Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Tăng cường huy động vốn tín dụng nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển ở Việt Nam từ 2001-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.25 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
----------------

TRẦN PHẠM TRÁC

TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TÍN DỤNG
NHÀ NƯỚC CHO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ CHO ĐẦT TƯ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM
TỪ 2001-2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Năm 2000


CHƯƠNG I: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để trở thành một quốc gia công nghiệp vào năm 2020 và đáp ứng mục tiêu
kinh tế trước mắt là giá trò GDP năm 2010 tăng gấp đôi năm 2000, đòi hỏi Việt
Nam phải giữ vững nhòp độ tăng trưởng kinh tế cao. Muốn đạt được điều đó, chúng
ta phải huy động mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó huy động nguồn vốn TDNN
là một vấn đề quan trọng
Từ 01/04/1990, với việc Kho bạc Nhà nước chính thức đi vào hoạt động và từ
1993 các quốc gia và các đònh chế tài chính quốc tế nối lại viện trợ phát triển chính
thức cho Việt Nam. Công tác huy động vốn TDNN đã đạt được những thành tựu rất
đáng khích lệ như: từ năm 1992 đã chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu
hụt ngân sách, góp phần vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, gia tăng tiềm lực tài chính
quốc gia, ổn đònh tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Bên cạnh những kết quả đạt được,
hoạt động huy động vốn TDNN còn bộc lộ một số hạn chế như: tỷ lệ vốn trong
nước huy động thông qua phát hành TPCP còn rất thấp chỉ khoảng 2% GDP, việc


huy động vốn nước ngoài bằng phát hành trái phiếu ra thò trường vốn quốc tế vẫn
chưa được tổ chức thực hiện, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA
còn chưa cao, tốc độ giải ngân ODA còn chậm. Thực trạng này đặt ra vấn đề là cần
phải có được những giải pháp để tăng cường huy động vốn TDNN cho NSNN và
cho đầu tư phát triển.
Từ những lý do trên, tác giả luận án mạnh dạn chọn đề tài: ” Tăng cường
huy động vốn tín dụng nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển ở
Việt Nam từ 2001 – 2010 “

-1-


2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua cơ sở lý luận về TDNN và thực
trạng huy động vốn TDNN thời gian qua từ đó nêu ra các giải pháp tăng cường huy
động vốn TDNN cho NSNN và cho đầu tư phát triển trong giai đoạn 2001 – 2010.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả chỉ nghiên cứu về thực trạng huy động vốn ở Việt Nam thời gian qua
trên 3 lónh vực: huy động vốn trong nước bằng TPCP, huy động vốn nước ngoài
bằng phát hành TPCP ra thò trường vốn quốc tế và huy động nguồn vốn phát triển
chính thức ODA.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong luận án này là: phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp diễn dòch quy nạp, phương pháp tổng hợp, phương
pháp thống kê, . . .

Ngoài ra để nhằm làm tăng tính thuyết phục của luận án, tác giả luận
án còn sử dụng các kinh nghiệm từ các công trình trong và ngoài nước cũng
như các số liệu do các cơ quan và báo chí cung cấp.
5. Kết cấu nội dung

Nội dung của luận án ngoài phần mở đầu và kết luận, được thể hiện ở 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng nhà nước
Chương II: Thực trạng huy động vồn tín dụng nhà nước ở Việt Nam thời gian qua
Chương III: Những giải pháp tăng cường huy động vốn tín dụng nhà nước cho
NSNN và cho đầu tư phát triển trong giai đoạn 2001 – 2010

-2-


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
1. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
1.1 Bản chất của tín dụng nhà nước
Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế – xã
hội. Nó gắn liền với sự ra đời và phát triển của các quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Tín
dụng phản ánh các quan hệ vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc
hoàn trả, nó thể hiện ra bên ngoài như là sự vay mượn tạm thời một vật hay một số
vốn tiền tệ trong đó hai chủ thể người đi vay và cho vay sẽ thỏa thuận một thời hạn
nợ và mức lãi cụ thể. Nếu xét trên một nghóa rộng hơn tín dụng là sự vận động của
các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Mặt khác tín dụng còn thể hiện niềm tin
của người cho vay hướng về người đi vay sau một thời gian nhất đònh sẽ hoàn trả
vốn vay. Do vậy quan hệ tín dụng không chỉ là quan hệ kinh tế mà còn là quan hệ
xã hội. Như vậy có thể khái niệm tổng quát về tín dụng: Tín dụng là một quan hệ
vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một thời hạn nhất
đònh.
Trong thực tế hoạt động của tín dụng rất phong phú đa dạng như: tín dụng
nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, TDNN. Các quan hệ tín dụng có
sự khác nhau về tính chất, đặc điểm nhưng tất cả đều dựa trên nguyên tắc hoàn trả
cả vốn và lãi khi đến thời hạn đã thỏa thuận. Sự vận động mang tính chất hoàn trả
này của tín dụng là đặc trưng biểu hiện sự khác biệt giữa quan hệ tín dụng và các
mối quan hệ kinh tế khác.

