thảo luận về truyền dẫn quốc tế và mối
liên hệ giữa biến động kinh tế vĩ mô và thương mại quốc tế (xem Obstfeld và
Rogoff, 2000; Corsetti và cộng sự, 2006). Trong nghiên cứu liên quan, Corsetti và
cộng sự (2008) phân tích phản ứng động vĩ mô đối với cú sốc năng suất liên tục
trong mô hình cân bằng động học ngẫu nhiên tổng quát (DSGE) tiêu chuẩn với hàng
hóa thương mại và phi thương mại. Một vài nghiên cứu gần đây cũng kiểm tra vai
trò tiềm năng của sự khác biệt về nhân tố năng suất tổng thể (TFP) ở các quốc gia
trong việc giải thích sự mất cân bằng toàn cầu dựa trên mô hình cân bằng động đa
quốc gia tổng quát (DGE) (xem ví dụ Guerrieri và cộng sự, 2005; Hunt và Rebucci,
2005; Cova và cộng sự, 2008; Cova và cộng sự, 2009). Kết quả mô phỏng của các
tác giả cho thấy sự phát triển TFP trong các nền kinh tế chiếm một phần đáng kể
trong tổng số suy giảm của cán cân thương mại Mỹ kể từ những năm 1990.
Nghiên cứu sâu hơn về cú sốc công nghệ được đưa ra bởi các nghiên cứu mức
độ vi mô gần đây liên quan đến thương mại. Bernard và cộng sự (2000) giới thiệu
tính không đồng nhất ở cấp độ doanh nghiệp (firm-level heterogeneity) vào mô hình
thương mại bằng cách áp dụng lý thuyết cơ bản của Ricardo với lợi thế so sánh đặc
trưng doanh nghiệp. Chúng phù hợp với sự kết hợp giữa dữ liệu vi mô và vĩ mô dựa
trên sự khác biệt về năng suất. Ghironi và Melitz (2005) chỉ ra một vấn đề có thể
xảy ra với hiệu ứng Balassa-Samuelson, đó là sự phụ thuộc vào luật một giá (law of
one price) cho hàng hóa thương mại. Các tác giả sử dụng mô hình của Melitz (2003)
để xem xét tác động của cú sốc năng suất tổng thể chứ không phải theo từng ngành
cụ thể và cung cấp giải thích nội sinh hoàn toàn cho hiệu ứng Balassa-Samuelson.

Quan trọng hơn, một vấn đề liên quan đến chính sách do lớp mô hình này phát sinh
là khi mô hình cho phép vay và cho vay quốc tế, các nền kinh tế có năng suất cao
hơn hoặc các nền kinh tế ít được quản lý, thể hiện mức giá trung bình cao hơn so
với các đối tác thương mại của họ.
2.2.2. Thu nhập và cán cân thương mại
Về mặt khái niệm, thu nhập là một yếu tố quyết định quan trọng đối với cả
nhập khẩu và xuất khẩu vì nhập khẩu là nhu cầu trong nước đối với hàng hóa nước


10

ngoài trong khi xuất khẩu là nhu cầu nước ngoài đối với hàng hóa trong nước. Xác
định thu nhập quốc gia trong nền kinh tế mở được phân tích bằng cách sử dụng mô
hình truyền thống của Keynes, trong đó,hiệu ứng thu nhập của cán cân thương mại
lần đầu thu hút sự chú ý. Trong mô hình Keynes, những thay đổi chủ động trong
xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trong nước được truyền từ quốc gia này sang quốc
gia khác thông qua những thay đổi trong thương mại nước ngoài do những thay đổi
về thu nhập gây ra. Trong trường hợp không có hoạt động của chính phủ và chuyển
giao đơn phương, những thay đổi về thu nhập phụ thuộc vào việc đầu tư trong nước
cộng với xuất khẩu có lớn hơn hoặc thấp hơn tiết kiệm cộng với nhập khẩu (Stern,
1973). Do đó, những thay đổi trong thu nhập sẽ hỗ trợ làm cân bằng hoặc trầm
trọng thêm cán cân thương mại. Hầu hết các phân tích ban đầu về hiệu ứng thu nhập
tập trung hoàn toàn vào độ co giãn thu nhập không đồng đều giữa các quốc gia.
Trong mô hình hai quốc gia, Johnson (1954) cho thấy ngay cả khi thương mại đang
cân bằng lúc đầu trong mô hình hai quốc gia, giá cả không đổi và tăng trưởng thu
nhập giống nhau ở hai quốc gia, cán cân thương mại vẫn có thể thay đổi theo thời
gian nếu độ co giãn thu nhập của cầu cho xuất khẩu khác nhau. Houthakker và
Magee (1969) thấy rằng độ co giãn thu nhập đối với hàng xuất khẩu của Nhật Bản
cao hơn đáng kể so với nhập khẩu của nó, trong khi Anh và Mỹ thì ngược lại.
Những lời chỉ trích về giả thuyết Houthakker-Magee, và về tất cả các mô hình

