Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận logistics cam kết của việt nam về vấn đề môi trường trong cptpp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.65 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề về môi trường hiện nay đang được quan tâm hơn bao giờ hết, bởi
mức độ xâm phạm và khiến cho môi trường bị suy thoái của con người ngày càng
gia tăng, đến mức độ đáng báo động. Các Hiệp định Thương mại tự do ngày nay dù
mục đích chính là phát triển thương mại và đầu tư nhưng cũng không nằm ngoài xu
thế này. Bởi chính môi trường là không gian cho con người khai thác, phát triển
hoạt động thương mại, không thể phát triển kinh tế, thương mại nếu không có một
môi trường lành mạnh, an toàn và trong sạch.
Trong đó, trải qua quá trình đàm phán và “hồi sinh” trở lại (từ sau sự rút khỏi
của Hoa Kỳ), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương –
CPTPP đã chính thức được hoàn tất và có hiệu lực từ năm . Đặc biệt, CPTPP đã
dành một chương riêng để đưa ra các cam kết về môi trường giữa các nước thành
viên và những quy định này được đánh giá là đáp ứng được sự “tiến bộ” và “toàn
diện” đúng như tinh thần chung của toàn bộ Hiệp định nói chung.
Để làm rõ hơn mức độ “tiến bộ” và “toàn diện” của các cam kết về môi
trường trong CPTPP, phạm vi bài tiểu luận xin được giới thiệu các nội dung khái
quát về Chương 20: Môi trường của Hiệp định và đưa ra bình luận của nhóm về quy
định đó dựa trên lí luận và sự tham khảo, so sánh với một số các hiệp định khác. Từ
đó đánh giá một phần tác động của những quy định này đối với Việt Nam. Như vậy,
theo mạch phân tích trên, nhóm xin được đưa ra bố cục bài tiểu luận như sau:
Chương I: Tổng quan quy định về môi trường trong CPTPP
Chương II: Phân tích các quy định về môi trường trong CPTPP
Chương III: Bình luận các quy định về môi trường trong CPTPP
Chương IV: Tác động của các quy định về môi trường trong CPTPP tới Việt Nam
Sự hạn chế về kiến thức và kỹ năng có thể khiến bài tiểu luận có những thiếu
sót nhất định, chúng em rất hy vọng nhận được ý kiến nhận xét từ Cô. Chúng em
xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CPTPP
I.1. CPTPP - tính chất của Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới


Một trong những khác biệt lớn nhất của các hiệp định thương mại truyền
thống và những hiệp định thương mại thế hệ mới nằm ở tính phi thương mại – tính
chất của các quy định riêng có của các FTA thế hệ mới. Các hiệp định thương mại
thế hệ mới không dừng lại ở các quy định về thương mại như các hiệp định truyền
thống, bên cạnh vấn đề trung tâm là thương mại, những vấn đề phi thương mại đã
trở thành những vấn đề “chân kiềng” để hoạt động hợp tác thương mại có thể trụ
vững và vận hành hiệu quả.
Liên quan đến vấn đề thương mại và phi thương mại, có hai xu hướng sau
được nhóm rút ra dựa trên hành vi trên thực tế của các chủ thể:
Thứ nhất, các hành vi điều chỉnh vấn đề phi thương mại bằng các biện pháp
thương mại, nghĩa là việc sử dụng các biện pháp kinh tế, cấm vận để gây sức ép đối
với các hoạt động phi thương mại, xu hướng này đặc biệt được áp dụng chủ yếu trên
các hoạt động xâm phạm quyền con người hoặc gây nguy hại cho môi trường.
Chẳng hạn, năm 2010 Hoa kì cấm nhập khẩu các loại tôm được đánh bắt tự nhiên từ
Mexico do Cơ quan thanh tra của Mỹ đã phát hiện các tàu đánh bắt tôm của Mêxicô
không sử dụng thiết bị loại trừ rùa biển. Trong khi rùa biển hiện tại là loài sinh vật
biển đang trên đà sụt giảm nhanh về số lượng và ở mức báo động cần có biện pháp
bảo vệ.
Thứ hai, các hành vi điều chỉnh vấn đề thương mại bằng các biện pháp phi
thương mại, nghĩa là việc sử dụng một phương tiện, công cụ phi thương mại tác
động đến tính hiệu quả của hoạt động thương mại. Chẳng hạn, nếu một nước duy trì
tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và các điều kiện lao động không được xác lập
trên cơ sở thương lượng thì được cho là sẽ có chi phí sản xuất thấp hơn so với nước
thực hiện những tiêu chuẩn lao động cao, dẫn tới cạnh tranh không bình lao động
rẻ”. Như vậy, vấn đề phi thương mại là “quyền quy định về lao động” trong trường
hợp này đã tác động tới vấn đề về thương mại một cách trực diện đó là giá thành sản
phẩm , dẫn tới hành vi cạnh tranh không bình đẳng.


Ví dụ: Khoản 3, Điều 2, Chương 20: Môi trường, CPTPP: “Các bên cũng

thừa nhận rằng việc thiếp lập hoặc sử dụng luật môi trường hoặc các biện pháp về
môi trường theo phương thức có thể tạo ra sự hạn chế trá hình lên thương mại hoặc
đầu tư giữa các bên là không phù hợp”.
Hay EVFTA cũng có quy định về vấn đề này: “Một Bên không được áp dụng
luật pháp môi trường và lao động theo cách thức gây ra sự phân biệt đối xử tùy tiện
và vô lý giữa các Bên hoặc được sử dụng như một phương thức hạn chế thương mại
trá hình 1.”
Thực tế, việc đưa các vấn đề phi thương mại vào các cam kết thương mại đã
được tính đến từ lâu tuy nhiên vì sự lo ngại rằng các nước lớn có thể sử dụng những
biện pháp phi thương mại để gây sức ép thương mại lên các nước kém/đang phát
triển, vấn đề phi thương mại bị “tránh né”. Cụ thể, vấn đề tiêu chuẩn lao động và
vấn đề môi trường đã từng bị đưa ra khỏi Chương trình nghị sự thương mại toàn cầu
kể từ Hội nghị Seattle của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1999, bởi các
nước đang phát triển lúc đó tỏ ra nghi ngại rằng liệu đây có phải là những “hàng rào
bảo hộ mới”.
Tuy nhiên, trải qua hơn một thập kỉ phát triển nhanh chóng, khi các quốc gia
đang và kém phát triển ngày càng có vị thế hơn trong các vòng đàm phán nhờ sự
liên kết khu vực mạnh mẽ giữa các nước này, họ mới nhận ra vấn đề phi thương mại
như lao động, môi trường,... hơn bao giờ hết cần được xuất hiện trong các cam kết
quốc tế.
Theo quan điểm của nhóm, càng là những vấn đề gây tranh luận, mù mờ,
chúng ta càng cần phải có những quy định điều chỉnh nó cụ thể và rõ ràng hơn. Đặc
biệt khi hoạt động thương mại có tác động lớn tới vấn đề phi thương mại khác như
môi trường hay lao động..., con người khai thác tài nguyên từ môi trường hay sử
dụng lao động giá rẻ cũng nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận và khi thương mại
là hoạt động chủ yếu giữa các quốc gia, diễn ra hàng gày, hàng giờ thì việc thống
nhất một cơ chế chung các quy định để điều chỉnh những vấn đề phi thương mại
trong khuôn khổ của các hoạt động thương mại càng trở nên cần thiết hơn.