TDNN là loại tín dụng gắn liền với nhà nước – một chủ thể trong quan hệ tín
dụng. TDNN ra đời rất sớm, nó gắn liền với sự ra đời của nhà nước. TDNN thể hiện
quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các chủ thể trong và ngoài nước bằng việc vay

-3-


nợ của chính phủ dưới các hình thức phát hành công trái, tín phiếu, trái phiếu kho
bạc, chứng chỉ đầu tư, ký kết hiệp đònh vay nợ với các chính phủ và các tổ chức tài
chính- tiền tệ theo nguyên tắc có thời hạn và có lãi.
Do TDNN cũng là một hình thức của phạm trù tín dụng nên nó cũng có những
đặc điểm cơ bản:
+ Quan hệ tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn tín dụng mà không thay
đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Vò trí của hai chủ thể trong quan hệ tín dụng về cơ
bản khác nhau: Người đi vay không phải là chủ sở hữu vốn vay mà chỉ là người có
quyền sử dụng tạm thời vốn vay đó vào mục đích của mình, còn người cho vay mới
là người sở hữu vốn vay đó.
+ Thời hạn tín dụng được xác đònh do thỏa thuận giữa người cho vay và
người đi vay, nghóa là sau một thời gian nhất đònh người đi vay phải hoàn trả vốn
vay và lãi vay. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm trù tín dụng với những phạm trù
kinh tế khác. Sự hoàn trả này nhằm thỏa mãn lợi ích cả hai chủ thể, người đi vay
được thỏa mãn lợi ích do quyền sử dụng vốn vay mang lại, còn người sở hữu vốn
(người cho vay) ngoài việc nhận lại vốn vay còn nhận được một phần thu nhập dưới
hình thức lợi tức (lãi vay) sau một thời gian nhất đònh.
Ngoài ra TDNN còn có những đặc trưng riêng của mình, những đặc trưng này
xuất phát từ quyền lực chính trò, chức năng nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội của
nhà nước, đó là:
+ TDNN là một hoạt động thuộc lãnh vực tài chính tiền tệ, gắn liền với hoạt
động của NSNN, nó thể hiện nhà nước vừa là người đi vay để đài thọ các khoản chi
của NSNN, vừa là người cho vay để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý kinh tế

– xã hội, phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước.

-4-


+ Khác với các loại tín dụng khác dựa trên cơ sở thỏa thuận, theo cơ chế thò
trường và mang tính lợi ích kinh tế, TDNN vừa mang tính lợi ích kinh tế vừa mang
tính tự nguyện, vừa mang tính cưỡng chế, tính chính trò xã hội. Tính cưỡng chế của
TDNN thể hiện bằng việc nhà nước qui đònh nghóa vụ đóng góp dưới các hình thức
huy động của TDNN đối với các đối tượng, các tầng lớp ở các mức độ huy động
khác nhau. Tính chính trò của TDNN thể hiện lòng tin của nhân dân vào nhà nước,
mối quan hệ chính trò, ngoại giao giữa hai chính phủ với nhau, thể hiện trách nhiệm,
sự quan tâm của chính phủ đối với nhân dân trong nước qua các hình thức cho vay
tài trợ lãi suất thấp, hoặc không lãi suất, cho vay xóa đói giảm nghèo, cho vay giải
quyết việc làm . . .
+ TDNN có phạm vi huy động vốn rộng, hình thức huy động đa dạng vì các
chủ thể tham gia trong quan hệ TDNN rất phong phú: chính quyền nhà nước trung
ương, đòa phương, các tổ chức kinh tế, tài chính, xã hội, dân cư trong và ngoài nước.
+ Việc huy động vốn và sử dụng vốn của TDNN thường có sự kết hợp giữa
các nguyên tắc tín dụng và các chính sách tài chính nhà nước. Với một chính sách
TDNN hợp lý, một chiến lược vốn gắn với yêu cầu sử dụng hợp lý và có hiệu quả
nguồn vốn sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Như vậy TDNN cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng – đó là quan
hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất
đònh – nhưng chủ thể trong mối quan hệ này là nhà nước đối với nhà nước khác
hoặc với tất cả đối tượng khác kể cả trong và ngoài nước.
1.2 Chức năng của TDNN
Do là một hình thức của phạm trù tín dụng nên TDNN có các chức năng sau:

-5-



a. Chức năng tập trung và phân phối lại các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội dựa trên nguyên tắc có hoàn trả
Tín dụng là sự vận động của vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ chủ thể này
sang chủ thể khác. TDNN phản ánh sự vận động vốn nhàn rỗi từ các đối tượng
trong và ngoài nước vào NSNN và thông qua NSNN thực hiện hoạt động cho vay
đối với các chủ thể khác. Nhờ vào TDNN, nhà nước có thể huy động mọi nguồn
vốn nhàn rỗi trong cũng như ngoài nước, nhận được một phần nguồn lực để thực
hiện đầu tư phát triển, đồng thời phân phối lại một phần nguồn lực của xã hội nhằm
thỏa mãn nhu cầu đầu tư phát triển hay tiêu dùng. Khác với việc phân phối các
khoản thu chi thường xuyên khác mang tính cấp phát của NSNN là phân phối không
hoàn lại, chức năng phân phối của TDNN là phân phối có hoàn lại. Nhà nước thực
hiện TDNN như là một biện pháp hỗ trợ tài chính của nhà nước cho các mục tiêu,
chương trình dự án được nhà nước phê duyệt, là một giải pháp cung cấp, hỗ trợ vốn
cho các chủ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư hoặc tiêu dùng của họ, tạo điều
kiện thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển, mở rộng và phát triển sản xuất, tạo
công ăn việc làm và thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác TDNN là biện pháp
để nhà nước tổ chức quản lý, sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước một cách có hiệu
quả nhất, từ đó là đòn bẩy kinh tế quan trọng để điều tiết tỉ lệ giữa tích lũy và tiêu
dùng.
b. Chức năng bù đắp thiếu hụt NSNN.
Đây là chức năng căn bản nhất của TDNN để phân biệt với các loại hình tín
dụng khác. Trong quá trình thực hiện NSNN thường phát sinh những khoản thâm
hụt, vì vậy nhà nước sử dụng chức năng phân phối lại các nguồn tài chính của
TDNN để bù đắp cho các khoản chi bằng cách huy động vốn qua hình thức phát