thương mại dựa trên thu nhập, là phân tích quá nhiều về cân bằng - từng phần, vì nó
bỏ qua quan hệ chéo giữa giá tương đối của hàng hóa, cung và cầu. Một trong
những lời chỉ trích, đại diện bởi Artus (1979) và Sachs (1981), nhắc nhở chúng ta về
phương pháp hấp thụ (Alexander, 1952; 1959) rằng bất kỳ sự cải thiện nào trong
cán cân thương mại đều đòi hỏi tăng thu nhập trên tổng chi tiêu trong nước. Việc áp
dụng phương pháp hấp thụ đối với sự mất cân đối tài khoản vãng lai trong những
năm 1970 mang lại kết luận rằng sự mất cân bằng phản ánh sự khác biệt giữa các
quốc gia trong động cơ tiết kiệm và đầu tư (xem Artus, 1979). Một nhánh khác của
những lời chỉ trích đến từ phương pháp tiền tệ (Frenkel và Johnson, 1976) khi xem
xét cán cân thanh toán như một hiện tượng tiền tệ. Các quốc gia có mức tăng trưởng


11

cao về thu nhập thực sẽ đạt thặng dư cán cân thanh toán do tác động cùng chiều của
thu nhập thực cao hơn lên nhu cầu tiền thực. Khi lãi suất trong nước cao hơn, người
nước ngoài quan tâm hơn đến việc mua tài sản tài chính trong nước;điều này tạo ra
dòng vốn chảy vào và cán cân thanh toán thặng dư (xem Goldstein và Khan, 1985).
Trong khuôn khổ như vậy, cán cân thương mại có thể được xem như được xác định
bởi giá cả tương đối, thu nhập thực và các yếu tố tiền tệ.
Do đó, hầu hết các phân tích thực nghiệm về cán cân thương mại hoặc cán cân
tài khoản vãng lai thường được thực hiện trong mô hình xác định thu nhập của
Keynes. Điều quan trọng là phải phân biệt giữa các xáo trộn tạm thời và vĩnh viễn
trong thu nhập trong phân tích xác định tài khoản vãng lai. Trong khuôn khổ liên
đới động (dynamic intertemporal framework), mối tương quan giữa thu nhập và cán
cân thương mại được điều tra bằng cách nhấn mạnh sự khác biệt giữa những thay
đổi tạm thời và vĩnh viễn về thu nhập (Sachs, 1981). Các kết quả được trình bày
trong nghiên cứu của Sachs (1981) cho thấy sự gia tăng vĩnh viễn thu nhập khiến
cán cân thương mại không bị ảnh hưởng bởi vì thu nhập và tiêu dùng thay đổi theo
cùng một mức độ. Tuy nhiên, thu nhập tăng tạm thời có thể tăng hoặc giảm cán cân