1 Khoản 4, điều 13.3, chương 13: Phát triển bền vững



Đặc biệt, hoạt động giao thương của các chủ thể luôn luôn diễn ra trong một
không gian nhất định, không gian đó là “môi trường” – môi trường để khai thác các
nguồn lợi tự nhiên, môi trường để sản xuất, để trao đổi và thậm chí để chứa những
phế thải của quá trình sản xuất.
Do vậy, các FTA thế hệ mới ra đời không bó hẹp trong phạm vi thương mại
mà quy định cả những vấn đề phi thương mại, sẽ đưa ra cho các quốc gia hữu quan
khuôn khổ ứng xử phù hợp để họ nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề, giúp
họ điều chỉnh hành động để không vi phạm vào các cam kết quốc tế. Trong phạm vi
bài tiểu luận, nhóm tập trung phân tích quy định về môi trường trong một FTA thế
hệ mới điển hình mà Việt Nam là thành viên – Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương CPTPP.
I.2. CPTPP – một hiệp định “mẫu” của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
về môi trường 2
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership) gọi tắt là
Hiệp định CPTPP hay TPP11, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
CPTPP bao gồm 11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chi lê, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singarpore và Việt Nam. Tiền thân của
CPTPP là TPP (TPP12) với sự tham gia của Mỹ.
Vậy tại sao có thể coi CPTPP là một hiệp định “mẫu” của hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới của Việt Nam về môi trường? Bởi ba lí do: phạm vi rộng, mức
độ sâu và cơ chế chặt chẽ.
Thứ nhất, như đã trình bày ở trên, CPTPP với sự tham gia của 11 nước thành
viên chiếm tới 40%GDP và 13,6% thương mại toàn cầu. Với mức độ mở rộng quan
hệ hợp tác đa phương như vậy, sẽ giúp không chỉ luồng thương mại mà cả hệ thống
hành động vì môi trường, phát triển và lan ra tất cả khu vưc các nước thành viên.
Ngoài ra, điều đó không chỉ mang lại một phạm vi áp dụng rộng rãi, mà còn tạo nên
tính liên kết chặt chẽ trong một phạm vi không gian rộng và cấu trúc môi trường

nhất định. 11 nước thành viên CPTPP nằm xuyên suốt từ khu vực Châu Á đến Châu

2 Một hiệp định “mẫu” đối với riêng Việt Nam.


Mỹ và Châu Úc, tính chất “xuyên Thái Bình Dương” của CPTPP khiến cho các cam
kết về môi trường được thực hiện và mức độ liên kết trên phạm vi rộng lớn.
Thứ hai, diễn giải tính “toàn diện” và “tiến bộ” của CPTPP. “Toàn diện” là để
phản ánh tiêu chuẩn cao trong Hiệp định về các lĩnh vực lao động, môi trường hoặc
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi khái niệm "tiến bộ" bảo đảm thương mại là
thực tế đối với mọi người dân, bảo đảm sự tiếp cận của người dân ở khắp khu vực
châu Á-Thái Bình Dương. “Hiệp định CPTPP là dành cho tất cả mọi người; Người
dân muốn một thỏa thuận bao trùm các vấn đề về thương mại và dịch vụ, thương
mại và hàng hóa; bảo đảm việc đạt được sự thống nhất ở mức độ cao”. Thể hiện ở
quy định về đảm bảo sự tham gia của cộng đồng đối với vấn đề môi trường.
Thứ ba, CPTPP đưa ra những cơ chế để đảm bảo vấn đề về cơ hội tham gia
của công chúng đối với những vấn đề về môi trường, quy định về ba cấp tham vấn
môi trường là Tham vấn môi trường; Tham vấn đại diện cấp cao và Tham vấn cấp
bộ trưởng; một quy định riêng cụ thể về giải quyết tranh chấp. Những quy định này
góp phần làm tăng tính minh bạch và nghiêm túc trong quá trình thực hiện các nghĩa
vụ được đề ra.
Cụ thể, CPTPP dành một chương riêng trong hiệp định cho các quy định về
Môi trường. Chương 20 về môi trường bao gồm khoảng 25 trang với 23 Điều khoản
và 02 Phụ lục, điều chỉnh hoạt động nhiều lĩnh vực và vấn đề môi trường có liên
quan đến thương mại. Các nội dung chính của chương này bao gồm: Đảm bảo thực
thi các cam kết quốc tế về môi trường và thực thi các cam kết về chính sách nội địa
của mỗi quốc gia trong vấn đề môi trường.
Vậy tại sao không chỉ riêng CPTPP, mà xu hướng chung của các Hiệp định
Thương mại tự do thế hệ mới ngày nay đều quy định thêm những vấn đề phi thương
mại? Bởi mục đích phát triển không chỉ trong một thời gian ngắn mà phải đi đôi với

sự bền vững. Phát triển để tiếp tục phát triển chứ không phát triển để hủy diệt. Do
vậy, phát triển bền vững là động cơ để các nước đưa vấn đề phi thương mại, đặc biệt
là vấn đề môi trường trở thành một nội dung chính yếu của các hiệp định. Mà điều
đặc biệt của CPTPP, rằng CPTPP đã đưa ra một cơ chế chặt chẽ hơn cả về vấn đề
môi trường trong các hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam là nước
thành viên.


Như vậy, có thể khẳng định, đối với CPTPP, vấn đề môi trường được coi
trọng xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó, đặc biệt trong bối cảnh hiện tại
khi mức độ con người xâm hại và khiến môi trường ô nhiễm, suy thoái ngày một
trầm trọng hơn, điều này sẽ được làm rõ hơn trong phần tiếp theo khi bài tiểu luận
giới thiệu những quy định cụ thể về môi trường trong CPTPP.
CHƯƠNG II. CÁC CAM KẾT VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CPTPP II.1.
Cam kết liên quan tới các Hiệp định đa phương về môi trường
Các cam kết về việc tham gia các Thỏa thuận quốc tế về môi trường CPTPP
được quy định tại Điều 20.4. Theo đó, CPTPP không buộc các nước phải gia nhập
hay tham gia bắt buộc các Công ước mới về môi trường mà chỉ yêu cầu các nước
thực thi hiệu quả cam kết trong các Công ước về môi trường mà mình là thành viên.
Trong đó, CPTPP đặc biệt nhấn mạnh nghĩa vụ trong 03 Điều ước quốc tế về môi
trường mà các nước CPTPP đều đã là thành viên, bao gồm Nghị định thư
MONTREALvề các chất làm suy giảm tầng ô-zôn; Công ước quốc tế về ngăn ngừa
ô nhiễm từ tàu biển (Công ước MARPOL) và Công ước quốc tế về buôn bán các
loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa (Công ước CITES).
-

Nghị định thư MONTREAL về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn:
Nghị định thư đã đề ra rất nhiều các điều khoản nhằm xác định các biện pháp

cần thiết để các bên tham gia, trong đó có Việt Nam cần phải hạn chế và kiểm soát

việc sản xuất tiêu thụ các chất làm suy giảm tầng ozon, có thể kể đến như:
(i)

Không nhập khẩu hay xuất khẩu các chất đã bị hạn chế ra khỏi quốc gia
không tham gia công ước;

(ii)

Hàng năm các thành viên cần cung cấp số liệu thống kê cho ban thư kí về
việc làm giảm các chất nguy hại của nước mình cũng như việc xuất nhập
khẩu các chất đã bị kiểm soát;

(iii)

Các bên cùng nhau hợp tác đặc biệt là theo nhu cầu các nước đang phát triển
nhằm tăng cường nghiên cứu, phát triển, trao đổi thông tin và làm tăng thêm
nhận thức của công chúng trong việc bảo vệ tầng ozone.