-6-



hành công trái, tín phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước (KBNN). Đây là biện pháp
quan trọng để nhà nước có vốn để đầu tư phát triển, thậm chí biện pháp này vẫn
được các quốc gia có tiềm năng kinh tế cao, NSNN bội thu áp dụng. Ban đầu
TDNN được áp dụng là để bù đắp thiếu hụt NSNN, các khoản chi thường xuyên cho
tiêu dùng chứ không tham gia vào chu trình tái sản xuất của nền kinh tế quốc dân.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và công tác quản lý kinh tế- xã hội của
nhà nước ngày càng nâng cao, việc bù đắp ở đây đã mang một ý nghóa tích cực hơn
đó là bù đắp cho các khoản chi cho đầu tư phát triển từ đó nhà nước có thể mở rộng
hơn nguồn lực tài chính tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách quản lý
điều hành vó mô nền kinh tế và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại.
c. Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế
Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, TDNN đã phản
ánh mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền nhàn rỗi
trong nền kinh tế, nhu cầu bù đắp thiếu hụt NSNN, nhu cầu cho vay đầu tư phát
triển kinh tế . . . Hơn thế nữa qua nghiệp vụ cho vay tài trợ, đầu tư vốn phát triển
kinh tế theo các chương trình mục tiêu nhà nước có thể nhận biết một cách tổng
quát cấu trúc, tình hình tài chính của các chủ thể nhận vốn từ đó có thể kiểm soát,
chấn chỉnh kòp thời những vi phạm. Mặt khác với chức năng tổ chức và quản lý toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, nhà nước sử dụng TDNN như một công cụ kiểm soát các
mặt hoạt động của nền kinh tế, các quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm xã
hội từ đó đảm bảo cho công tác đầu tư của TDNN đạt được hiệu quả cao.
2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
2.1 Huy động vốn trong nước bằng hình thức trái phiếu chính phủ (TPCP)
2.1.1 Đònh nghóa TPCP

-7-


Trái phiếu chính phủ là một loại chứng khoán, do Bộ Tài chính phát hành, có
thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghóa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người

sở hữu trái phiếu.
TPCP là một loại chứng khoán nợ có thể giao dòch trên thò trường chứng
khoán, xác nhận nghóa vụ trả nợ của Chính phủ khi đến hạn và được bảo đảm thanh
toán bằng NSNN. Đây chính là yếu tố khẳng đònh tính an toàn của TPCP.
2.1.2 Phân loại trái phiếu chính phủ
* Căn cứ vào mục đích huy động vốn, TPCP bao gồm:
+ Tín phiếu kho bạc: Là loại TPCP có thời hạn dưới 1 năm, phát hành với
mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN và tạo thêm công cụ cho thò trường
tiền tệ.
+ Trái phiếu kho bạc: Là loại TPCP có thời hạn từ 1 năm trở lên được phát
hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch NSNN đã được Quốc hội phê duyệt.
+ Trái phiếu đầu tư: Là loại TPCP có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm
các loại sau:
- Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện NSNN
đầu tư, nằm trong kế hoạch đầu tư đã được chính phủ phê duyệt nhưng chưa được
ngân sách bố trí vốn trong năm kế hoạch;
- Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín
dụng đầu tư phát triển hàng năm được chính phủ phê duyệt.
* Căn cứ vào theo thời hạn trái phiếu:
+ Trái phiếu có thời hạn: là loại có qui đònh thời hạn cụ thể, 1 năm, 2 năm,
3 năm, 5 năm, 10 năm, . . .

-8-


+ Trái phiếu vónh viễn: là loại không có qui đònh thời hạn phải thanh toán
mà chỉ hứa hẹn hoàn trả một số tiền cố đònh hàng năm và có thời hạn, loại trái
phiếu này mang tính nghóa vụ đóng góp hơn là lợi ích kinh tế của người mua trái
phiếu.
* Căn cứ vào phạm vi phát hành:

+ Trái phiếu quốc nội: là trái phiếu phát hành trong nước do chính quyền
trung ương hay đòa phương phát hành để huy động trong nước.
+ Trái phiếu quốc tế: là chứng chỉ nhận nợ do chính phủ phát hành ra nước
ngoài để huy động vốn.
* Căn cứ vào hình thức phát hành:
+ Trái phiếu ký danh: là loại trái phiếu có ghi tên người mua trên trái
phiếu.
+ Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên ngưới mua trên trái
phiếu, loại trái phiếu này thường được chuyễn nhượng tự do trên thò trường.
* Căn cứ vào mức thu nhập:
+ Trái phiếu có lãi suất cố đònh: là loại trái phiếu ấn đònh mức lãi suất cố
đònh ghi trên phiếu trong suốt thời hạn của trái phiếu.
+ Trái phiếu có lãi suất không cố đònh hoặc lãi suất theo chỉ số: là loại trái
phiếu mà lãi suất được nhà nước điều chỉnh hàng năm theo sự biến động giá cả và
lãi suất trên thò trường tiền tệ nhằm bảo đảm lợi ích người sở hữu trái phiếu trong
điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động.
* Căn cứ vào giá phát hành:
+ Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu có giá phát hành thấp hơn mệnh
giá và khi đến hạn được thanh toán một khoản tiền đúng bằng mệnh giá trái phiếu.