thương mại trong ngắn hạn, tùy thuộc vào nguồn gốc của thay đổi. Nếu sự gia tăng
do tổng cầu, cán cân thương mại có xu hướng giảm và có thể được điều chỉnh bởi
các chính sách về phía cầu (Cardia, 1991). Mặt khác, các mô hình chu kỳ kinh
doanh thực, chẳng hạn như Backus và cộng sự (1994) và Mendoza (1991) chỉ ra
hành vi ngược chu kỳ (countercyclical behaviour) của cán cân thương mại có thể
được tạo ra bởi những cú sốc năng suất mà không dựa vào các xáo trộn cầu
(demand disturbance).
2.2.3. Tỷ giá, hiệu ứng giá tương đối và cán cân thương mại
Từ lâu, tỷ giá hối đoái đã được coi là yếu tố quyết định chính của cán cân
thương mại. Một sự đồng thuận ngày càng tăng trong giới nghiên cứu khi công nhận
sự chênh lệch tỷ giá kéo dài và đáng kể có thể tạo ra sự mất cân bằng vĩ mô nghiêm
trọng và chính sách tỷ giá có thể giúp điều chỉnh sự mất cân đối bên ngoài.Trong cơ
chế dòng chảy hình thái giá của David Hume, một sự điều chỉnh tự động của sự mất


12

cân bằng quốc tế được thúc đẩy bởi dòng tiền và những thay đổi theo sau trong mức
giá tiền quốc gia. Sau sự sụp đổ của tỷ giá hối đoái cố định quốc tế vào năm 1930,
sự nổi lên của thất nghiệp hàng loạt là một vấn đề kinh tế lớn và cuộc cách mạng
Keynes đã thay đổi giả định cơ bản về tiền lương và tính linh hoạt về giá với đầy đủ
việc làm sang tiền lương cứng nhắc với thất nghiệp hàng loạt thông thường. Sự điều
chỉnh quốc tế không được xem như một quá trình tự động, mà là một vấn đề chính
sách đối với các chính phủ.
Quan điểm thông thường về tác động của mất giá tiền tệ đối với thương mại
cho thấy sự mất giá dẫn đến việc mở rộng thương mại thông qua giá xuất khẩu thấp
hơn và cải thiện cán cân thương mại. Về phía nhập khẩu, mất giá làm tăng giá nội
địa của hàng hóa nhập khẩu, dẫn đến nhu cầu hàng hóa nội địa tăng. Về phía xuất
khẩu, sự mất giá làm tăng giá trong nước và (hoặc) làm giảm giá ngoại tệ của hàng
xuất khẩu trong nước. Mức độ mất giá được chuyển cho người tiêu dùng nước

ngoài dưới hình thức giá ngoại tệ thấp hơn của hàng xuất khẩu (nhập khẩu của họ),
phụ thuộc vào độ co giãn của cung và cầu xuất khẩu. Quan điểm này bắt nguồn từ
mô hình thương mại quốc tế cổ điển phát triển bởi Bickerdike (1920), Robinson
(1937) và Metzler (1949). Phương pháp được gọi là cách tiếp cận độ co giãn
(elasticity approach) hoặc mô hình BRM. Bản chất của quan điểm này là các hiệu
ứng thay thế trong tiêu thụ và sản xuất gây ra bởi sự thay đổi giá cả tương đối (trong
và ngoài nước), do sự mất giá gây nên. Do đó, sự tập trung dành cho điều kiện “co
giãn”, cần thiết cho các tác động của sự mất giá. Trong một loạt các nghiên cứu,
Haberler (1949), Meade (1951) và Friedman (1953) tranh luận ủng hộ tỷ giá hối
đoái thả nổi tự do, sử dụng gần giống như mô hình độ co giãn. Các tác giả chuyển
từ việc điều tra tác động của thay đổi tỷ giá hối đoái sang khám phá khái niệm tỷ giá
hối đoái như một công cụ chính sách.
Đặc biệt, phần lớn nghiên cứu tập trung vào hai khái niệm là điều kiện
Marshall-Lerner (ML) và hiện tượng đường cong J, sau này trở thành 2 giả định cơ
bản cho những người ủng hộ sự mất giá như một công cụ để ổn định thị trường
ngoại hối và cải thiện cán cân thương mại. Theo điều kiện ML, sự thành công của