-

Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu biển (Công ước MARPOL)
Công ước và các Phụ lục đề ra rất nhiều nghĩa vụ khác nhau cho các Quốc

gia thành viên, không phân biệt nước phát triển hay đang phát triển. Các Quốc gia


thành viên phải tuân thủ các cam kết trong chính Công ước và các Phụ lục của Công
ước mà họ tham gia. Về nguyên tắc, Quốc gia mà tàu mang cờ có trách nhiệm chính
trong việc chứng nhận cho tàu thuyền của nước đó phù hợp với các tiêu chuẩn về
ngăn ngừa ô nhiễm và trong việc điều tra ở các khu vực ngoài quyền tài phán của

các Quốc gia khác. Thêm nữa, mỗi Quốc gia có cảng biển cũng có thể thực hiện
việc kiểm tra riêng đối với tàu thuyền nước ngoài đang trong cảng của quốc gia đó.
Việt Nam đã tham gia cả sáu Phụ lục bao gồm các cam kết về ngăn ngừa ô
nhiễm biển và nhóm các cam kết về cung cấp thông tin.
-

Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã đang bị đe
dọa (Công ước CITES)
Là một bên tham gia Công ước, Việt Nam có trách nhiệm phải thực hiện các

nghĩa vụ đó là bảo vệ các loại động, thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng
thông qua thực hiện việc cấm buôn bán quốc tế các loài động thực vật có nguy cơ
tuyệt chủng và điều hòa, giám sát chặt chẽ việc buôn bán các loài khác. Để thi hành
có hiệu lực các điều khoản của Công ước và để cấm bán các loài thuộc phụ lục 1 thì
Việt Nam cần có biện pháp cụ thể như: Phạt việc buôn bán hoặc lưu giữ các mẫu
vật, tịch thu hoặc trả lại nước xuất khẩu các mẫu vật bị lưu giữ. Ngoài ra, Các thủ
tục xuất nhập khẩu phải được hoàn tất một cách nhanh chóng đối với động vật được
phép xuất nhập khẩu, các mẫu vật sống phải được chăm sóc thích hợp nhằm hạn chế
tối đa các tổn thương sức khỏe hay cách đối xử thô bạo trong quá trình vận chuyển
hoặc quá cảnh.
Ngoài ra, Việt Nam còn ký kết và tham gia rất nhiều Điều ước về môi trường
khác có thể kể đến như Công ước về đa dạng sinh học (CBD) 1992, Công ước về
các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (RAMSAR) 1971, Công ước về
kiểm soát vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và việc tiêu hủy chúng
(BASEL) 1989, .... Chính vì vậy, việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các Điều
ước quốc tế này là điều tất yếu để thể hiện sự tuân thủ các cam kết của Việt Nam
trong CPTPP.
II.2. Các cam kết về chính sách và pháp luật trong nước về môi trường



Các cam kết về chính sách nội địa đối với môi trường CPTPP không đưa ra
các tiêu chuẩn môi trường cụ thể trong bất kỳ lĩnh vực nào. Tuy nhiên, CPTPP có
đưa ra một số yêu cầu cụ thể về một số biện pháp, khía cạnh nhằm bảo vệ môi
trường mà các nước phải tuân thủ. Cụ thể, CPTPP có 02 nhóm cam kết tương đối
chi tiết về môi trường như sau:
(i)

Các cam kết về minh bạch và tăng cường vai trò của các bên liên quan trong
bảo vệ môi trường.

(ii)

Các cam kết trong một số vấn đề môi trường cụ thể.

II.2.1. Các cam kết về minh bạch và tăng cường vai trò các bên liên quan
CPTPP có khá nhiều các quy định cụ thể nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ môi
trường trong quá trình mở rộng thương mại và đầu tư giữa 11 quốc gia thành viên.
Các biện pháp cụ thể được gắn với việc thực thi pháp luật môi trường mà CPTPP
định nghĩa rất rõ. CPTPP xác định cụ thể luật nào của quốc gia thành viên được coi
là luật môi trường theo tinh thần của hiệp định này. Đối với Việt Nam, CPTPP coi
Luật môi trường là luật của Quốc hội, Pháp lệnh của UBTV Quốc hội về môi
trường, các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện luật của Quốc hội, pháp
lệnh của UBTV Quốc hội về môi trường. Trong số các biện pháp cụ thể về bảo vệ
môi trường mà CPTPP dành cho các quốc gia thành viên, cần lưu ý các biện pháp
sau đây.
Thứ nhất, CPTPP yêu cầu các quốc gia thành viên nâng cao nhận thức trong
công chúng về luật, chính sách môi trường của mình bao gồm cả những thủ tục thực
thi và đảm bảo khả năng tiếp cận dễ dàng cho công chúng đối với các thông tin đó.
Cũng nhằm nâng cao nhận thức của người dân, CPTPP yêu cầu các quốc gia thành
viên tìm mọi cách đáp ứng yêu cầu thông tin liên quan đến việc thực hiện các quy

định trong chương 20 của Hiệp định về môi trường. Tổ chức tham vấn cộng đồng
cũng được CPTPP coi là một giải pháp mà các thành viên cần thực hiện. Cụ thể, các
thành viên sử dụng các cơ chế tham vấn hiện có hoặc thiết lập cơ chế tham vấn mới
để thực hiện các quy định của CPTPP về bảo vệ môi trường. Các ủy ban tư vấn quốc
gia cũng là một trong số các ủy ban tham vấn như vậy. Những ủy ban tham vấn này
có thể bao gồm những người có kinh nghiệm liên quan đến kinh doanh, bảo tồn và
quản lý tài nguyên thiên nhiên, hoặc các vấn đề môi trường khác.


Thứ hai, CPTPP quy định các biện pháp mà các quốc gia có thể tiến hành để
thực thi nghĩa vụ bảo vệ môi trường theo chương 20 Hiệp định. Trước hết cần kể
đến nghĩa vụ công khai các báo cáo do các thiết chế của mình xác lập liên quan đến
việc thực hiện các quy định của chương 20 về bảo vệ môi trường. Cụ thể, mỗi thành
viên sẽ phải quy định thủ tục tiếp nhận, xem xét báo cáo do các thiết chế của mình
đệ trình, phản hồi kịp thời bằng văn bản các báo cáo đó, giúp dân chúng tiếp cận với
báo cáo thông qua các phương tiện thích hợp. Các trang thông tin điện tử được liệt
kê đầu tiên như là một trong số các phương tiện đó.
CPTPP yêu cầu mỗi thành viên chỉ định một cơ quan đầu mối để thông tin
cho các thành viên khác về việc thực hiện các quy định của chương 20 về môi
trường. Trong vòng 90 ngày kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, các thành viên thông
báo cho nhau về cơ quan đầu mối này. Trường hợp nếu một thành viên thay đổi cơ
quan đầu mối thì phải thông báo cho các thành viên còn lại về sự thay đổi đó. Bên
cạnh cơ quan đầu mối, mỗi thành viên của CPTPP thành lập Ủy ban môi trường bao
gồm đại diện cấp cao của chính phủ, của các cơ quan thương mại và môi trường. Ủy
ban này có nhiệm vụ thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường trong Hiệp định.
Nhận thức được tầm quan trọng của doanh nghiệp và các thể chế tự nguyện
trong bảo vệ môi trường, CPTPP yêu cầu các thành viên khuyến khích các doanh
nghiệp hoạt động trong phạm vi lãnh thổ và quyền tài phán của mình tự nguyện áp
dụng vào các chính sách và thực tiễn hoạt động của mình những nguyên tắc về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp có liên quan đến môi trường, phù hợp với các tiêu

