PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI THỊ XÃ SẦM
SƠN THANH HOÁ
I-/ ĐẶC ĐIỂM CHUNG
1-/ Đặc điểm của thị xã Sầm Sơn.
Thị xẫ Sầm Sơn là một thị xã du lịch ven biển có vị trí địa lý quan trọng
trong tỉnh Thanh Hoá. Thị xã Sầm Sơn được thành lập từ năm 1980 (được
tách từ huyện Quảng Xương -Thanh Hoá). Ban đầu với 3 xã, 2 phường từ năm
1997 1 xã đã chuyển thành phường vì vậy hiện nay thị xã có 3 phường và 2 xã.
1.1 Điều kiện địa lý và dân số
Diện tích tự nhiên trên 18 km2,với dân số là 53676 người (Mật độ dân
số gần 3000 người/ 1km2)
Phía Bắc giáp huyện Hoàng Hoá (ranh giới là sông Mã)
Phía Tây giáp huyện Quảng Xương ( ranh giới là sông Đơ)
Phía Đông và Nam là giáp Biển Đông
Diện tích bờ biển là 9 km .
1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội
* Kinh tế.
Thị xã Sầm Sơn có tiềm năng phát triển về du lịch. Hiện nay ngành du lịch
dịch vụ nghỉ mát đang là một ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh
tế của thị xẫ Sầm Sơn, hàng năm đóng góp lớn vào tổng ngân sách của địa
phương (thu từ việc bán vé nghỉ mát, du lịch đạt trên 4 tỷ đồng). Ngoài ra
ngành du lịch đã tạo ra một số lượng chỗ làm việc lớn.Tuy nhiên ngành du lịch
nghỉ mát chỉ hoạt động chủ yếu trong 3 tháng hè (hoạt động từ khoảng từ
19/5 đến 19/8). Ngành truyền thống của thị xã Sầm Sơn là đánh bắt và chế
biến thuỷ hải sản chiếm số lượng lao động chủ yếu của thị xã trong năm. Một
phần ngành nông nghiệp đan xen với ngành nghề khác như vận tải biển, xây
dựng, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu...mặc dù vậy
thị xã Sầm Sơn còn một lực lượng lao động lớn thiếu việc làm, một bộ phận
phải đi làm ăn ở các tỉnh ngoài...
* Xã hội
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp và chiến tranh biên giới
bảo vệ hoà bình của đất nước ta Sầm Sơn đống góp nhiều sức người, sức của
cho cách mạng.
Đến nay điểm lại có trên 540 liệt sỹ hy sinh vì tổ quốc, gần 300 thương
binh, trên 110 bệnh binh và hàng ngàn người có công trong kháng chiến đã
được Nhà nước khen thưởng huân, huy chương các loại.
Do bị ảnh hưởng của chiến tranh để lại hậu quả nặng nề cho con người
Sầm Sơn, đó là 1650 gia đình có nạn nhân chiến tranh, trong đó không ít người
nhiễm chất độc hoá học của Mỹ
Các vấn đề xã hội khác cũng đáng được quan tâm, hiện nay có gần 300
đối tượng già cả cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn và trẻ mồ côi ( trong đó có gần 200 đối tượng đang được hưởng
chế độ bảo trợ xã hội theo QĐ 167/ TTg của thủ tướng Chính phủ ban hành).
Tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cũng đang từng bước
được quan tâm chăm sóc vầ giúp đơ có hiệu quả, hiện nay gần 40 trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn đang được hưởng trợ cấp từ quỹ Bảo vệ và chăm sóc trẻ
em hỗ trợ.
Tình trạng các vấn đề xã hội trên địa bàn đang là vấn đề nhức nhối của
thị xã, các tệ nạn xã hội như nghiện hút, tiêm chích ma tuý, gái mại dâm, tệ nạn
cờ bạc và tội phạm ...nhìn chung các tệ nạn xã hội đó đã và đang được ngăn
chặn và đẩy lùi.
2-/ Đặc điểm chung của phòng.
