Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Pháp luật bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.99 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ÂU XUÂN ÁNH

PH¸P LUËT B¶O HIÓM H¦U TRÝ Tù NGUYÖN
ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

U XUN NH

PHáP LUậT BảO HIểM HƯU TRí Tự NGUYệN
ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 8380101.05

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS Lấ TH HOI THU

H NI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Âu Xuân Ánh


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ TỰ
NGUYỆN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ..................... 7
1.1.

Khái quát chung về bảo hiểm hưu trí tự nguyện .......................... 7

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm hưu trí tự nguyện ............................................. 7
1.1.2. Ý nghĩa bảo hiểm hiểm hưu trí tự nguyện ........................................ 9

1.2.

Pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện.................................... 11

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện ........................ 11
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện ....... 13
1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm hưu trí tự nguyện .............................. 16
1.3.

Pháp luật về bảo hiểm hưu trí của một số quốc gia trên thế
giới và gợi mở cho Việt Nam....................................................... 21

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................... 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM HƯU
TRÍ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM ..............................26
2.1.

Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật về
bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt Nam ..................................... 26

2.2.

Thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm
hưu trí tự nguyện và thực tiễn thực hiện .................................... 31

2.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm hưu trí hội tự nguyện........................ 31
2.2.2. Mức đóng và thời gian đóng bảo hiểm hưu trí tự nguyện ................ 32


2.2.3. Các chế độ bảo hiểm hưu trí tự nguyện .......................................... 34

2.2.4. Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm
hưu trí tự nguyện .......................................................................... 38
2.3.

Thực trạng thi hành pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện
ở Việt Nam.................................................................................. 42

2.3.1. Những kết quả đạt được của bảo hiểm hưu trí tự nguyện ................ 42
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế của bảo hiểm hưu trí tự nguyện .................. 46
2.3.3. Nguyên nhân của sự hạn chế về bảo hiểm hưu trí tự nguyện ........... 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................... 53
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN Ở
VIỆT NAM ................................................................................. 54
3.1.

Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt Nam ..... 54

3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí
tự nguyện ở Việt Nam................................................................. 59

3.3.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt Nam hiện nay ........... 66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................... 73

KẾT LUẬN ............................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASXH

An sinh xã hội

BHHT

Bảo hiểm hưu trí

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

Bộ LĐ-TB&XH

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

CNTT

Công nghệ thông tin


ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

KNLĐ

Khả năng lao động

NSNN

Ngân sách Nhà nước

Nghị quyết số 21-NQ/TW Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của
Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác BHXH, BHYT
Nghị quyết số 28-NQ/TW Nghị quyết số ghị quyết số 28-NQ/TW ngày
19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 về
cải cách chính sách BHXH
NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Con người muốn tồn tại và phát triển được trước hết phải ăn, mặc, ở
và đi lại. Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động
để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều
thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng
văn minh hơn. Chính vì thế, nhằm để thoả mãn những nhu cầu sinh sống và
phát triển thì con người phải phụ thuộc vào chính khả năng lao động của
họ. Nhưng trong thực tế, cuộc sống mỗi người không phải lúc nào cũng gặp
thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái
lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều làm cho người ta bị
giảm hoặc mất thu nhập hoặc ảnh hưởng đến các điều kiện sinh hoạt khác.
Ví dụ như, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai nạn trong lao động, mất việc làm
hay khi tuổi già khả năng lao động hay khả năng tự phục vụ bị suy giảm...
Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống
không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện
thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám và điều trị khi ốm đau; tai
nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng... Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm
ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm
bọc lẫn nhau trong một nội bộ cộng đồng; đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự
cứu trợ của Nhà nước... Bên cạnh sự phát triển của khoa học – công nghệ
thì sự tiến bộ của nền y học đang làm cho tuổi thọ trung bình của con người
ngày càng tăng nhanh. Nếu con người không có thu nhập ổn định khi về
hưu thì cuộc sống người lao động sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm
bảo và duy trì được các nhu cầu thiết yếu hàng ngày.

