Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bình luận quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm về tạm giam và hoàn thiện quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.56 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ BÀI....................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG.................................................................................................. 1
I. Khái quát chung về biện pháp tạm giam.....................................................1
1. Khái niệm BPNC tạm giam.....................................................................1
2. Vai trò, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm giam..........................2
II. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp tạm giam..3
1. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam......................................................3
2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam.............................................4
3. Thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp tạm giam..................................6
4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam........................................6
5. Thời hạn tạm giam..................................................................................7
6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam..............................10
III. Hạn chế, bất cập trong việc áp dụng biện pháp tạm giam......................11
1. Về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam.....................................................11
2. Về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam.......................................13
3. Về thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam.............................................13
IV. Đề xuất hoàn thiện quy định về tạm giam..............................................13
C. KẾT LUẬN................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................17


A. MỞ BÀI
Biện pháp ngăn chặn( BPNC) là một chế định pháp lí quan trọng trong bộ luật
tố tụng hình sự ( BLTTHS) Việt Nam. Việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng lớn đến
việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của TTHS cũng như kết quả của đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung. Trong hệ thống các BPNC, tạm giam là biện pháp quan
trọng và nghiêm khắc nhất.BLTTHS đã có những quy định cụ thể về các yếu tố của
biện pháp tạm giam. Trong phạm vi bài viết này, em xin trình bày đề bài 08 : “Quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tạm giam và hoàn thiện quy định
này” để làm phân tích làm rõ vấn đề này.



B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về biện pháp tạm giam
1. Khái niệm BPNC tạm giam
Theo quy định của BLTTHS, hệ thống các BPNC trong TTHS bao gồm 6 biện
pháp: bắt, tạm giam, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm. Trong số các BPNC nêu trên, BPNC tạm giam là BPNC mang tính
nghiêm khắc nhất. Các biện pháp khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và
lợi ích về tài sản mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp. Còn các biện pháp bắt,
tạm giữ cũng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, cũng hạn chế quyền tự do của
công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều
so với tạm giam.
Xung quanh khái niệm về biện pháp tạm giam hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau, mỗi quan điểm nhìn nhận tạm giam dưới một góc độ khác nhau nhất định,
1


nhưng căn cứ vào Điều 88 BLTTHS 2003 đưa ra khái niệm về biện pháp tạm giam: “
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội”. Thực tế việc tạm giam làm hạn chế đi một số quyền công dân của
người bị tạm giam, nhưng không phải là bị Luật pháp tước bỏ hết các quyền công dân
của người bị tạm giam mà chỉ bị tước bỏ một số quyền theo luật định trong một thời
gian nhất định do các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành theo luật định.
2. Vai trò, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm giam

Với ý nghĩa là một BPNC, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh,
phòng và chống các loại tội phạm cũng như việc bảo đảm quyền tự do dân chủ của
công dân. Cụ thể:
- Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước, củng cố, tăng cường
pháp chế XHCN, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh khám phá tội phạm, đảm bảo không bỏ lọt
tội phạm và làm oan người vô tội.
- Tạm giam là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất.
- Tạm giam tạo cơ sở pháp lí vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền
cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
- Tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước. Đó là biện pháp bảo đảm cho
mọi công dân được sống trong một xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi

2


người được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối
tượng nhất định.
II. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp tạm giam
1. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam được hiểu là những căn cứ luật định theo đó
chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam. BLTTHS 2003 không trực tiếp quy
định các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng BPNC
nói chung. Điều 79 quy định 4 căn cứ áp dụng BPNC gồm: Để kịp thời ngăn chặn tội
phạm; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội sẽ tiếp tục phạm tội;
Để bảo đảm thi hành án.
Trong số các căn cứ áp dụng BPNC trên, căn cứ “ để kịp thời ngăn chặn tội
phạm” chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo điểm a