Phòng Tổ chức Lao động Thương binh và Xã hội được thành lập từ năm
1980 cùng với sự thành lập của uỷ ban nhân dân thị xã Sầm Sơn. Phòng có
nhiệm vụ tham mưu cho uỷ và chính quyền về công tác tổ chức cán bộ, sử dụng
công chức, viên chức trong thị xã, tổ chức và xây dựng chính quyền cấp cơ sở
xã, phường. Trực tiếp phụ trách công tác thương binh liệt sỹ và người có công
trên địa bàn hiện nay phòng chịu quản lý theo ngành dọc của uỷ ban nhân dân
tỉnh Thanh Hoá, Ban Tổ chức chính quyền tỉnh và Sở Lao động Thương binh và
xã hội tỉnh Thanh Hoá đồng thời chịu sự quản lý theo ngành dọc của uỷ ban
nhân dân thị xã Sầm Sơn, phòng tổ chức chỉ đạo theo ngành dọc các ban chính
sách xã, phường.
Trong cơ cấu tổ chức cuả phòng, hiện nay phòng có 6 cán bộ phụ trách
các mảng công việc khác nhau.
Các lĩnh vực mà phòng phụ trách chủ yếu là:
-Công tác tổ chức.
-Công tác về lao động .
-Công tác thực hiện chính sách người có công.
-Các vấn đề xã hội:
+ Công tác phòng chống tệ nạn xã hội.
+ Công tác Bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
+ Công tác về chế độ bảo trợ xã hội.
- Các cán bộ trong phòng hiện nay đang phải kiêm nhiệm nhiều công việc,
vì vậy, chất lượng chuyên môn của công việc không cao, một số công việc còn
không được liên tục, kịp thời chẳng như công tác về lao động. Trong công tác
này chỉ hoạt động theo thời điểm không được hoạt động theo thời kỳ, do đó
thiếu về số liệu và sự quản lý chỉ mang tính ước lượng, thiếu tính thực tế.Trong
thực tế công tác lao động lúc nào cần số liệu thì sang phòng thống kê xin số
liệu.
Trưởng phòng
P.Trưởng phòng
Cán bộ tổ chức và lao động
Cán bộ PCTNXH và công tác trẻ em
Cán bộ chính sách ưu đãi người có công
Cán bộ kế toán và bảo trợ xã hội
II-/ PHÂN TÍCH CÔNG TÁC TỔ CHỨC CỦA PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG THƯƠNG
BINH VÀ XÃ HỘI-THỊ XÃ SẦM SƠN-THANH HOÁ.
1-/ Cơ cấu cán bộ của phòng.
ST
T
Họ và tên
Năm
sinh
Chức vụ Trình độ Chuyên môn
1 Trịnh Minh Chính 1950 Trưởng phòng Đại học Quản trị kinh doanh
2 Nguyễn Đăng Can 1957 P. Trưởng phòng Đại học Quản trị kinh doanh
3 Đặng Minh Nhâm 1956 Chuyên viên Đại học Quản lý xã hội
4 Lê Ngọc Tố 1957 Chuyên viên Đại học Quản lý xã hội
5 Nguyễn Thái Hoà 1972 Kế toán Đại học Kế toán
6 Nguyễn Mạnh Hùng 1976 Chuyên viên Trung cấp Kế toán bảo trợ xã hội
SƠ ĐỒ - CƠ CẤU CÁN BỘ CỦA PHÒNG
SƠ ĐỒ - CƠ CẤU BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG THƯỜNG
BINH VÀ XÃ HỘI.
2-/ Phân tích chức năng, nhiệm vụ của phòng.
Phòng Tổ chức Lao động thương binh và Xã hội là cơ quan chuyên môn
của uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố có con dấu riêng, có tài khoản tại
kho bạc Nhà nước để hoạt động nghiệp vụ. Biên chế năm trong tổng biên chế
của uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố, bố trí số lượng cán bộ từ 3-5
người để giúp uỷ ban nhân dân quản lý các mặt công tác lao động (theo luật
lao động), công tác xoá đói giảm nghèo, đối tượng có công với cách mạng, đối
tượng xã hội theo quy định bảo trợ xã hội.Thực hiện chinh sách đối với các đối
tượng trên theo quy định của Nhà nước và công tác phòng chống tệ nạn xã hội.