-9-


+ Trái phiếu ngang mệnh giá: là loại trái phiếu có giá phát hành bằng đúng
mệnh giá.
2.1.3 Nguyên tắc huy động TPCP
- Khối lượng vốn huy động hằng năm phải nằm trong dự toán NSNN được
Quốc hội phê duyệt, nhằm vào mục đích bù đắp thiếu hụt NSNN và bổ sung nguồn
vốn đầu tư phát triển kinh tế. Đảm bảo tính cân đối của NSNN trong năm kế hoạch
và nguồn để thanh toán trái phiếu trong các năm tài chính tiếp theo.

- Nguồn vốn huy động phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và
có hiệu quả, điều này có ý nghóa rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, đảm bảo lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia và sự quản lý có hiệu quả
nền kinh tế của nhà nước.
- NSNN phải đảm bảo thanh toán kòp thời, đầy đủ khi TPCP đến hạn (cả gốc
và lãi).
2.1.4 Phương thức phát hành TPCP
Việc phát hành TPCP trong nền kinh tế thò trường được tiến hành thông qua
các phương thức chủ yếu sau:
_ Phương thức đấu thầu: Đây là phương thức được áp dụng khá phổ biến trên
thế giới, và là phương thức tiêu thụ của thò trường sơ cấp. Người đấu thầu phải thỏa
mãn các qui đònh của Bộ Tài chính, cơ quan đứng ra tổ chức đấu thầu và khi trúng
thầu phải nộp tiền vào kho bạc để nhận trái phiếu tiêu thụ. Mức lãi suất trúng thầu
theo phương thức này là mức lãi suất đặt thầu thấp nhất. Phương thức này giúp
TPCP tiêu thụ nhanh, chi phí phát hành giảm và nhà nước sớm thu được tiền. Việc
tổ chức đấu thầu diễn ra tại Sở Giao dòch Chứng khoán đối với TPCP có thời hạn từ
1 năm trở lên và tại Ngân hàng Nhà nước đối với tín phiếu kho bạc có thời hạn dưới

- 10 -


1 năm. TPCP đấu thầu qua thò trường giao dòch chứng khoán tập trung được bán
theo các hình thức: chiết khấu, bằng mệnh giá, cao hơn mệnh giá hoặc thấp hơn
mệnh giá dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ.
_ Phương thức bảo lãnh phát hành: là việc tổ chức bảo lãnh giúp Bộ Tài
chính thực hiện các thủ tục trước khi phát hành TPCP ra thò trường, nhận mua TPCP
để bán lại hoặc mua số TPCP còn lại chưa được phân phối hết. Phương thức này
giúp đảm bảo phân phối hết số TPCP dự kiến phát hành, ngoài ra nó còn có mục
đích là đảm bảo các điều kiện kỹ thuật để niêm yết. Chủ thể bảo lãnh phát hành có
thể là các công ty chứng khoán, công ty tài chính, các tổ chức ngân hàng hoạt động

theo Luật Các tổ chức tín dụng được Bộ Tài chính công nhận là thành viên tham gia
bảo lãnh. Việc bảo lãnh có thể duy nhất một tổ chức đứng ra bảo lãnh hoặc tổ hợp
bảo lãnh phát hành (là một nhóm các tổ chức bảo lãnh). TPCP phát hành theo
phương thức này dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghisổ.
_ Phương pháp đại lý phát hành: là việc các tổ chức được phép làm đại lý
phát hành TPCP thỏa thuận với Bộ Tài chính nhận bán TPCP. Trường hợp không
bán hết, tổ chức đại lý được trả lại cho Bộ Tài chính số trái phiếu còn lại. Về mặt
kỹ thuật phương thức này gần giống như phương thức bán lẻ qua kho bạc, tuy nhiên
TPCP được bán thông qua các tổ chức đại lý được hưởng hoa hồng như: công ty
chứng khoán, các công ty tài chính, các ngân hàng thương mại.
_ Phương thức bán lẻ qua hệ thống kho bạc (phát hành trực tiếp): là việc
các đơn vò Kho bạc Nhà nước bán TPCP trực tiếp cho người mua theo phương thức
chiết khấu hoặc ngang mệnh giá.
2.1.5 Lãi suất và phương thức thanh toán TPCP
a. Lãi suất TPCP