chuẩn và các hướng dẫn được quốc tế công nhận và được quốc gia thành viên ủng
hộ.
Các cơ chế tự nguyện cũng được CPTPP đưa ra để nâng cao hiệu suất môi
trường. Hiệp định khuyến khích các thành viên sử dụng các cơ chế linh hoạt và tự
nguyện để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường trong lãnh thổ của mình.
Các cơ chế tự nguyện như tự kiểm toán, tự báo cáo, các kích thích dựa vào thị
trường, tự nguyện chia sẽ thông tin và giám định, đối tái công tư v.v cần được các
thành viên sử dủng để đạt được và duy trì cấp độ cao trong hoạt động bảo vệ môi
trường và thực thi pháp luật môi trường. Để đạt được mục đích này, các thành viên
của CPTPP khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
doanh, các tổ chức phi chính phủ và những người khác có quan tâm tham gia sự


phát triển các tiêu chí được sử dụng để đánh giá hiệu suất môi trường, tiếp tục hoàn
thiện các tiêu chí hiện có. Các thành viên được CPTPP khuyến khích, cho phép các
cơ chế tự nguyện quảng bá các sản phẩm dựa trên chất lượng môi trường của mình
song phải đảm bảo để các quảng cáo này đáp ứng các yêu cầu như (a) trung thực,
không gây hiểu lầm và có xem xét qua các thông tin khoa học và kỹ thuật; (b) được
dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế và các kiến nghịcó liên quan hoặc các hướng dẫn và
thông lệ tốt nhất có thể;(c) thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới; và (d) không áp dụng
các quy định kém thuận lợi hơn đối với một sản phẩm trên cơ sở xuất xứ. Bên cạnh
đó, CPTPP còn khuyến cáo các thành viên không để các cơ chế tự nguyện được sử
dụng để tạo ra những rào cản không cần thiếtđối với thương mại.
Thứ ba, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp môi trường là điểm nhấn quan
trọng trong CPTPP. Cần khẳng định rằng, sự xuất hiện cơ chế giải quyết vi phạm và
tranh chấp môi trường trong Hiệp định này là một thành công quan trọng trong đàm
phán TPP trước đây với việc ký CPTPP. Cơ chế xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp môi trường trong khuôn khổ CPTPP cho phép các thành viên thực thi tốt hơn
pháp luật bảo vệ môi trường, hướng tới việc hiệu suất môi trường cao nhất và bền
vững.

Về xử lý vi phạm, CPTPP yêu cầu các thành viên bảo đảm rằng cá nhân, pháp
nhân cư trú hoặc hoạt động trong lãnh thổ của mình được quyền yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền điều tra vi phạm pháp luật về môi trường mà họ bị cáo buộc, được
quyền yêu cầu các nhà chức trách có thẩm quyền dành cho những yêu cầu này sự
xem xét nghiêm túc, phù hợp với pháp luật hiện hành.
CPTPP quy định rằng mỗi thành viên phải đảm bảo tính minh bạch, công
bằng, công minh trong các thủ tục tư pháp, bán tư pháp hay thủ tục hành chính trong
thực thi pháp luật môi trường, kể cả xử lý những vi phạm bị cáo buộc và buộc các
thành viên phải thực hiện các thủ tục như vậy theo đúng pháp luật. CPTPP yêu cầu
các thành viên đảm bảo các phiên tòa xử vi phạm môi trường phải công khai từ
những trường hợp việc thực thi công lý đòi hỏi khác dựa trên những căn cứ, thủ tục
luật định. Mỗi thành viên đảm bảo để những cá nhân, pháp nhân có lợi ích được hợp
pháp được tiếp cận các thủ tục tư pháp, bán tư pháp hay hành chính không bị cản
trở. CPTPP cho phép mỗi thành viên quy định các hình thức xử phạt hoặc biện pháp
bồi thường thích hợp đối với những vi phạm pháp luật môi trường nhằm đảm bảo


thực thi hiệu quả pháp luật môi trường. Những chế tài hoặc biện pháp bồi thường
bao gồm quyền khởi kiện người vi phạm để đòi bồi thường hoặc quyền tìm kiếm
hành động can thiệp của chính phủ. Mỗi hành viên bảo đảm xem xét một cách thích
hợp các yếu tố liên quan khi ban hành các chế tài hoặc biện pháp bồi thường này
trong đó cần kể đến trước hết là mức độ nghiêm trọng của vi phạm, đối với môi
trường và lợi ích kinh tế mà người vi phạm thu được từ hành vi vi phạm.
Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường trong CPTTP được quy định
riêng bên cạnh cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hiệp định được thiết kế
trong chương 28. Cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường trong CPTPP về cơ bản
cũng có những thành tố thông thường trong các cơ chế giải quyết tranh chấp thành
lập ở các thiết chế quốc tế. Cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường gắn chặt với cơ
chế giải quyết tranh chấp chung của Hiệp định.
Khi phát sinh tranh chấp môi trường giữa các thành viên, các thành viên có

tranh chấp thực hiện việc tham vấn theo Điều 20.20; 201.21; 30.22, cụ thể là tham
vấn vấn đề môi trường, tham vấn thông qua đại diện cấp cao, tham vấn cấp bộ. Quy
trình tham vấn được quy định rất cụ thể. Nếu các bên tham vấn không thể giải quyết
được vấn đề nảy sinh trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn
thì các thành viên tham vấn hoặc thành viên đề nghị tham vấn có thể yêu cầu thành
lập ban hội thẩm. Việc thành lập ban hội thẩm để giải các vấn đề môi trường được
tiến hành theo các trình tự, thủ tục và thành phần được quy định trong cơ chế giải
quyết tranh chấp chung của Hiệp định (CPTPP, 2018, Chapter 28). Các quy trình,
thủ tục thành lập ban hội thẩm trong CPTPP rất cụ thể và có những đảm bảo thực thi
tốt. Về cơ bản, các tranh chấp môi trường giữa các thành viên nếu không giải quyết
được bằng cơ chế tham vấn thì sẽ được giải quyết theo cơ chế đoàn hội thẩm được
thiết lập trong Hiệp định. Điều này có nghĩa các tranh chấp môi trường, thương mại,
đầu tư, lao động, sở hữu trí tuệ đều có chung cơ chế thành lập đoàn hội thẩm.
Những điểm khác biệt trong cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường so với cơ chế
giải quyết tranh chấp chung nằm ở các quy định cụ thể liên quan đến luật áp dụng
cho lĩnh vực môi trường. Cụ thể, khoản 2 Điều 20.23 quy định cho dù vai trò của
các chuyên gia trong đoàn hội thẩm được quy định như thế nào thì trong một vụ
tranh chấp phát sinh từ các vấn đề bảo tồn và thương mại, các đoàn hội thẩm phải
tìm kiếm các hỗ trợ thích hợp từ tổ chức, cá nhân theo Công ước CITES để giải


quyết vấn đề cụ thể đồng thời tạo điều kiện cho các bên tranh chấp được bình luận
về những hỗ trợ kỹ thuật đó. Đoàn hội thẩm khi đưa ra báo cáo của mình cũng có
trách nhiệm cân nhắc sử dụng những tư vấn hướng dẫn đã trưng cầu một cách cẩn
trọng cao nhất phù hợp với bản chất của vụ việc đang tranh chấp. Trước khi khởi
xướng giải quyết tranh chấp môi trường, bên khởi xưởng cần cân nhắc liệu có áp
dụng luật môi trường của mình khi nó cơ bản phù hợp với những luật môi trường sẽ
áp dụng đối với vấn đề tranh chấp. Nếu một thành viên yêu cầu tham vấn với các
bên khác về những vấn đề phát sinh cam kết chung 3 và bên trả lời cho Bên yêu cầu
không duy trì pháp luật môi trường tương đương đáng kể trong phạm vi pháp luật

về môi trường sẽ áp dụng cho vấn đề vụ tranh chấp, các Bên sẽ thảo luận vấn đề
trong quá trình tham vấn.
II.2.2. Các cam kết trong một số vấn đề môi trường cụ thể
CPTPP đã đưa ra các quy định về các vấn đề môi trường cụ thể, có thể kể đến các
cam kết sau:
-