13

phá giá tiền tệ phụ thuộc vào việc tổng độ co giãn cầu xuất khẩu và nhập khẩu có
lớn hơn 1 (đơn vị) hay không. Tuy nhiên, lại có những trường hợp điều kiện này
được thỏa mãn nhưng cán cân thương mại tiếp tục xấu đi (xem Bahmani-Oskooee,
1985). Do đó, sự quan tâm đã chuyển sang động lực ngắn hạn và cán cân thương
mại được cho là theo mẫu hình đường cong J. Trong khi tỷ giá hối đoái điều chỉnh
ngay lập tức, có một sự chậm trễ trong thời gian người tiêu dùng và nhà sản xuất
phải điều chỉnh để thay đổi giá tương đối.Cách tiếp cận độ co giãn cung cấp một
khung phân tích cân bằng từng phần để phân tích tác động của thay đổi tỷ giá hối
đoái lên cán cân thương mại. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không tính đến nhiều
tương tác cân bằng tổng quát phát sinh từ các thay đổi tiền tệ, chẳng hạn như sự đáp

ứng của sản xuất và tiêu dùng trước sự thay đổi giá tương đối (Dornbusch, 1975).
Nó cũng không giải thích làm thế nào thu nhập vượt qua tiêu dùng tương ứng phát
sinh thặng dư thương mại.
Alexander và Miller (1952) và Johnson (1958) giải quyết những lời chỉ trích
về phương pháp tiếp cận độ co giãn bằng cách tiếp cận hấp thụ dựa trên những cân
nhắc về tổng thu nhập và tiêu dùng. Việc trình bày phương pháp hấp thụ như là giải
pháp thay thế cho phương pháp tiếp cận độ co giãn dẫn đến một cuộc tranh cãi và
các nhà nghiên cứu đã nỗ lực rất nhiều để hòa giải cả hai. Trong số những người
ủng hộ cách tiếp cận độ co giãn, Machlup (1955) chỉ ra rằng việc bỏ qua giá xuất
khẩu và nhập khẩu tương đối là không chính xác và tập trung vào sự hấp thụ và thu
nhập. Tuy nhiên, phương pháp hấp thụ khẳng định hiệu quả thuận lợi từ việc giảm
giá một mình, trong nền kinh tế được sử dụng đầy đủ, không chỉ phụ thuộc vào độ
co giãn mà yêu cầu lạm phát phát sinh từ sự mất giá trong các điều kiện này làm
giảm sự hấp thụ tổng thể liên quan đến năng lực sản xuất tổng hợp.
Một số nỗ lực hòa hợp hai phương pháp tiếp cận của Alexander và Miller
(1959) và các nhà nghiên cứu khác chấm dứt cuộc tranh luận ban đầu bằng cách đưa
ra sự phối hợp các phương pháp tiếp cận độ co giãn và hấp thụ. Sự tổng hợp bao
gồm việc nghiên cứu ảnh hưởng của sự mất giá lên cán cân thanh toán, được xác
định bởi phương pháp tiếp cận độ co giãn truyền thống, như một hiệu ứng ban đầu,


14

mà số nhân được áp dụng để có được những thay đổi trong thu nhập quốc gia của
hai quốc gia liên quan và do đó, gây ra những thay đổi trong nhập khẩu và xuất
khẩu của quốc gia này.Trong phân tích đề xuất của Alexander và Miller (1959) về
phương pháp hấp thụ, một cán cân thương mại tiêu cực hàm ý chi tiêu quốc gia
vượt quá thu nhập quốc dân. Sự thật rõ ràng này được nhấn mạnh bởi Machlup
(1955) khi nhấn mạnh vai trò của việc tạo ra tín dụng trong việc duy trì chi tiêu quá
mức trong trường hợp thâm hụt thương mại và kết luận rằng vai trò cung tiền và tín