- 11 -


Lãi suất TPCP do Bộ Tài chính công bố cho từng đợt phát hành theo một
trong các phương thức sau:
- Lãi suất cố đònh áp dụng cho cả kỳ hạn trái phiếu;
- Lãi suất linh hoạt, phụ thuộc vào sự biến động của thò trường vốn. Mức lãi
suất chính thức được công bố theo từng thời gian hoặc vào các thời điểm đến hạn
thanh toán lãi trái phiếu.
- Lãi suất chỉ đạo để tổ chức đấu thầu chọn lãi suất phát hành: Là mức lãi
suất tối đa mà đơn vò tham gia đấu thầu có thể trúng thầu. Tùy tình hình thò trường,
Bộ Tài chính có thể qui đònh hoặc không quy đònh mức lãi suất chỉ đạo chọn lãi suất
phát hành.
b. Căn cứ xác đònh lãi suất TPCP:

- Chỉ số biến động giá bình quân trên thò trường do Tổng cục Thống kê công
bố.
- Lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng.
- Thời hạn trái phiếu.
- Nhu cầu huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư.
- Khả năng cung ứng vốn của thò trường trong từng thời kỳ.
c. Phương thức thanh toán TPCP
Bộ Tài chính quy đònh cụ thể cách thức thanh toán tiền gốc, lãi của TPCP:
- Tiền gốc trái phiếu được thanh toán một lần khi đến hạn, và tiền lãi được
thanh toán như sau:
+ Thanh toán một lần khi đến hạn cùng với tiền gốc trái phiếu.
+ Thanh toán theo đònh kỳ 6, 12 tháng.
+ Thanh toán ngay khi phát hành.

- 12 -


2.1.6 Giá bán trái phiếu và số tiền được thanh toán khi đến hạn
a. Đối với trái phiếu kho bạc trong phương thức đấu thầu
a.1 Bán trái phiếu theo hình thức chiết khấu:
- Giá bán được xác đònh theo công thức sau:
MG
G = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
(1+ Ls)n
Trong đó:
G: Giá bán trái phiếu.
MG: Mệnh giá trái phiếu.
Ls: Lãi suất trái phiếu trúng thầu (%/năm)
n: Kỳ hạn trái phiếu (năm)
- Khi đến hạn được thanh toán bằng mệnh giá trái phiếu.

a.2 Bán trái phiếu theo hình thức ngang mệnh giá
a.2.1 Đối với trái phiếu thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn:
- Giá bán trái phiếu bằng 100% mệnh giá.
- Số tiền thanh toán trái phiếu khi đến hạn được tính theo công thức:
T= MG x (1+ Ls)n
Trong đó:
T: Tổng số tiền (gốc, lãi) được thanh toán.
MG: Mệnh giá trái phiếu.
Ls: Lãi suất trái phiếu trúng thầu (%/năm).
n: Kỳ hạn trái phiếu (năm).
a.2.2 Đối với trái phiếu thanh toán lãi đònh kỳ
- Giá bán trái phiếu bằng 100% mệnh giá.

- 13 -


- Tiền lãi đònh kỳ được tính theo công thức sau:
Ls
L = MG x ⎯⎯⎯
k
Trong đó:
L: Số tiền lãi thanh toán đònh kỳ.
MG: Mệnh giá trái phiếu.
Ls: Lãi suất trúng thầu (%/ năm).
k: Số lần thanh toán lãi trong năm.
- Khi đến hạn, người sở hữu trái phiếu nhận số tiền gốc bằng mệnh giá
trái phiếu và số tiền lãi của kỳ lãnh lãi cuối cùng.
a.3 Bán theo hình thức cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá.
a.3.1 Bộ Tài chính quy đònh lãi suất thanh toán đònh kỳ; đồng thời thông
qua đấu thầu xác đònh lãi suất phát hành và giá bán trái phiếu

- Nếu lãi suất phát hành cao hơn lãi suất do Bộ Tài chính quy đònh: giá
bán trái phiếu sẽ thấp hơn mệnh giá trái phiếu.
- Nếu lãi suất phát hành thấp hơn lãi suất do Bộ Tài chính quy đònh: giá
bán trái phiếu sẽ cao hơn mệnh giá trái phiếu.
a.3.2 Giá bán trái phiếu được xác đònh theo công thức sau:
L

L

L

MG

G = ⎯⎯⎯⎯ + ⎯⎯⎯⎯ +. . .+ ⎯⎯⎯⎯ + ⎯⎯⎯⎯
Ls

Ls

(1+ ⎯)1
k

(1+ ⎯ )2
k

Ls
(1+ ⎯ )t
k

Ls
(1+ ⎯ )t

k

Ls
Đặt r = ⎯ công thức tính giá bán trái phiếu được rút gọn như sau:
k

- 14 -


1
L x [1- ⎯⎯⎯ ]
(1+ r)t
MG
G = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ + ⎯⎯⎯
r
(1+r)t
Trong đó:
G: Giá bán trái phiếu
L: Số tiền lãi thanh toán đònh kỳ
MG: Mệnh giá trái phiếu
Ls: Lãi suất trúng thầu (%/năm)
k: Số lần thanh toán lãi trong năm
t: Số kỳ trả lãi trong cả kỳ hạn trái phiếu
a.3.3 Số tiền lãi thanh toán đònh kỳ được tính theo công thức sau:
Lt
L = MG x ⎯⎯
k
Trong đó:
L: Số tiền lãi thanh toán đònh kỳ
MG: Mệnh giá trái phiếu