khoản 1 Điều 81 nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để xảy ra hoặc
không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây ra hậu quả nghiêm
trọng cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng BPNC tạm giam, vì đối
tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã dược
thực hiện trong quá khứ. Như vậy, căn cứ áp dụng BPNC tạm giam sẽ có:
Căn cứ thứ nhất: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Hành vi này được thể hiện qua việc sau khi thực
hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu huỷ, làm giả, thay
đổi chứng cứ, xoá các dấu vết của vụ án,... dẫn đến việc gây khó khăn cho các cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc xác định và làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ thứ hai: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Căn cứ này có thể được thực hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị
3


can, bị cáo. Họ có thể là những phần tử xấu tái phạm,tái phạm nguy hiểm, tội phạm có
tính chất chuyên nghiệp hoặc đe doạ người làm chứng, người bị hại và sự đe doạ đó
có khả năng trở thành hiện thực.
Căn cứ thứ ba: Để bảo đảm thi hành án. Khi cần bảo đảm thi hành án, tuỳ
theo tính chất của từng vụ vụ án, tuỳ theo nhân thân người bị kết án, Toà án có thể áp
dụng BPNC tạm giam đối với bị cáo để bảo đảm thi hành án, còn nếu không có đủ căn
cứ cho rằng bị cáo sẽ bỏ trốn, không gây cản trở, khó khăn cho việc thi hành án thì
không cần áp dụng biện pháp tạm giam mà chỉ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
ít nghiêm khắc hơn như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm
bảo cũng đủ để đảm bảo cho việc chấp hành án của người bị kết án.
2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam
Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS, đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm
giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự
( khoản 1 Điều 49 ), tức là những người đã có quyết định khởi tố bị can về một tội
phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự. Còn bị cáo là những người đã bị Tòa án quyết định

đưa ra xét xử ( khoản 1 Điều 50 ). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị
áp dụng BPNC tạm giam mà theo khoản 1 Điều 88, chỉ áp dụng biện pháp này với họ
trong 2 trường hợp sau:
Trường hợp 1:“Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng” : Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là đến 15 năm tù 1. Nếu bị can, bị
cáo thuộc những trường hợp này, những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể
ra lệnh tạm giam ngay mà không cần thêm căn cứ nào khác.
1

khoản 3 Điều 8 BLHS 1999
4


Trường hợp 2: “ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc gây cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội gây nguy hại
không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là đến 3 năm
tù2. Theo quy định của BLTTHS, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo
phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm. Trong trường
hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình
phạt tù trên 2 năm, để tạm giam, họ cần có thêm điều kiện thứ hai là có căn cứ cho
rằng người đó có thể trốn hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có
thể tiếp tục phạm tội. Để xác định được điều kiện trên, phải căn cứ vào nhân thân bị
can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can,
bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc.

Thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy
định những trường hợp không áp dụng BPNC tạm giam gồm: bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi và có nới cư trú rõ ràng; bị can, bị
cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng.
Tuy vậy, những đối tượng này vẫn có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong
những trường hợp: bị can, bị cáo trốn và bị bắt theo lênh truy nã; bị can, bị cáo được
áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến
việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có
đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh
quốc gia.

2

khoản 3 Điều 8 BLHS
5


Nhằm mục đích giáo dục, cảm hoá bị can, bị cáo là người chưa thành niên trở
về với cuộc sống, đồng thời thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước với nhóm đối
tượng này, khoản 3 Điều 303 BLTTHS quy định người chưa thành niên chỉ có thể bị
áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp:“ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi:
nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm trọng do
cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”.
3. Thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp tạm giam
Thẩm quyến áp dụng BPNC tạm giam là khả năng của một chủ thể được nhà
nước giao cho quyền được quyết định việc tạm giam đối với đối tượng nhất định.
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS quy định “ Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được
quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam...”. Theo khoản 1

Điều 80, những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam gồm: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (VKS ) nhân dân và VKS quân sự các cấp;
Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân ( TAND) và Toà án quân sự các cấp; Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét
xử; Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp, trong trường hợp này, lệnh
bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều cơ
quan với nhiều chủ thể khác nhau ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau. VKS với chức
năng là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này,
đặc biệt đối với lệnh tạm gia của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp
phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