dụng không thể bỏ qua khi xem xét tác động của sự mất giá. Tuy nhiên, việc khám
phá lại tầm quan trọng của các yếu tố tiền tệ đã không được phản ánh trong các mô
hình toán học để phân tích ảnh hưởng của sự mất giá đối với cán cân thương mại.
Quan điểm tiền tệ sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong phần tiếp theo.
Một hướng khác của hiệu ứng tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại là đánh
giá tác động của biến động tỷ giá hối đoái lên thương mại bằng cách xem xét mức
độ xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nghiên cứu lý thuyết thường dự đoán rằng sự
gia tăng không chắc chắn của tỷ giá hối đoái sẽ dẫn đến một mức giao dịch thấp hơn
theo giả định các nhà đầu tư ngại rủi ro. Ví dụ, Clark (1973) chứng minh rằng sự
không chắc chắn tỷ giá hối đoái có thể có tác động tiêu cực đến thương mại trong
mô hình tĩnh đơn giản (simple static model). Mô hình cơ bản này được một số tác
giả xây dựng, ví dụ như Hooper và Kohlhagen (1978), Baldwin và cộng sự (2005),
cũng đi đến chung một kết luận về mối quan hệ tiêu cực giữa biến động tỷ giá hối
đoái và mức độ thương mại. Nghiên cứu gần đây về chủ đề này sử dụng mô hình
trọng lực (gravity model) tìm thấy một số bằng chứng về mối quan hệ tiêu cực đáng
kể giữa biến đổi tỷ giá hối đoái và thương mại (xem Frankel và Wei, 1993;
Deardorff, 1995; Dell'Ariccia, 1999; Rose và Engel, 2000; Tenreyro, 2003).
Một khía cạnh của mối quan hệ giữa thương mại và biến động tỷ giá hối đoái
cần được đề cập là vai trò của “chi phí chìm”. Một phần thương mại quốc tế gồm
các hàng hóa được sản xuất khác biệt, thường đòi hỏi đầu tư đáng kể bởi các doanh
nghiệp để đưa sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Chi phí chìm sẽ có xu
hướng làm cho doanh nghiệp ít phản ứng với các động thái ngắn hạn trong tỷ giá


15

hối đoái. Quyết định tham gia hoặc rút khỏi thị trường xuất khẩu liên quan đến việc
xem xét chi phí cố định và biến đổi(xem, McDonald và Siegel, 1986; Dixit, 1989;
Krugman, 1989). Sự biến động lớn hơn trong tỷ giá hối đoái, giá trị của việc giữ
quyền chọn (tham gia hoặc rút khỏi thị trường) càng lớn, và do đó, phạm vi tỷ giá

hối đoái lớn hơn,khi đó,doanh nghiệp vẫn ở trong thị trường xuất khẩu, hoặc đứng
ngoài nếu chưa tham gia vào. Điều này cho thấy sự gia tăng trong biến động tỷ giá
hối đoái sẽ làm tăng “sự chần chừ” trong các quyết định gia nhập hoặc rút khỏi thị
trường.
2.2.4. Góc nhìn tiền tệ của cán cân thương mại
Vai trò của tiền tệ và tín dụng hoàn toàn bị bỏ qua trong các phương pháp giá
tương đối (độ co giãn) và phương pháp tổng tiêu dùng (hấp thụ). Ngay cả Alexander
(1959) cũng có xu hướng bỏ qua vai trò của tiền tệ trong thảo luận của mình về chu
trình số nhân phát sinh từ sự thay đổi ban đầu trong cán cân thương mại. Về mặt
này, cần nhắc đến mô hình của Meade (1951) nhằm phân tích cán cân thanh toán;
với giả định “nền kinh tế trung lập”, mô hình của tác giả dung nạp các biến cung
tiền và lãi suất.Tiếp theo các nghiên cứu của Meade (1951), Polak (1957) và Lee và
Sampson (2000), khác với mô hình thông thường về ảnh hưởng của giá tương đối
đối với dòng chảy thương mại, các mô hình tiền tệ mới xem xét sự mất cân bằng
thương mại như một hiện tượng tiền tệ và giả định giá cả và tiền lương hoàn toàn
linh hoạt thay vì giá cố định trong mô hình Keynes. Trong các mô hình tiền tệ, thuật
ngữ “cán cân thanh toán”, thay vì “cân bằng thương mại”, thường được sử dụng để
nắm bắt chính xác thành phần tài khoản quốc tế của một quốc gia. Một loạt các mô
hình vĩ mô nền kinh tế mở (xem ví dụ Mundell, 1963; Calvo và Rodriguez, 1977;
Frenkel và Rodriguez, 1982) điều tra mối quan hệ giữa cán cân thanh toán và cung
tiền của một quốc gia. Các tác giả lập luận rằng có sự mất cân bằng trong thị trường
tiền tệ nếu có thặng dư hoặc thâm hụt trong cán cân thanh toán.
Cách tiếp cận tiền tệ, do đó phần lớn nhấn mạnh các tác động tiền tệ lên sự
mất cân bằng cán cân thanh toán. Sau sự gia tăng liên tục trong cung tiền, lãi suất
giảm dẫn đến sự gia tăng đầu tư và sau đó là sản lượng, sự gia tăng về mức giá, và