Lt: Lãi suất thanh toán đònh kỳ (%/ năm)
k: Số lần thanh toán lãi trong năm
a.3.4 Khi đến hạn, người sở hữu trái phiếu được thanh toán số tiền gốc
bằng mệnh giá trái phiếu và số tiền lãi của kỳ lãnh lãi cuối cùng.
b. Đối với trái phiếu kho bạc phát hành qua đại lý và bảo lãnh phát hành
Giá bán trái phiếu và số tiền thanh toán khi đến hạn, công thức tính cũng
giống như phương thức đấu thầu gồm bán theo hình thức chiết khấu và hình thức

- 15 -


ngang mệnh giá duy chỉ có lãi suất trúng thầu (Ls) được thay bằng lãi suất do Bộ
Tài chính quy đònh.
c. Đối với trái phiếu kho bạc phát hành theo phương thức bán lẻ
c.1 Bán trái phiếu theo hình thức ngang mệnh giá
Áp dụng trong trường hợp trái phiếu phát hành liên tục trong năm hoặc
từng đợt kéo dài, không xác đònh trước thời điểm dừng phát hành.
Giá bán trái phiếu đúng bằng mệnh giá trái phiếu và số tiền thanh toán khi
đến hạn là lãi và gốc.
c.2 Bán trái phiếu theo hình thức chiết khấu
- Áp dụng cho trường hợp trái phiếu được phát hành từng đợt, thời gian
phát hành mỗi đợt không quá 2 tháng, có xác đònh trước thời điểm phát hành và
thời điểm kết thúc.
- Các trái phiếu trong đợt có cùng ngày phát hành và ngày đến hạn thanh
toán.
- Giá bán trái phiếu là số tiền người mua phải nộp cho Kho bạc Nhà nước
và được xác đònh theo một trong hai phương pháp sau:
+ Phương pháp 1: Ngày phát hành được xác đònh là ngày đầu tiên của đợt
phát hành. Công thức tính giá bán trái phiếu như sau:
(MG x Ls x n)

G= MG + ⎯⎯⎯⎯⎯⎯
365
Trong đó:
G: Giá bán trái phiếu
MG: Mệnh giá trái phiếu

- 16 -


Ls: Lãi suất trái phiếu (%/năm)
n: Số ngày tính từ ngày phát hành đến ngày mua thực tế
+ Phương pháp 2: Ngày phát hành được xác đònh là ngày cuối cùng của
đợt phát hành trái phiếu. Công thức tính giá bán trái phiếu như sau:
(MG x Ls x n)
G= MG - ⎯⎯⎯⎯⎯⎯
365
Trong đó:
G: Giá bán trái phiếu
MG: Mệnh giá trái phiếu
Ls: Lãi suất trái phiếu (%/năm)
n: Số ngày tính từ ngày mua thực tế đến ngày phát hành
d. Đối với tín phiếu kho bạc (thời hạn dưới 1 năm) đấu thầu qua ngân hàng
d.1 Bán tín phiếu theo hình thức ngang mệnh giá
- Giá bán tín phiếu bằng 100% mệnh giá.
-Số tiền thanh toán tín phiếu khi đến hạn được tính theo công thức sau:
n
T= G + (G x Ls x ⎯⎯)
365
Trong đó:
T: Tổng số tiền (gốc + lãi) tín phiếu kho bạc được thanh toán khi đến hạn

G: Giá bán tín phiếu kho bạc
Ls: Lãi suất tín phiếu kho bạc trúng thầu (tính theo tỷ lệ %/365 ngày)
n: Số ngày trong thời hạn tín phiếu

- 17 -


d.2 Bán tín phiếu theo hình thức chiết khấu
- Giá bán tín phiếu kho bạc được tính theo công thức sau:
MG
G = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
Ls x n
1 + ⎯⎯⎯⎯⎯
365 x 100
Trong đó:
G: Giá bán tín phiếu kho bạc
MG: Mệnh giá tín phiếu kho bạc
Ls: Lãi suất tín phiếu kho bạc trúng thầu (tính theo tỷ lệ %/365ngày)
n: Số ngày trong thời hạn tín phiếu
- Khi đến hạn được thanh toán bằng mệnh giá tín phiếu
2.2 Huy động vốn nước ngoài bằng trái phiếu quốc tế
2.2.1 Khái quát về trái phiếu quốc tế
Trái phiếu quốc tế là chứng chỉ vay nợ có mệnh giá, có thời hạn, có lãi, phát
hành để vay vốn trên thò trường quốc tế phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển.
Trái phiếu quốc tế bao gồm 3 loại:
- Trái phiếu chính phủ.
- Trái phiếu ngân hàng thương mại quốc doanh (trái phiếu ngân hàng).
- Trái phiếu doanh nghiệp nhà nước.
Trái phiếu chính phủ là một loại chứng khoán có thể chuyển đổi được, người
sở hữu có thể bán nó bất kỳ lúc nào. Việc huy động vốn theo phương thức này cũng

là khoản vay nước ngoài, chính phủ phải có nhiệm vụ hoàn trả cả gốc và lãi khi đến
hạn.