6


4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam
Thủ tục tạm giam là trình tự luật định mà chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng
BPNC tạm giam phải tuân thủ một cách triệt để. Theo quy định của BLTTHS thì việc
tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có
thẩm quyền kí. Lệnh tạm giam ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra
lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam; và
giao cho người bị tạm giam một bản3. Theo quy định tại khoản 3 Điều 88, lênh tạm
giam của cơ quan điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự
do và danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Chính vì vậy,
sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam cần phải thông báo ngay cho gia
đình người bị tạm giam và chính quyền xã phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị tạm giam cư trú, làm việc biết. 4
5. Thời hạn tạm giam
Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thời hạn tạm giam không được quy định

tập trung tại một điều luật mà được quy định theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng.
Thời hạn tạm giam trong tố tụng được chia thành: thời hạn tạm giam để điều tra; thời
hạn tạm giam để truy tố; thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm; thời hạn tạm giam để
xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam để thi hành án.
a) Thời hạn tạm giam để điều tra
Điều 120 BLTTHS quy định : “ Thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai
tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không
quá bốn tháng với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng... Việc gia hạn
tạm giam quy định như sau: đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn một
3
4

khoản 2 Điều 80 BLTTHS
khoản 4 Điều 87 BLTTHS
7


lần không quá một tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam hai
lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng; đối với tội
phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá
ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có
thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng”.
Như vậy đối với tội phạm ít nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra tối đa
có thể là ba tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là sáu tháng, đối với tội phạm rất
nghiêm trọng là chín tháng, còn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể lên đến
mười sáu tháng; trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 120 đã hết và vụ án có tình tiết phức tạp mà không có căn cứ để
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn
tạm giam lần thứ ba trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia
thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng (

Điều 120 ).
b) Thời hạn tạm giam để truy tố:
Khoản 2 Điều 166 BLHS 2003 quy định: “ thời hạn tạm giam để truy tố
không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này”. Theo quy định tại khoản 1
Điều 166 : “ Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, Viện kiểm
sát phải ra một trong các quyết định ... Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện
kiểm sát có thể gia hạn tạm giam nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm
rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” .
Như vậy, thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, với tội phạm rất nghiêm trọng
8


tối đa có thể lên đến bốn mươi lăm ngày, còn với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời
hạn tạm giam để truy tố tối đa có thể lên đến sáu mươi ngày.
c) Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm:
Điều 177 BLTTHS 2003 quy định: “ thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 176 của Bộ luật này” .
Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 : Thời hạn chuẩn bị xét xử là ba mươi ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng,
hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng và ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, kể từ này nhận hồ sơ vụ án.... Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án
có thể quyết định gia hạn nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm
trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thời hạn
tạm giam để mở phiên tòa là từ mười năm ngày đến ba mươi ngày...” .
Như vậy, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa đối với tội ít phạm

nghiêm trọng là hai tháng mười lăm ngày, ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng,
bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
thì thời hạn này có thể lên đến năm tháng.
d) Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm:
Điều 243 BLTTHS 2003 quy định: “ Thời hạn tạm giam không được quá thời
hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự”. Theo quy định
tại Điều 242 BLTTHS 2003, TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu phải mở phiên toà
phúc thẩm trong thời hạn sáu mươi ngày; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa
án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín mươi ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án .
e) Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án:
9


Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hội đồng xét xử quyết định việc
tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 228 BLTTHS quy định: Đối với bị cáo
đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng
xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong trường
hợp bị cáo không bị tạm giam thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị
cáo nếu có nhận thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị
cáo bốn mươi lăm này, kể từ ngày tuyên án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy định tại Điều 243, bị cáo đang bị tạm giam,
bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra
quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, thời hạn tạm giam là bốn
mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam
a) Về chế độ tạm giam:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để đảm bảo cho hoạt động
của cơ quan thi hành tố tụng và không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện hành

vi phạm tội. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng đây không phải là hình phạt đối với
người phạm tội. Đây là đặc điểm để phân biệt “ tạm giam” với “ giam”. “ Giam” là
biện pháp chấp hành hình phạt tù, người bị kết án phải chấp hành cải tạo và sinh sống
trong trại cải tạo ( trại giam ) một thời gian bằng thời hạn tù mà tòa án đã tuyên ( được
khấu trừ thời hạn đã bị tạm giam ). Do tạm giam không phải là hình phạt nên chế độ
tạm giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tù ( Điều 89 BLTTHS).
b) Về chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm
giam:

10


Theo Điều 90 BLTTHS, khi người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới
14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm
sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao những người đó cho người thân thích
chăm nom. Trong trường họp người bị tạm giam không có người thân thích thì cơ
quan ra quyết định tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
Trong trường hợp người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người
chăm nom, cơ quan ra quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom,
bảo quản thích đáng. Cơ quan ra quyết định tạm giam thông báo cho người bị tạm
giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
c) Việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt:
Theo quy định của BLHS, thời hạn tạm giam được tính chấp hành hình phạt
tù, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tù, không chỉ áp dụng với người bị tạm giam
liên tục mà áp dụng với cả những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác tạm
giam. Những hình phạt khác không phải là hình phạt tù.
d) Về quyền của người bị tạm giam:
Theo quy định của BLTTHS 2003, đối tượng có thể áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam là bị can, bị cáo, người đã bị kết án phạt tù hoặc tử hình bỏ trốn bị bắt
để tạm giam. Khi bị tạm giam, bị can, bị cáo có đầy đủ quyền của bị can, bị cáo được

quy định tại Điều 49, Điều 50 và khi họ là người bị kết án đang chờ thi hành hình phạt
tù họ có các quyền được quy định tại điều 260 BLTTHS 2003.
III. Hạn chế, bất cập trong việc áp dụng biện pháp tạm giam

Mặc dù không ngừng được hoàn thiện dần qua những đợt pháp điển hóa,
nhưng thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS về BPTG trong thời gian qua cho

11


thấy, vẫn còn có những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật cũng như nhận
thức của người tiến hành tố tụng (THTT) về áp dụng biện pháp này. Cụ thể :
1. Về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
Nội dung quy định về căn cứ áp dụng BPNC còn có những hạn chế, bất cập
như chưa thể hiện đúng bản chất và sự cần thiết phải áp dụng BPNC tạm giam; còn có
sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các căn cứ chung và căn cứ riêng…Cụ thể:
Thứ nhất, tại điểm a, khoản 1 Điều 88 BLTTHS quy định: “ Bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng” . Với quy định này, nhà
làm luật cho rằng, người phạm tội sẽ cân nhắc mối tương quan về lợi ích giữa việc
chấp nhận bị truy cứu trách nhiệm hình sự với việc bỏ trốn thì việc bỏ trốn luôn mang
lại lợi ích cao hơn nên đã lấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và khả năng
phải gánh chịu hình phạt tương ứng để làm căn cứ áp dụng PNC tạm giam, nhưng
không thể suy diễn rằng mọi bị can, bị cáo đều lựa chọn biện pháp bỏ trốn khi biết
mình có thể phải chịu mức hình phạt cao. Có thể hiểu, đây không phải là căn cứ đầy
đủ để áp dụng BPNC tạm giam. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi cao hay
thấp, mức hình phạt mà bị can, bị cáo có thể phải chịu là vấn đề mà các CQTHTT
phải làm rõ trong các giai đoạn tố tụng, vì vậy nó không thể là căn cứ để áp dụng
BPNC. Ta có thể hiểu, căn cứ áp dụng BPNC là căn cứ có thật, dự báo khả năng thực
tế có thể xảy ra việc bỏ trốn chứ không thể là căn cứ mang tính suy diễn từ tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc suy diễn như vậy trong lập pháp đã