Bảo vệ tầng Ozon:
Lượng khí thải của một số chất có thể làm thay đổi tầng ozone theo hướng

ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người mà môi trường. Theo đó, mỗi bên cần có
biện pháp để kiểm soát, tiêu thụ và kinh doanh các chất này thông qua việc tuân thủ
các quy định trong Nghị định thư MONTREAL về các chất làm suy giảm tầng ôzôn.
Bên cạnh đó, các bên có thể hợp tác với nhau, trao đổi thông tin và kinh
nghiệm trong các lĩnh vực liên quan đến các chất thân thiện với môi trường thay thế
cho các chất suy giảm tầng ozone; các thông lệ, chính sách và chương trình quản lý
chất làm lạnh; các phương pháp đo ozone ở tầng bình lưu và đấu tranh chống buôn
bán trái phép các chất phá hủy tầng ozone.
-

Bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm từ tàu biển
Bảo vệ và giữ gìn môi trường biển là một vấn đề quan trọng, do đó mỗi bên

cần có biện pháp đề ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường biển từ tàu. Để chắc
chắn hơn, thì mỗi quốc gia phải thực hiện Công ước quốc té về ngăn ngừa ô nhiễm

3 CPTPP, 2018, Chapter 20, Article 20.3.4, 20.3.6


từ tàu biển, và được sửa đổi bởi Nghị định thư 1978 và Nghị định thư 1997

(MARPOL).
Bên cạnh đó, các Bên sẽ hợp tác để giải quyết các vấn đề cùng quan tâm liên
quan đến ô nhiễm môi trường biển do tàu. Các lĩnh vực hợp tác có thể bao gồm ô
nhiễm từ tàu do tai nạn; ô nhiễm từ các các hoạt động thường xuyên của tàu; ô
nhiễm có chủ ý từ tàu; sự phát triển công nghệ nhằm giảm thiểu chất thải từ tàu;
phát thải từ tàu;sự đầy đủ của các cơ sở tiếp nhận chất thải cảng; sự bảo vệ tăng
cường trong khu vực địa lý đặc biệt và các biện pháp cưỡng chế bao gồm cả các
thông báo để treo cờ quốc tịch thích hợp, bởi chính quyền cảng.
-

Đa dạng sinh học:
Việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học có vai trò quan trọng đối

với việc phát triển bền vững. Do đó, mỗi Bên cần phải thúc đẩy và khuyến khích
việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học theo pháp luật hoặc chính sách
của mình. Bên cạnh đó, các bên có thể hợp tác để giải quyết các vấn đề liên quan
đến: bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; bảo vệ và duy trì các hệ sinh
thái và các dịch vụ hệ sinh thái; và tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích phát
sinh từ việc sử dụng các nguồn gen.
- Tự vệ trước các sinh vật ngoại lai

Sự lây truyền của các loài ngoại lai xâm hại trên cạn và dưới nước qua biên
giới thông qua con đường liên quan tới thương mại có thể ảnh hưởng xấu đến môi
trường, hoạt động kinh tế và phát triển, và sức khỏe con người. Do đó, việc phòng
ngừa, phát hiện, kiểm soát và, xoá (nếu được) các loài ngoại lai xâm hại là những
chiến lược quan trọng để quản lý các tác động bất lợi.
Theo đó, Uỷ ban sẽ phối hợp với Uỷ ban về các biện pháp vệ sinh dịch tễ để
xác định các cơ hội hợp tác nhằm chia sẻ các thông tin và kinh nghiệm quản lý về
lây truyền, phòng ngừa, phát hiện, kiểm soát và tiêu diệt các loài ngoại lai xâm hại,
nhằm tăng cường nỗ lực để đánh giá và giải quyết các rủi ro và tác động bất lợi của

các loài ngoại lai xâm hại.
-

Giảm phát thải


Để chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải thì hành động của tập thể là điều
vô cùng quan trọng. Để thực hiện được điều đó thì các bên cần hợp tác để giải quyết
các vấn đề chung và phổ biển, các lĩnh vực có thể kể đến như: hiệu quả năng lượng;
sự phát triển của công nghệ chi phí thấp và ít phát thải, các nguồn năng lượngsạch
sẽ và có thể tái tạo; giao thông vận tải bền vững và sự phát triển bền vững cơ sở hạ
tầng đô thị; giải quyết việc phá rừng và suy thoái rừng; giám sát chất thải; cơ chế thị
trường và phi thị trường; sự phát triển ít phát thải và mau phục hồi và chia sẻ thông
tin và kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề này. Hơn nữa, nếu thích hợp, các
Bên sẽ tham gia vào các hoạt động hợp tác và xây dựng năng lực liên quan đến việc
chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải.
- Trợ cấp thủy sản
Liên quan đến nội dung về trợ cấp đánh bắt tự nhiên, chống thương mại trái
phép hải sản đánh bắt từ tự nhiên là một trong những nội dung quan trọng của
Chương Môi trường, các nước CPTPP đã cam kết:
(i) Xóa bỏ trợ cấp cho hoạt động đánh bắt mà hoạt động đó được xác định là gây ra
tác động xấu tới nguồn lợi hải sản đã trong tình trạng bị đánh bắt quá mức; Và
xóa bỏ mọi hình thức trợ cấp cho các tàu đánh bắt bất hợp pháp, không theo quy
định và không báo cáo.
(ii) Cam kết minh bạch hóa mọi chính sách và dữ liệu có liên quan đến các chương
trình trợ cấp đánh bắt.
(iii)

Cam kết thực hiện các biện pháp quốc gia cảng biển và quốc gia tàu treo cờ


cũng như các kế hoạch hành động chống đánh bắt bất hợp pháp của các tổ chức
nghề cá khu vực và quốc tế nhằm ứng phó và giải quyết vấn nạn đánh bắt bất
hợp pháp và hành vi thương mại các sản phẩm đó.
Ví dụ về vấn đề trợ cấp nghề cá, so với cách tiếp cận của một số công cụ
pháp lí quốc tế, CPTPP đã đưa ra cách tiếp cận mang tính ràng buộc pháp lí cao về
trợ cấp nghề cá. Các quy định này có thể có những tác động không nhỏ tới hệ thống
pháp luật Việt Nam cũng như tới việc tuân thủ các cam kết của Việt Nam về lĩnh
vực này. Các tác động tích cực có thể kể đến là việc thực thi các quy định về trợ cấp
nghề cá sẽ góp phần thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt


Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm
thuỷ sản được đánh bắt hợp pháp. Ngược lại, một số vấn đề cũng sẽ đặt ra đối với
Việt Nam như chưa có quy định cụ thể về cấm một số loại trợ cấp nghề cá; thiếu
vắng cơ chế tiếp nhận và giải quyết các bản đệ trình của công chúng và chưa thực
hiện tốt nghĩa vụ về minh bạch hoá.
Do đó, để thực thi các cam kết liên quan đến xóa bỏ trợ cấp như nêu ở trên,
các nước có thời gian 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực với từng Bên để hài hòa
hóa mọi chính sách liên quan. Riêng Việt Nam sẽ được gia hạn thêm 2 năm nếu có
cơ sở thể hiện sự cần thiết phải có thêm thời gian chuyển tiếp.
-

Biện pháp bảo tồn
Trong Hiệp định TPP, các nước phải thực thi các biện pháp để chống lại và

ngăn chặn hành vi khai thác và buôn bán động thực vật hoang dã trái với pháp luật
của nước đó hay một luật áp dụng khác.
Luật áp dụng khác được hiểu là luật pháp của một nước mà việc khai thác và
buôn bán động thực vật hoang dã xảy ra và chỉ liên quan đến vấn đề liệu những
động, thực vật hoang dã đã được khai thác và buôn bán có trái với luật pháp nơi đó.

Các nước CPTPP đã thống nhất tạm hoãn nghĩa vụ phải thực thi các biện
pháp để chống lại và ngăn chặn hành vi khai thác và buôn bán động thực vật hoang
dã trái với một luật áp dụng khác. Điều này có nghĩa là các nước chỉ phải thực thi
các biện pháp xử lý đối với các hành vi khai thác và buôn bán động thực vật hoang
dã trái với pháp luật của nước mình theo quy định của Công ước quốc tế về buôn
bán các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa (CITES).
-

Chính sách với các loại hàng hóa, dịch vụ thân thiện/có lợi cho môi trường.
Kinh doanh và đầu tư vào hàng hóa và dịch vụ môi trường có thể xem là một

phương tiện để cải thiện biểu hiện môi trường, kinh tế và giải quyết các thách thức
môi trường toàn cầu. Do đó, việc thúc đẩy thương mại và đầu tư vào hàng hóa và
dịch vụ môi trường tại các khu vực thương mại tự do là điều quan trọng và thực sự
cần thiết.


Theo đó, Uỷ ban sẽ xem xét các vấn đề xác định bởi một hoặc các Bên liên
quan đến việc kinh doanh hàng hóa và dịch vụ môi trường, bao gồm các vấn đề
được xác định là có khả năng tạo ra các rào cản phi thuế quan đối với việc kinh
doanh đó. Ngoài ra, các Bên có thể phát triển các dự án hợp tác song phương và đa
phương về hàng hóa và dịch vụ để giải quyết những thách thức hiện tại và tương lai
liên quan đến thương mại trên toàn cầu.
Từ các cam kết cụ thể về môi trường trên, có thể thấy rằng hầu hết các cam
kết trong lĩnh vực này đều được quy định khá mở, chỉ có hai vấn đề trợ cấp đánh bắt
trên biển và ngăn chặn hành vi khai thác và buôn bán động, thực vật hoang dã
xuyên biên giới được quy định chi tiết và chặt chẽ. Điểm nhấn này đã làm cho
CPTPP trở thành hiệp định đầu tiên trên thế giới quy định về cấm việc trợ cấp đánh
bắt hải sản dẫn đến đánh bắt bất hợp pháp hoặc đánh bắt quá mức, cũng như quy
định nghĩa vụ cho các nước thành viên xử lý việc mua bán thực vật và động vật

hoang dã bất hợp pháp. Đây là một đóng góp có ý nghĩa nhằm đạt được mục tiêu
thứ 14 (về trợ cấp đánh bắt hải sản và giải quyết vấn đề về trữ lượng hải sản ngày
càng giảm sút trước năm 2020) trong số 17 Mục tiêu Toàn cầu về Phát triển Bền
vững.
CHƯƠNG III. BÌNH LUẬN CÁC QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG
CPTPP
Trước hết đối với quy định về việc thực hiện các thỏa thuận quốc tế về môi
trường, CPTPP không yêu cầu các nước thành viên phải tham gia hoặc gia nhập các
Thỏa thuận mới, mà chỉ yêu cầu các nước đảm bảo thực hiện tốt các cam kết quốc tế
mà mình đã tham gia 4. Như vậy, Có thể thấy, CPTPP đã cố gắng tạo điều kiện và
thể hiện ý chí, mong muốn chung của các nước thành viên rằng điều ưu tiên hơn là
việc nỗ lực để làm tốt những cam kết đã có, không khuyến khích việc tham gia các
Thỏa thuận quốc tế về môi trường một cách ồ ạt và chỉ mang tính hình thức. Mặt
khác, ba thỏa thuận quốc tế được CPTPP nhấn mạnh đều là ba cam kết về các vấn
đề cấp bách.
Đối với quy định về chính sách nội địa của pháp luật trong nước, CPTPP
cũng không đưa ra tiêu chuẩn môi trường cụ thể trong bất kì lĩnh vực nào, mà chỉ
quy định một số yêu cầu mang tính nguyên tắc mà các nước phải tuân thủ như đảm
4 Khoản 1, Điều 20.4


bảo cơ hội tham gia của công chúng trong vấn đề về môi trường (Ví dụ như quy
định về đảm bảo quyền lợi của công chúng trong kiện đòi bồi thường hoặc khắc
phục hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật môi trường 5, yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền có hành động thích hợp bảo vệ lợi ích của họ; nghĩa vụ phải thiết lập cơ chế
cụ thể để công chúng trong nước nộp bản đệ trình (đơn khiếu nại/kiến nghị) về vấn
đề môi trường) hoặc các quy định về những lĩnh vực cụ thể như đa dạng sinh học,
giảm phát thải hay tự vệ trước các sinh vật ngoại lai). Thậm chí, ngay cả trong
những cam kết chung, chẳng hạn khoản 2 điều 20.3 quy định: “Các Bên thừa nhận
chủ quyền của mỗi Bên trong việc thiết lập mức độ bảo vệ môi trường trong nước

của riêng mình và những ưu tiên môi trường của mình, và trong việc thiết lập, thông
qua hoặc sửa đổi các luật và chính sách môi trường cho phù hợp.” Có thể thấy rằng,
CPTPP đã đưa ra các quy định một cách “mở”, để tạo khoảng trống cho các nước
thành viên có thể tự do đưa ra các chính sách cụ thể đối với pháp luật trong nước để
thực hiện các cam kết chung.
Tuy nhiên, việc quy định “mở” như vậy có bị coi là lỏng lẻo hay không?
Việc quy định “mở” như vậy có dẫn đến sự áp dụng không thống nhất trong quá
trình thực hiện và dẫn đến tranh chấp không?
Theo ý kiến của nhóm, cơ chế giám sát và cơ chế giải quyết tranh chấp được
quy định trong CPTPP cho vấn đề về môi trường tại chương này là những điểm
nặng giúp thắt chặt hơn quá trình áp dụng của các quy định “mở” này. Tức, khi
CPTPP quan điểm “mở” trong việc đưa ra các quy định của mỗi nước thành viên,
nhưng “chặt” trong quá trình áp dụng các quy định “mở” này.
Trước hết đối với, cơ chế giám sát, CPTPP quy định các nước thành viên phải
thành lập tiểu ban môi trường – 1 đầu mối của mỗi nước nhằm rà soát việc thực hiện
quy định chung, báo cáo tình hình, đề xuất kiến nghị với các bên và Ủy ban của
Hiệp định 6.
Đối với cơ chế giải quyết tranh chấp, trước hết các bên ưu tiên tham vấn, nếu
tham vấn thất bại, các bên mới sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp chung quy định
tại chương 28 Hiệp định.