- 18 -


Nguồn vốn vay từ việc phát hành trái phiếu quốc tế của chính phủ được sử
dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch NSNN đã được phê duyệt, hoặc cho các
doanh nghiệp nhà nước vay lại để đầu tư vào các dự án được duyệt theo phương
thức có hoàn trả.
Nguồn vốn thanh toán trái phiếu Chính phủ (bao gồm cả tiền gốc, lãi) do
NSNN bảo đảm và vốn thu hồi của các doanh nghiệp.
2.2.2 Ưu điểm của việc phát hành TPCP ra thò trường vốn quốc tế
Việc huy động vốn bằng trái phiếu quốc tế có các ưu điểm sau:
- Chi phí thấp hơn vay thương mại nước ngoài.
- Xác lập được mối quan hệ trực tiếp giữa Việt Nam (người đi vay) và các
nhà đầu tư quốc tế, trên cơ sở đó mở rộng quan hệ và nâng cao uy tín Việt Nam
trên thò trường vốn quốc tế đồng thời tạo ra một kênh mới trong huy động vốn cho
đầu tư phát triển.
- Người phát hành được độc lập về tài chính, chủ động hơn trong việc phát
hành, sử dụng vốn vay mà không bò lệ thuộc vào các điều kiện và sự kiểm soát của
người cho vay.
- Có sự linh hoạt hơn đối với các nhà đầu tư do trái phiếu có thể kinh doanh,
mua bán trên thò trường thứ cấp, ít rủi ro . . . hạn chế ảnh hưởng của các ngân hàng
thương mại nước ngoài do vay thương mại có tỷ lệ rủi ro cao và khó mua bán,
chuyển nhượng trên thò trường.
2.3 Huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA
2.3.1 Khái niệm, đặc điểm, và phân loại ODA
• Khái niệm ODA


- 19 -


Đây là việc vay nợ nước ngoài của chính phủ thông qua việc ký kết hiệp đònh
vay nợ với các chính phủ và các tổ chức tài chính – tiền tệ trên thế giới, được thực
hiện dưới hình thức viện trợ phát triển chính thức ODA.
ODA là viện trợ không hoàn lại hoặc cho là vay ưu đãi của các tổ chức nước
ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại chiếm vào khoảng 25% giá trò của khoản
vốn.
• Đặc điểm ODA
- Do chính phủ của các nước hoặc các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cấp
cho một nước.
- Không cấp cho những chương trình, dự án mang tính chất thương mại, mà
chỉ nhằm mục đích nhân đạo, nâng cao lợi ích kinh tế – xã hội của nước nhận viện
trợ.
• Phân loại ODA
Tùy vào tiêu thức phân loại, ODA có thể phân loại như sau:
a. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
a.1 Viện trợ không hoàn lại: nước nhận viện trợ không phải hoàn lại khoản
viện trợ để thực hiện các dự án theo sự thỏa thuận trước giữa các bên, nó bao gồm:
hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ chung hay viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
a.2 Viện trợ có hoàn lại ( tín dụng ưu đãi ): chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn
vốn ODA và thường được sử dụng để ưu tiên đầu tư cho các chương trình quốc gia,
đặc biệt là các dự án và chương trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, từ đó làm nền cho ổn đònh và tăng trưởng kinh tế. Những điều kiện ưu đãi
bao gồm: lãi suất thấp, thời hạn vay nợ dài, có thời gian không trả lãi hoặc hoãn trả
nợ (còn gọi là thời gian ân hạn).

- 20 -



a.3 ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA được cho vay kết hợp với
nhau như 3 loại hình không hoàn lại, hoàn lại, và tín dụng thương mại kết hợp trong
một khoản vay.
b. Căn cứ vào nguồn cung cấp
b.1 ODA đa phương: Là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc
tế ( Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB). . .) hay tổ chức khu vực (OPEC, EU,. . .) hoặc của chính phủ một
nước dành cho một nước nào đó nhưng được thực hiện thông qua các tổ chức đa
phương như: Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng Liên
Hiệp Quốc (UNICEF), . . .
b.2 ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến
nước kia thông qua hiệp đònh được ký kết giữa hai chính phủ và khoản viện trợ này
thường có những ràng buộc về điều kiện cho vay.
c. Căn cứ vào mục tiêu sử dụng
c.1 ODA hỗ trợ cán cân thanh toán: là các khoản ODA hỗ trợ ngân sách
của chính phủ nhận viện trợ, được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao tiền
tệ trực tiếp cho nước nhận, hỗ trợ nhập khẩu (chính phủ tiếp nhận một lượng hàng
hóa tương đương với khoản viện trợ , bán cho thò trường nội đòa để thu nội tệ).
c.2 ODA tín dụng thương mại: tương tự viện trợ hàng hóa nhưng kèm theo
các điều kiện ràng buộc.
c.3 ODA viện trợ chương trình: là khoản viện trợ không xác đònh chính xác
mục đích sử dụng.

- 21 -


c.4 ODA viện trợ theo dự án: là khoản viện trợ đòi hỏi phải có dự án cụ
thể, chi tiết về các hạng mục sử dụng ODA, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn
thực hiện ODA, có 2 loại là: viện trợ cơ bản và viên trợ kỹ thuật.
2.3.2 Tác dụng của ODA