Đồng thời thực hiện công tác tổ chức cán bộ, sử dụng công chức, viên chức
trong toàn bộ thị xã, tổ chức và xây dựng chính quyền ở cấp cơ sở xã, phường,
ngoài ra thực hiện công tác tổ chức Nhà nước khác trên địa bàn.Theo quyết
định số 210 TC/ UBTH ngày 11/ 7/ 1996 của chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh
Thanh Hoá).
Việc thành lập phòng Lao động Thương binh và Xã hội và phòng Tôr chức
chính quyền ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh trên cơ sở tách từ
phòng Tổ chức Lao động Thương binh và Xã hội. Việc thành lập phòng Tổ chức
Lao động Thương binh và Xã hội -Thị xã Sầm Sơn-Thanh Hoá được thành lập
từ năm 1980 và đến năm 1985 tách thành 2 phòng nhưng đến năm 1989 lại
hợp thành 1 phòng. Đến năm 1996 Chủ tịch tỉnh đã quyết định tách ra thành 2
phòng và đưa đến cho uỷ ban nhân dân thị xã Sầm Sơn và thị xã đã đưa về
phòng để triển khai thực hiện, nhưng do điều kiện kinh tế của địa bàn hẹp, dân
số ít nên đối tượng quản lý của phòng ít, vì vậy việc tách phòng không được
thực hiện đúng với quyết định trên.Việc ghép phòng là hợp lý trong công tác tổ
chức cán bộ, tuy nhiên cũng có hạn chế đó là các cán bộ trong phòng phải kiêm
nhiệm nhiều công việc dẫn đến từng công việc không được thực hiện liên tục,
đầy đủ, kịp thời và chất lượng chuyên sâu của công việc không được cao. Theo
sự phân tích yêu cầu của công việc thì phòng đang còn thiếu cán bộ do vậy theo
chúng tôi cần phải tuyển thêm 1 cán bộ.
*Phân tích chức năng và nhiệm vụ của phòng
Theo thông tư liên tịch số 22/1997/TT-LĐTBXH_TCCP ngày 29/12/1997
của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Ban Tổ chức cán bộ chính phủ thì
quyền hạn và nhiệm vụ của phòng như sau:
+Nhiệm vụ và quyền hạn .
-Xây dựng chương trình kế hoạch dài hạn, hàng năm, hàng tháng, hàng
quý về công tác thương binh, liệt sỹ và người có công theo hướng dẫn của Sở
Lao động -Thương binh và Xã hội và sự chỉ đạo của uỷ ban nhân dân thị xã
Sầm Sơn tổ chức triển khai thực hiện chương trình kế hoạch đã duyệt.
-Hướng dẫn, kiểm tra, thẩm định hồ sơ thủ tục, quy trình xác nhận các đối
tượng được hưởng chính sách ưu đãi người có công để trình lên cấp thẩm
quyền quyết định.
-Lập và lưu giữ quản lý danh sách người có công, thống kê tổng hợp, điều
chỉnh chế độ được hưởng của các đối tượng người có công, thực hiện chế độ
thông tin báo cáo định kỳ, hướng dẫn việc lập danh sách người có công ở các
xã, phường.
-Tổ chức thực hiện việc chi trả cho các đối tượng được hưởng chế độ ưu
đãi, toàn bộ các khoản kinh phí cho lĩnh vực thương binh, liệt sỹ và người có
công, thanh toán, quyết toán theo quy định cuả chế độ tài chính hiện hành.
-Trả lời giải quyết các đơn thư khiếu lại của tập thể, cá nhân về chinh sách
chế độ thương binh liệt sỹ và người có công theo thẩm quyền.