tạo cơ sở cho việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Mặt khác, cách dùng từ
trong các quy định trên cũng chưa thật chuẩn xác, bởi khi chưa có bản án kết tội đã có
hiệu lực của Toà án có thẩm quyền thì chưa thể khẳng định bị can, bị cáo đó phạm loại
tội nào.
Thứ hai, có sự mâu thuẫn trong quy định tại điểm b khoản 1 với khoản 2 Điều
88 BLTTHS. Cả hai khoản này đều quy định về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam cho
12


các trường hợp khác nhau, trong đó, khoản 2 quy định việc áp dụng chính sách nhân
đạo cũng như khả năng áp dụng biện pháp tạm giam với một số đối tượng đặc biệt là
phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị
bệnh nặng. Nếu ở điểm b khoản 1 ngoài căn cứ bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, thì bị can, bị cáo còn
phải thoả mãn “ phạm tội phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm” thì ở điểm a, điểm b khoản 2, bị can,
bị cáo phạm bất cứ tội phạm nào cũng có thể bị tạm giam. Tức là căn cứ áp dụng biện
pháp tạm giam của một số đối tượng đáng lẽ ra được hưởng chính sách đặc biệt thì lại
được mở rộng hơn so với căn cứ áp dụng BPNC tạm giam của các đối tượng bình
thường.
2. Về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam
Trong những năm gần đây, tình hình tạm giam không đúng đối tượng còn xảy
ra nhiều như: giam cả những người không phải là bị can, bị cáo thuộc các trường hợp
được hưởng chính sách miễn trừ giam giữ cũng bị áp dụng biện pháp tạm giam.
3. Về thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam
Thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra không đồng nhất với nhau
đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Đây là điều
bất hợp lý, bởi vì, mục đích của việc áp dụng BPTG trong giai đoạn này là để ngăn
chặn bị can phạm tội mới, cản trở hoặc gây khó khăn cho hoạt động điều tra, và khi
chưa thể ra được bản kết luận điều tra mà vẫn còn căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam

thì Cơ quan điều tra (CQĐT) không thể hủy bỏ, thay thế BPTG đuợc, trong khi đó thì
không phải vụ án nào cũng có thể đẩy nhanh tiến độ điều tra.
IV. Đề xuất hoàn thiện quy định về tạm giam

13


Qua việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về BPNC tạm giam,
từ những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng biện pháp này vào thực tiễn, em xin đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của chế định tạm giam, góp phần
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tạm giam.
Thứ nhất, trong quy định của BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái
niệm BPNC tạm giam. Tại Điều 88 BLTTHS mới chỉ nêu ra được đối tượng bị áp
dụng BPNC tạm giam, do vậy cần phải có một quy định cụ thể về khái niệm BPNC
tạm giam. Có thể nêu khái niệm theo hướng sau: Tạm giam là BPNC do những người
có thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị
cáo, người bị kết án theo đúng trình tự thủ tục, căn cứ và trong các trường hợp luật
định, nhắm ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Thứ hai, cần nghiên cứu về việc hạn chế tạm giam đối với một số loại tội
phạm. Thực tiễn áp dụng BPTG ở nước ta những năm qua cho thấy, do BLTTHS hiện
hành không quy định đối với những loại (nhóm) tội phạm nào thì có thể hạn chế việc
tạm giam, nên việc xem xét, quyết định tạm giam chỉ căn cứ vào quy định của Điều
88 BLHS (và Điều 303 nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên) chứ không căn cứ
vào loại tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện
Thứ ba, vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì BLTTHS nên
quy định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của VKS, theo từng loại vụ án đơn giản
hay phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án.
Hiện nay tại khoản 3 Điều 88 có quy định về thời hạn của VKS xem xét đó là: “trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ

sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn”. BLTTHS nên quy định cụ thể hơn thời hạn này theo hướng
quy định các mức thời gian theo từng vụ án đơn giản hay phức tạp, nếu vụ án đơn
14