• Mặt ưu điểm
- ODA mang lại nguồn lực cho đất nước thông qua những tác động tích cực
của nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội như: đáp ứng những nhu cầu cấp bách
về cân đối NSNN, cán cân xuất nhập khẩu, thanh toán các khoản nợ đến hạn, có
nguồn vốn để đầu tư cho phát triển.
- ODA là nguồn vốn quan trọng giúp các quốc gia lâm vào khủng hoảng có
thể phục hồi giá trò đồng nội tệ, điển hình gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ tại các nước Châu Á năm 1997.
- Đối với những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, ODA giúp nước nhận viện trợ
có điều kiện tốt hơn để xây dựng những công trình đòi hỏi vốn lớn, mức sinh lời
thấp nhưng lại là những dự án mang lại lợi ích kinh tế - xã hội lớn.
- Thông qua hỗ trợ kỹ thuật nước nhận viện trợ có thể tiếp cận những thành
tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
- Lượng vốn ODA nhận được càng cao càng chứng tỏ độ tin cậy của cộng
đồng quốc tế đối với quốc gia tiếp nhận viện trợ.
- ODA giúp các quốc gia tiếp nhận có thể cải cách thủ tục hành chính kinh tế
thông qua các chương trình viện trợ dự án, làm cho cơ chế quản lý kinh tế của
những nước này tiến tới tiếp cận những chuẩn mực quốc tế.
- Thông qua hỗ trợ tri thức, ODA giúp các quốc gia tiếp nhận đào tạo cán bộ
khoa học kỹ thuật trong nhiều lãnh vực.

- 22 -


• Mặt hạn chế
- Hạn chế cơ bản nhất của ODA, là quốc gia tiếp nhận phải đáp ứng các yêu
cầu của bên cung cấp, mức độ đáp ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều,
các ràng buộc có thể như: chính trò, kinh tế –xã hội, . . .
- Việc ODA tập trung vào các thành phố trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân
đối trong cơ cấu kinh tế – xã hội của quốc gia đó, có thể tạo ra hố ngăn cách giữa

thành thò và nông thôn.
3. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
3.1 Hoạt động TDNN ở Mỹ
Trong những năm vừa qua mối quan tâm lớn của người Mỹ là sự thâm hụt khổng
lồ của NSNN. Mức thâm hụt ngân sách của chính phủ liên bang năm 1991 lên tới
269 tỷ USD, đưa số nợ quốc gia và số thâm hụt tồn đọng lên đến trên 3.000 tỷ USD.
Để trang trải các khoản thâm hụt ngân sách, chính phủ Mỹ đã vận dụng tối đa
TDNN. Do áp dụng chính sách lãi suất cao, TPCP Mỹ có sức hấp dẫn mạnh đối với
các nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước. Do phải vay của nước ngoài nhiều, vào
năm 1985 lần đầu tiên Mỹ đã trở thành một con nợ.
Thò trường trái phiếu kho bạc Mỹ là một thò trường rộng lớn nhất và biến động
nhất trên thế giới, nó có lượng lưu thông trung bình hàng ngày khoảng 100 tỷ USD.
Ba nguồn huy động vốn ở Mỹ, cũng đồng thời là các yếu tố gia tăng nợ của nhà
nước Mỹ, gồm: nguồn vốn khu vực tư nhân bên ngoài hệ thống ngân hàng, thu hút
vốn ngân hàng, vốn của các nhà đầu tư ở nước ngoài. Mỹ là quốc gia có tốc độ và
qui mô phát hành trái phiếu kho bạc lớn, tổng giá trò các chứng khoán được giao

- 23 -


dòch trên thò trường vào năm 1986 là 2.100 tỷ USD, đến năm 1990 con số này tăng
lên gần 1,5 lần đạt khoảng 3.200 tỷ USD.
Ở Mỹ người ta sử dụng rất đa dạng các công cụ tài chính để huy động các nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội. Kho bạc là chủ thể phát hành chính các chứng khoán vay
nợ dài hạn ở Mỹ. Chứng khoán do kho bạc phát hành có 2 loại: loại có tính chất thò
trường (được phép giao dòch trên thò trường) và loại không có tính chất thò trường
(không được phép giao dòch mua bán). Bên cạnh chứng khoán do kho bạc liên bang
phát hành, còn có rất nhiều chứng khoán do chính quyền các bang, các tổ chức xã
hội được sự bảo lãnh của chính phủ liên bang phát hành. Trong tổng số các chứng

khoán nhà nước lưu thông trên thò trường, các chứng khoán có tính chất thò trường
chiếm tỷ trọng lớn (vào năm 1990 là 65,18% trong đó trái phiếu kho bạc là 37,94%;
tín phiếu kho bạc là 15,03%; các trái phiếu khác của chính phủ là 11,75%). Các
chứng khoán nhà nước phát hành có thời hạn dưới 1 năm hoặc từ 1 năm đến 5 năm
chiếm tỷ trọng cao nhất trên thò trường, kế đó là từ 5 năm đến 10 năm, loại từ 10
năm đến 20 năm chiếm tỷ trọng thấp do không có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư. Ở thời điểm 1990 các tỷ trọng này lần lượt là 34%, 34,21%, 14,53%, 4,4%.
Tín phiếu kho bạc ở Mỹ có thời hạn phát hành là 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, phát
hành thông qua phương thức đấu giá hàng tuần được tổ chức vào thứ hai và được
thanh toán vào thứ năm. Loại tín phiếu kho bạc thời hạn 12 tháng được phát hành
mỗi tháng một lần. Ngoài ra, để đảm bảo các khoản tiền mặt đáp ứng nhu cầu chi
của ngân sách liên bang, kho bạc thường phát hành loại tín phiếu có thời hạn từ 20
đến 23 tuần vào đầu tháng, thời điểm mức thu ngân sách thấp, và hoàn trả vào giữa
tháng, thời điểm có mức thu ngân sách cao.

- 24 -


×