5
6

Điều 20.9
Điều 20.19


Cơ chế tham vấn ba cấp: (Mục đích: nỗ lực diễn giải, áp dụng quy định chung và
nỗ lực thông qua đối thoại, trao đổi thông tin, hơp tác để giải quyết vấn đề phát sinh

trong quá trình thực hiện các quy định chung để đi đến một giải pháp thỏa đáng):
Thứ nhất, Tham vấn về môi trường: có thể hiểu là tham vấn trực tiếp giữa bên
yêu cầu và bên phản hồi qua đầu các đầu mối của mỗi nước – Nghĩa là thông qua
Tiểu ban môi trường của mỗi quốc gia (Bên yêu cầu tham vấn sẽ gửi yêu cầu và các
thông tin liên quan tới đầu mối của bên phản hồi, để bên phản hồi biết và tham gia
tham vấn).
Thứ hai, Tham vấn đại diện cấp cao: nếu thất bại trong cấp tham vấn về môi
trường bên tham vấn có thể yêu cầu đại diện của các Tiểu ban môi trường (của mỗi
nước) họp để xem xét giải quyết vấn đề.
Thứ ba, Tham vấn cấp bộ trưởng: nếu thất bại trong cả hai cấp tham vấn trên,
một bên tham vấn có thể đưa vấn đề lên các Bộ trưởng phụ trách chuyên môn của
các bên tham vấn liên quan để giải quyết vấn đề.
Nếu không thể giải quyết vấn đề thông qua tham vấn trong một thời gian nhất
định, các bên giải quyết tranh chấp bằng cơ chế trọng tài theo Cơ chế giải quyết
tranh chấp chung được quy định tại chương 28 của Hiệp định.
Trong khi đó, nếu đối chiếu với các quy định của EVFTA, tranh chấp liên quan
đến lĩnh vực Thương mại và Phát triển bền vững, cụ thể ở đây là tranh chấp khi thực
hiện các cam kết về môi trường trong hiệp định phát sinh sẽ chỉ giải quyết qua một
cấp tham vấn là Tham vấn Chính phủ hoặc Hội đồng chuyên gia mà không sử dụng
Cơ chế giải quyết tranh chấp chung của Hiệp định quy định tại Chương15 EVFTA.
CPTPP

EVFTA

Cơ chế giám sát về môi

Tiểu ban

Môi trường Ủy ban Thương mại và


trường

riêng

Phát triển bền vững

Cơ chế giải quyết tranh

Ba cấp tham vấn, nếu

Một cấp tham vấn là

chấp về môi trường

tham vấn thất bại sử dụng Tham vấn
cơ chế giải quyết tranh
chấp chung
định

Chính phủ

hoặc Hội

đồng chuyên

của Hiệp gia, không

sử dụng cơ

chế giải quyết tranh chấp



chung của Hiệp định

Ngoài cơ chế giám sát và cơ chế giải quyết tranh chấp thắt chặt, thống nhất
nhằm thực hiên hiệu quả các cam kết chung, thì việc đưa ra quy định mang tinh thần
của “nguyên tắc Stanstill 7” (giữ nguyên hiện trạng) tại Khoản 6, Điều 20.3: “Không
ảnh hưởng tới quy định tại khoản 2, các bên nhận thức rằng việc khuyến khích
thương mại hay đầu tư bằng việc giảm mức độ bảo vệ đươc quy định trong pháp
luật môi trường của mình là không phù hợp. Theo đó, một Bên không được từ bỏ
hoặc làm giảm, hoặc đề nghị từ bỏ hoặc làm giảm, các quy định trong luật môi
trường của mình theo hướng làm suy yếu hoặc làm giảm sự bảo vệ trong các điều
luật đó nhằm khuyến khích thương mại và đầu tư giữa các Bên”. Nghĩa là, dù khoản
2 điều này có quy định cho phép các bên tự chủ trong việc thiết lập các mức độ bảo
vệ môi trường riêng thông qua các chính sách, quy định của pháp luật trong nước,
thì quy định “mở” này của CPTPP không đồng nghĩa với việc cho phép các quốc gia
dùng sự tử chủ đó để quy định kém thuận lợi hơn hay nói cách khác làm giảm mức
độ bảo vệ môi trường của các quy định trong nước nhằm mục đích khuyến khích
thương mại, đầu tư. Tức là, tự chủ quy định trong pháp luật nôi địa, nhưng phải
thuận lợi hóa hơn cho các cam kết về môi trường, chứ không làm giảm hay suy yếu
các cam kết đó. Điều này góp phần, nâng cao trách nhiệm quốc gia và đảm bảo các
cam kết về môi trường được thực hiện ở mức độ cao nhất dù đặt quyền tự chủ quy
định cho các quốc gia và không hề đặt ra một quy định cụ thể chung.
Từ đó có thể thấy, đối với CPTPP, môi trường thực sự là một vấn đề được coi
trọng và các bên tham gia đều nỗ lực để bảo vệ và hướng tới một giải pháp thỏa
đáng cho các bên bằng mọi nỗ lực của các cấp.
CHƯƠNG IV. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG
TRONG CPTPP TỚI VIỆT NAM
IV.1. Cơ hội


7 Nguyên tắc này được áp dụng chính thức đối với các Cam kết trong lĩnh vực Dịch vụ và Đầu tư của
CPTPP, có nội dung: “Các nước được quyền sửa đổi nội dung bảo lưu nhưng với điều kiện việc sửa đổi
không được kém thuận lợi hơn nội dung đã được bảo lưu trong Phụ lục. Nguyên tắc này gọi là nguyên tắc
“giữ nguyên hiện trạng (standstill)”


Trước đây, Việt Nam đã ở trong tình trạng hy sinh môi trường để đánh đổi sự
phát triển. Điều này gây ra những tổn hại trầm trọng cho vấn đề môi trường ở Việt
Nam hiện nay. Việc tham gia CPTPP đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi và nâng cao ý
thức về môi trường để phù hợp với các cam kết của tổ chức quốc tế.
Trong khuôn khổ của CPTPP, 11 thành viên cam kết thực thi có hiệu quả
pháp luật về môi trường và không làm suy giảm hệ thống pháp luật của các quốc gia
về môi trường nhằm khuyến khích thương mại và đầu tư. Cụ thể, CPTPP đưa ra các
quy định về thúc đẩy thương mại, bảo vệ môi trường và thực thi có hiệu quả pháp
luật về môi trường, cũng như tăng cường năng lực của các bên để giải quyết các vấn
đề môi trường liên quan đến thương mại. Chính vì thế, vấn đề môi trường và phát
triển kinh tế của Việt Nam sẽ trở nên cân bằng hơn, thậm chí, vấn đề môi trường có
thể được ưu tiên hơn nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
Đặc biệt, CPTPP còn kêu gọi tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành
viên để bảo vệ và bảo tồn môi trường và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên
nhiên, đóng góp vào phát triển bền vững. Các quy định của CPTPP cũng tập trung
vào một số thách thức chung về môi trường đe dọa đến sức khỏe con người và đa
dạng sinh học trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, như tình trạng ô nhiễm môi
trường, buôn bán động vật hoang dã, khai thác, đánh bắt trái phép... Để giải quyết
các thách thức này, CPTPP kêu gọi các quốc gia thành viên xây dựng cơ chế thực
hiện cam kết về môi trường, như thực hiện các văn kiện đa phương, xóa bỏ các bảo
hộ gây tổn hại môi trường, xóa bỏ thuế quan và rào cản thương mại theo hướng bảo
vệ môi trường. CPTPP cũng kêu gọi sự hợp tác giữa các chính phủ để giải quyết các
mối đe dọa, tội phạm môi trường, trợ giúp các quốc gia có thu nhập bình quân đầu
người thấp, nâng cao năng lực thực thi pháp luật về môi trường. Từ đó, thông qua