16

sự sụt giảm của tỷ giá hối đoái (định giá thấp). Nếu điều kiện Marshall-Lerner tồn

tại, tỷ giá định giá thấp sẽ dẫn đến sự cải thiện cán cân thương mại. Trong dài hạn,
tiền tệ là trung lập (neutrality). Do đó, theo thời gian, sản lượng, lãi suất, tỷ giá hối
đoái và cán cân thương mại dự kiến sẽ trở lại giá trị ban đầu (cân bằng dài hạn) và
mức giá dự kiến sẽ cao hơn. Bằng chứng gần đây của Eichenbaum và Evans (1995),
Strongin (1995), Christiano và cộng sự (1996) và Koray và McMillin (1999) cung
cấp các kết quả xác nhận các dự đoán từ các mô hình thông thường.Các nghiên cứu
được đề cập ở trên về các yếu tố quyết định quan trọng của cán cân thương mại
hoặc của tài khoản vãng lai được tóm tắt trong Bảng 2.1. Cũng có một số mô hình
không được đề cập đến chẳng hạn Frenkel và Razin (1986) minh họa tầm quan
trọng của sở thích của người tiêu dùng đối với tiêu dùng, điều này sẽ ảnh hưởng đến
cán cân thương mại. Kim (2001) xác định cầu tiền và suất sinh lợi trên tài sản là yếu
tố chính tạo ra cơ chế hình thái dòng chảy (specie-flow mechanism).Tầm quan trọng
của giá tài sản cũng được nhấn mạnh trong quá trình điều chỉnh của nền kinh tế mở
nhỏ.
Tóm lại, tỷ giá, thu nhập và các yếu tố tiền tệ được xác định là yếu tố quyết
định chính của cán cân thương mại trong các mô hình lý thuyết hiện tại. Các hướng
và mức ý nghĩa của mối quan hệ giữa cán cân thương mại và các yếu tố quyết định
được đánh giá trong các mô hình lý thuyết khác nhau. Cải thiện năng suất có xu
hướng tạo ra thặng dư thương mại khi quốc gia áp dụng chính sách thương mại định
hướng xuất khẩu. Đồng thời, tăng năng suất cũng sẽ ảnh hưởng đến thu nhập trong
nước và tiền lương lao động. Kết quả là, mức giá thay đổi trong khu vực thương
mại sẽ ảnh hưởng đến giá cả tương đối của hàng hóa trong và ngoài nước thông qua
hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá. Trong các mô hình tiền tệ, sự cân bằng được xem là
hiện tượng tiền tệ.Tuy nhiên, hầu hết các mô hình lý thuyết tập trung vào một yếu tố
duy nhất hoặc một khía cạnh của các yếu tố để giải thích hiện tượng mất cân bằng
thương mại, do đó, tác động của các yếu tố liên quan khác sẽ bị bỏ qua do các giả
định đặc trưng của mô hình. Do đó, thiết lập một khung phân tích liên kết, kết hợp



×