giản, hồ sơ tài liệu đầy đủ thì chỉ cần một ngày nhưng có nhứng vụ án mà hồ sơ, tài
liệu nhiều lại phức tạp thì cần phải có nhiều thời gian hơn để VKS nghiên cứu trong
khi phê chuẩn.
Thứ tư, bổ sung Khoản 1 Điều 80 quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam
nhưng mới chỉ quy định về thẩm quyền ra lệnh, nội dung lệnh bắt, trình tự, thủ tục bắt
và thời điểm bắt; chưa có quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi áp
dụng BPNC này, thì CQTHTT lại phải căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 88
về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam trong khi Điều 80 không viện dẫn về căn cứ các bị
can, bị cáo để tạm giam sang Điều 88. Như vậy, không có sự liên hệ logic giữa các
điều luật mà buộc người thực hiện phải tự nghiên cứu và áp dụng. Do đó, Điều 80 cần
được cơ cấu lại theo hướng là Khoản 1 trong điều luật quy định về căn cứ bắt bị can,
bị cáo để tạm giam. Ngoài ra, sửa đổi các điều 177, 228, 243, 250,287 BLTTHS theo
hướng dẫn chiếu căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn về Điều 88 và điều 303
BLTTHS hiện hành.
Thứ năm, về việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên toà, cần có quy định theo
hướng phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì
không thể tiếp tục tạm giam bị cáo do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa
được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay theo quy định
tại Khoản 2 Điều 255 BLTTHS.
Đồng thời theo quy định tại Khoản 3 Điều 243 BLTTHS: “Sau khi nhận hồ sơ
vụ án, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn”. Quy định này áp dụng cho Toà án cấp phúc thẩm còn nội dung
và phạm vi áp dụng khác với cấp sơ thẩm. Cụ thể, nếu ở cấp sơ thẩm việc bắt bị cáo
tại phiên toà chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho thấy “bị cáo có thể trốn hoặc tiếp

tục phạm tội” thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị cáo bị tuyên phạt tù, Hội đồng xét xử
phải bắt giam ngay, trừ trường hợp quy định tại Điều 261 BLTTHS.
15


Thứ sáu, là vấn đề thời hạn tạm giam về điều tra và thời hạn điều tra.
BLTTHS nên quy định thời gian bằng nhau vì có nhiều vụ án phức tạp thời hạn điều
tra thì vẫn còn nhưng thời hạn tạm giam để điều tra thì hết, vì vậy đã gây khó khăn
cho Cơ quan điều tra cũng như cho quá trình xét xử thi hành án.
Bên cạnh hoàn thiện các quy định của pháp luật thì cần nâng cao trách nhiệm
của những người có thẩm quyền trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giam bằng
cách quy định rõ và đầy đủ trách nhiệm của họ cũng như những chế tài mà họ có thể
bị áp dụng nếu họ có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình.
Tăng cường hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sống cho người bị
tạm giam. Có như vậy, việc quản lý giám sát người bị tạm giam mới được chặt chẽ và
điều kiện sinh hoạt của bị can, bị cáo mới được cải thiện.

C. KẾT LUẬN
Tạm giam là BPNC quan trọng trong hệ thống các BPNC trong BLTTHS Việt
Nam. Nó có vai trò to lớn trong việc đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phát
hiện nhanh chóng, chính xác, xử lí công minh người phạm tội. Trước yêu cầu đổi mới
toàn diện đất nước, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm xảy ra hiện nay, đòi hỏi
phải nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng các BPNC nói chung và biện pháp
tạm giam nói riêng, bài viết đã dựa trên những tìm hiểu về biện pháp tạm giam trong
tố tụng hình sự Việt Nam để đưa ra những đề xuất hoàn thiện những quy định này.

16



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015;
2. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia Hà Nội, 2014;
3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;
4. Bộ Luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009;
5. />6. />
17



×