-Lập danh sách mộ liệt sỹ và sơ đồ mộ chí ở nghĩa trangliệt sỹ, hướng dẫn
viễc xây dưng tu bổ, nâng cấp mộ liệt sỹ, nghĩa trang liệt sỹ, tượng đài, bia ghi
tên liệt sỹ, hướng dẫn quản lý, giữ gìncác công trình ghi công này ở cấp huyện,
thực hiện báo tin và tổ chức viéng thăm mộ liệt và nghĩa trang liệt sỹ theo sự
hướng dẫn của Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
-Phối hợp các cơ quan liên quan trong huyện thực hiện khảo sát, tìm kiếm
quy tập hài cốt liệt sỹ.
-Giúp uỷ ban nhân dân thị xã phối hợp với các nhành đoàn thể thực hiện
công tác tuyên truyền, thi đua xây dựng các mô hình các phong trào chăm sóc
thương binh, gia đình và người có công trên địa bàn.
-Thực hiện sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về lĩnh vực thương binh, liệt
sỹ và người có công, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cấp xã, phường theo sự
hướng dẫn của Sở lao động -Thương binh và Xã hội và sự chỉ đạo của uỷ ban
nhân dân thị xã.
-Tổ chức biên chế: Số lượng biên chế cán bộ chuyên trách làm công tác
thương binh, liệt sỹ và người có công thuộc phòng phải đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
- Nhìn chung chức năng và nhiệm vụ trên là phù hợp với điều kiện của thị
xã tuy nhiên chức năng nhiệm vụ trên chỉ mang tính chất chung chung, không
cụ thể chi tiết do vậy các hoạt động thiếu tính chủ động, kịp thời không đáp
ứng với yêu cầu của công việc.
-Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng trên thực tế chỉ đúng với
chức năng nhiệm vụ ở tầm vĩ mô, đúng với những khoản mục yêu cầu. Do vậy
việc thực hiện đạt kết quả không cao, còn nhiều sự bất cập không hợp lý, trong
quá trình công tác việc báo cáo thường kỳ lên cấp trên chỉ mang tính thời điểm
không mang tính thời kỳ, không liên tục, không đầy đủ.
- Trong công tác tổ chức phòng đã tham mưu, đề xuất với uỷ ban nhân
dân thị xã về sự bố trí, sắp xếp tổ chức cán bộ, công chức, viên chức trong thị
xã, nhưng trong công tác tổ chức trong phòng đã thực hiện không đúng, không
hợp lý, đối với yêu cầu của công việc và sự phù hợp với số lượng cán bộ trong
phòng, trong công tác tổ chức lịch công tác của các cán bộ trong toàn bộ thị xã,
phòng tham mưu với uỷ ban nhân dân thị xã trong việc tổ chức các hội nghị
lịch làm việc của cán bộ trong thị xã là hợp lý, đúng với yêu cầu của công tác
quản lý Nhà nước của uỷ ban nhân dân thị xã và các phòng ban trực thuộc thị
xã, nguyên nhân là công tác tổ chức của phòng do Ban tổ chức chính quyền
tỉnh quyết định, dẫn đến tình trạng thiếu tính chủ động trong công tác.
Đối với công tác lao động, cán bộ chuyên trách trong công tác này không
thực hiện những yêu cầu của công việc tình hình lao động tại thị xã Sầm Sơn là
rất quan trọng, lực lượng lao động luôn luôn biến động, chất lượng lao động
còn thấp tình trạng thiếu việc làm còn nhiều, do vậy công tác lao động là rất
cần thiết cần có sự quản lý chặt chẽ. Đặc biệt trong công tác đào tạo người lao
động, xem xét và bố trí công việc cho người lao động nhằm nâng cao đời sống
cho người dân. Trên thực tế công tác lao động trong phòng không được chú
trọng, việc quản lý lỏng lẻo, không chặt chẽ không liên tục, đầy đủ, thiếu về số
liệu và thông tin về người lao động gần như không có tác động đến người lao
động. Nguyên nhân của sự không hợp lý trên là do cán bộ phụ trách công tác
lao động không được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ về lao động đồng
thời lại còn kiêm cả công tác tổ chức của phòng nên việc phụ trách 2 mảng
công việc trên dẫn đến sự thiếu chú ý, thiếu quan tâm trong công việc, không có
đội chuyên sâu về công tác lao động.