hợp tác, Việt Nam có thể giải quyết được các vấn đề về môi trường đang tồn đọng,
và đó là động lực để Việt Nam phát triển và hoàn thiện một cách tích cực nhằm đáp
ứng yêu cầu của xu thế chung.
IV.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội mà CPTPP mang lại thì Việt Nam cũng phải chịu rất
nhiều những thách thức. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, nước ta là một quốc gia
đang phát triển với điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và nguồn lực dành cho


hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn chế, việc thực thi một cách đầy đủ các nghĩa
vụ liên quan đến môi trường cam kết trong CPTPP đặt ra những áp lực và thậm chí
là rủi ro không nhỏ đối với Việt Nam, cụ thể:
Thứ nhất, thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế:
Hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường vẫn đang trong quá trình tiếp
tục được hoàn thiện. Tuy đã có nhiều chính sách, pháp luật và môi trường được ban
hành, nhưng khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm
chí còn chồng chéo trong một số lĩnh vực cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các
cam kết quốc tế;
Thực thi pháp luật về môi trường chưa thực sự hiệu quả như mong muốn.
Mặc dù đã có các luật và nhiều quy định về bảo vệ môi trường cùng với việc tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt các vi phạm pháp luật về môi trường,
nhưng hiện vẫn còn nhiều vi phạm pháp luật về môi trường được phát hiện, trong đó
có những vụ việc vi phạm nghiêm trọng về môi trường;
Thứ hai, thách thức về kinh tế:
Đối với nhiều khu vực và thị trường, việc xuất khẩu hàng hóa cũng phải chịu
nhiều sức ép liên quan đến việc phải tuân thủ các quy định và rào cản thương mại về
môi trường của các nước nhập khẩu (thông thường là các nước phát triển có hệ
thống các quy định và tiêu chuẩn môi trường cao). Đây là một trong những cản trở
lớn đối với Việt Nam, một nước đang có lợi thế về xuất khẩu các mặt hàng có tính
nhạy cảm về môi trường như nông sản, lâm sản và thủy sản.

Cùng với việc xóa bỏ dần các rào cản thương mại, việc nhập khẩu hàng hóa,
vật tư, công nghệ trong điều kiện quy định tiêu chuẩn về môi trường còn thấp và
năng lực kiểm soát tuân thủ còn chưa chặt chẽ sẽ dẫn đến nguy cơ Việt Nam trở
thành bãi chứa các thiết bị, dây chuyền lạc hậu, là nơi tiêu thụ các loại hàng hóa
kém chất lượng. Bên cạnh đó, khi hàng hóa nước ngoài đa dạng thì người tiêu dùng
Việt Nam sẽ quan tâm nhiều hơn đến những sản phẩm đó thay vì hàng hóa nội địa.
Chính vì thế, nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Thứ ba, thách thức đối với các doanh nghiệp:


Thách thức chung đối với cộng đồng doanh nghiệp hiện nay là quá trình phát
triển, sản xuất kinh doanh quá phụ thuộc vào nền kinh tế nâu, tức là sử dụng phần
lớn nguyên nhiên liệu từ thiên nhiên; chưa đầu tư nguồn lực xứng đáng và lúng túng
trong bảo vệ môi trường; chính sách pháp luật về tài nguyên và môi trường chưa
hoàn thiện dẫn đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp chưa hiệu quả, tính rủi ro cao;
chưa chọn lựa mô hình tăng trưởng có tính bền vững và thân thiện môi trường. Vì
vậy, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn để đảm bảo việc quản lý tốt nhất, hiệu
quả nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường bền vững.
Thứ tư, thách thức đối với xã hội:
Nhận thức và ý thức về bảo vệ môi trường của một bộ phận còn chưa cao.
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự gia tăng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Thời gian qua, mặc dù đã có chuyển biến về nhận thức và ý thức bảo vệ môi
trường, tuy nhiên xuất phát từ lý do phát triển kinh tế hoặc khó khăn về kinh tế mà ý
thức bảo vệ môi trường của đa số người dân, thậm chí ở cả một số cán bộ làm công
tác quản lý vẫn còn nhiều hạn chế;
Bên cạnh đó, năng lực và kinh nghiệm của một số cán bộ trong việc xử lý các
vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hiện nhiều cán bộ quản lý nhà nước có liên quan chưa từng giải quyết hoặc được
tiếp cận rất ít vấn đề này, do vậy những cán bộ này không có nhiều kinh nghiệm
trong xử lý các vấn đề thương mại quốc tế liên quan đến môi trường.

Từ những cơ hội và thách thức kể ra ở trên, Việt Nam cần phải đưa ra những
giải pháp cụ thể để đẩy lùi những khó khăn và tận dụng tốt nhất những cơ hội mà
CPTPP mang lại.


KẾT LUẬN
Như vậy, một lần nữa có thể khẳng định, đối với Việt Nam nói riêng, CPTPP
thực sự là một hiệp định “mẫu” về môi trường dưới phạm vi của một Hiệp định
thương mại. CPTPP không chỉ đưa ra các yêu cầu mang tính mở, để khoảng trống
cho các nước thành viên tự do hành động trong phạm vi đã cam kết, mà còn quy
định về một hệ thống tham vấn ba cấp và đặc biệt là một cơ chế giải quyết có tình
ràng buộc qua các công cụ kinh tế, khiến các bên để tránh phải “trả giá” cho hành vi
xâm hại môi trường, phải nâng cao ý thức và tự mình tuân thủ theo các cam kết đã
thỏa thuận.
Chính sự chặt chẽ đó đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam về việc cải cách, cải
thiện các quy định về môi trường hơn nữa để tạo vị thế và uy tín của mình trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng cũng chính bởi sự nghiêm khắc
đó, bên cạnh những thách thức về thể chế và thực thi, mặt thuận lợi là tạo tiền đề và
động lực để bảo vệ môi trường tốt hơn là một trong những điều cốt lõi nhất. Bởi nó
là mục tiêu lâu dài, chung nhất của không chỉ Việt Nam mà của cả cộng đồng các
nước CPTPP, cộng đồng quốc tế, để hướng tới phát triển bền vững về kinh tế,
thương mại hay chính trị, văn hóa, xã hội.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường ĐH Luật HN – GS.TS Lê Hồng Hạnh (chủ biên), Giáo trình Luật Môi
trường, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2016, chương XIV
2. Chương 20 Hiệp định CPTPP
3. />4. />5. />6. />fbclid=IwAR0NQ_5uxc0aayIVSA3Tbow1EtJnq3dmHT
CHb3sBz9Mcvw8F4uGxxdFPP6o

7. />8. />9. />10. />


×