Công tác chính sách với người có công.
Nhìn chung đã quản lý tốt các đối tượng chính sách. Lập và lưu trữ danh
sách những người có công, hướng dẫn và giải quyết các hồ sơ thủ tục cho các
đối tượng chính sách. Thực hiện các công tác chi trả, trợ cấp đúng với quy
định, đúng với chế độ. Tuy nhiên trong công tác này vẫn còn nhiều trường hợp
bị khấp khểnh thiếu đồng bộ.
3-/ Phân tích các mối quan hệ.
3.1 Mối quan hệ với cấp tỉnh.
* Về lĩnh vực tổ chức bộ máy và tổ chức cán bộ.
Quan hệ trực tiếp với ban tổ chức chính quyền tình Thanh Hoá.
Báo cáo về công tác tổ chức các ngành chức năng bộ máy chính quyền thị
xã, bộ máy chính quyền cấp cơ sở xã, phường.
Báo cáo về tổng biên chế công chức Nhà nước, hành chính sự nghiệp và
tổng nhân sự trong bộ máy chính quyền thị xã.
Báo cáo về công tác tổ chức của mỗi khoá hội đồng nhân dân.
Báo cáo một số hoạt động khác trong công tác tổ chức.
* Quan hệ về lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội.
Dưới sự chỉ đạo của Sở lao động - thương binh và xã hội tỉnh Thanh Hoá
về công tác chuyên môn, nghiệp vụ của ngành.
UBND tỉnh Thanh Hoá
Sở LĐ TB&XH UBND thị xã Sầm Sơn
Phòng TCTB&XH UBND xã, phường
Ban chính sách xã, phường
Xét duyệt các hồ sơ đối tượng chính sách ưu đãi người có công (theo pháp
lệnh ưu đãi người có công) đồng thời đề nghị với Sở ra quyết định trợ cấp cho
các đối tượng chính sách (theo sự uỷ quyền của uỷ ban nhân dân tỉnh)
Tất cả mọi hồ sơ thủ tục phòng đều phải tiếp nhận, hướng dẫn và duyệt
hồ sơ sau đó báo cáo lên Sở lao động - thương binh và xã hội.
Đây là mối quan hệ theo ngành dọc, phòng chịu sự chỉ đạo hướng dẫn từ
cấp tỉnh, sự thực hiện theo quyền hạn và chức năng của mình. Quan hệ của
phòng với cấp tỉnh là quan hệ thuộc về chuyên môn và sự chỉ đạo của ngành,
thông qua các công văn quyết định và sự thông tin ngược của phòng lên cấp
tỉnh là các báo cáo thường kỳ của phòng. Các báo cáo này mang tính chuyên
môn nghiệp vụ mà các cán bộ trong phòng chuyên trách.
Trong mối quan hệ trên, nói chung đều thực hiện theo quy định của Nhà
nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
Sự chỉ đạo của cấp tỉnh nhiều khi mang tính hành chính không phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của phòng và của thị xã Sầm Sơn, điều này được thể
hiện thông qua việc các cơ quan quyết định của tỉnh không phù hợp với điều
kiện của thị xã.
Các báo cáo thường kỳ của phòng, các cán bộ trong phòng nhiều khi
không được đầy đủ liên tục, một số báo cáo mang tính hình thức thiếu thực tế.
Trong quá trình hoạt động của phòng do sự chỉ đạo, chi phối của lãnh đạo
cấp trên nên vẫn còn nhiều bất cập, thiếu tính chủ động trong công tác, nhiều
công việc làm theo sự yêu cầu của lãnh đạo cấp trên... do đó thiếu tính thực
tiễn của công việc.
3.2 Mối quan hệ với cấp uỷ và chính quyền thị xã Sầm Sơn.