1


Việc gia tăng số lượng người nghỉ hưu sẽ có sự tác động rất lớn đến
nhiều lĩnh vực trong xã hội như hệt thống chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm hưu

trí, việc làm, ... Đứng trước tình hình đó, các tổ chức quốc tế cũng như các
quốc gia trên thế giới từ lâu đã vô cùng quan tâm và đã ban hành các chính
sách pháp luật về BHXH nhằm giải quyết và đáp ứng kịp thời đối với nhu cầu
đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi nghỉ hưu.
Với quá trình phát trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các
chính sách của bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng đã
và đang từng bước xây dựng ngày càng hòa thiện và phù hợp với tình hình
thực tế của đất nước và thông lệ quốc tế, dần khẳng định vai trò là một trong
những trụ cột chính của hệ thống ASXH. Đặc biệt với sự ra đời của Luật
BHXH năm 2014 có nhiều điểm mới và tiến bộ hơn so với các quy định
trước đó. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực thì trải qua hơn 2 năm
thực hiện thì một số quy định về bảo hiểm hưu trí đã bộc lộ một số điểm còn
hạn chế. Theo quy định của pháp luật thì chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay
tồn tại dưới hai hình thức, cả tự nguyện và bắt buộc. Đây là chế độ trợ cấp
dài hạn cho người lao động khi già yếu, hết tuổi lao động, nhằm cung cấp
một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập không được nhận từ nghề
nghiệp do phải nghỉ hưu. Có thể nói, đây là chế độ trợ cấp quan trọng nhất
trong các chế độ trợ cấp BHXH hiện hành.
Việc đánh giá khách quan, toàn diện về bảo hiểm hưu trí tự nguyện
thông qua các loại hình BHXH ở nước ta hiện nay, tìm ra những bất cập, hạn
chế trong thực tiễn triển khai, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần hoàn
thiện chính sách trong dài hạn, ổn định dư luận xã hội, tạo lòng tin trong nhân
dân đang là mối quan tâm rất lớn của các cơ quan xây dựng, tổ chức thực hiện
chính sách BHXH, chính vì vậy tôi chọn đề tài “Pháp luật bảo hiểm hưu trí
tự nguyện ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bảo hiểm xã hội tự nguyện đang được Đảng và nhà nước ta đặc biệt
quan tâm, phát triển không chỉ trong thực tiễn triển khai mà còn ở những công
trình nghiên cứu khoa học. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
- Tác giả TS.Nguyễn Tiến Phú: "Cơ sở lý luận cho việc thực hiện bảo
hiểm xã hội tự nguyện Việt Nam thời gian tới”, năm 2001;
- Tác giả PGS.TS Lê Thị Hoài Thu với bài viết: “Chế độ bảo hiểm xã
hội tự nguyện ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2007.
- Tác giả Lê Thị Thu Hằng với công trình:“Bảo hiểm xã hội tự nguyện
ở Việt Nam", năm 2007;
-Tác giả Hoàng Quốc Đạt với công trình: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện –
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật”, năm 2012.
-Tác giả Đặng Thị Vân Khánh với bài viết: "Bảo hiểm xã hội tự nguyện
- 5 năm thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện ", năm 2013.
Tất cả những công trình trên đây đều tập trung nghiên cứu chủ yếu về
lĩnh vực bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về loại hình bảo
hiểm hưu trí tự nguyện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật bảo
hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt Nam” là việc cần thiết cả về vấn đề lý luận và
thực tiễn, để từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về pháp luật hưu trí tự
nguyện tại Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài làm rõ các vấn đề sau:
Nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm hưu trí tự
nguyện, đánh giá toàn diện thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về bảo hiểm hưu trí tự nguyện và thực tiễn thực hiện bảo hiểm hưu trí
tự nguyện, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp

3



luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự
nguyện ở Việt Nam.
Từ những mục đích trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể như sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa và các chế độ của BHHT tự nguyện,
khái quát nội dung pháp luật về BHHT tự nguyện ở các quốc gia trên thể giới,
từ đó rút ra các gợi mở cho Việt Nam
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực
hiện các quy định về bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở nước ta; từ đó rút ra các
hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về BHHT tự nguyện
- Đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam về bảo hiểm hưu trí tự nguyện, cụ thể là các quy định trong Bộ
luật lao độn năm 2012, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và các văn bản hướng
dẫn. Bên cạnh đó luận văn còn nghiên cứu một số quy định của ILO và pháp
luật của một số quốc gia trên thế giới về bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện trong luận văn được nghiên cứu trong luận
văn được nghiên cứu dưới góc độ pháp lý về các quy định trong các nội dung
về đối tượng, mức đóng, thời gian đóng, các chế độ, quỹ và các quy định về
giải quyết tranh chấp khiếu nại về bảo hiểm hưu trí tự nguyện;
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi các
quy định của pháp luật BHXH Việt Nam về bảo hiểm hiểm hưu trí tự nguyện

4



- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành, so sánh một số nội dung của pháp luật hiện hành với các quy định
ở các giai đoạn trước đây về vấn đề bảo hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt Nam
- Phạm vi nội dung: Pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện bao gồm
tổng hợp các quy định của Nhà nước về đối tượng tham gia, mức đóng, thời
gian đóng, các chế độ, quyền lợi, quỹ bảo hiểm và các quy định giải quyết
tranh chấp về bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
Luận văn không nghiên cứu về bảo hiểm hưu trí tự nguyện bổ sung,
trình tự thủ tục thực hiện bảo hiểm, các quy định về khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đặc biệt
là các chính sách về bảo hiểm xã hội trong đó có bảo hiểm hưu trí tự nguyện
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của ngành luật
học như các phương pháp lịch sử, phân tích, so sách, so sánh luật học, chứng
minh, tổng hợp, dự báo khoa học
Trong quá trình triển khai thực hiện luận văn, phụ thuộc từng yêu cầu
về nội dung vấn đề đặt ra mà có thể kết hợp đan xen các phương pháp nghiên
cứu cụ thể.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện đang là vấn đề được các quốc gia trên thế
giới dành nhiều sự quan tâm. Nghiên cứu này góp phần làm rõ một số vấn đề
lý luận về bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Cụ thể là nêu rõ hơn khái niệm về bảo
hiểm hưu trí tự nguyện, khái niệm pháp luật bảo hiểm hưu trí tự nguyện,
nguyên tắc, nội dung và ý nghĩa của bảo hiểm hưu trí tự nguyện.

5



Làm mới hơn một số khái niệm, luận giải rõ hơn nội dung pháp luật về
bảo hiểm hưu trí tự nguyện, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và
thực tiễn thực hiện, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao việc thực hiện
các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Các kiến
nghị có giá trị tham khảo đối với các đề xuất về sửa đổi, bổ sung, hoạch định
chính sách, pháp luật, cũng như việc thực hiện các quy định của pháp luật
BHXH nói chung, pháp luật bảo hiểm hưu trí tự nguyện nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm hưu trí tự nguyện và sự
điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện và thực
tiễn thi hành ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về bảo
hiểm hưu trí tự nguyện ở Việt Nam.

6


Chương 1
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN VÀ SỰ
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm hưu trí tự nguyện
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm hưu trí tự nguyện

Mỗi con người khi sinh ra đã có các nhu cầu sinh hoạt cơ bản như ăn,
mặc, ở ... và để có thể thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu cơ bản đó, con người
cần phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết nhằm phục vụ những
nhu cầu của bản thân. Nhất là khi con người bước vào giai đoạn nghỉ hưu, hết
tuổi lao động đã làm ảnh hưởng lớn đến vật chất lẫn tinh thần của họ, trong
khi đó các nhu cầu thiết yếu không những không mất đi mà còn có thể tăng
lên, không những thế còn có thể phát sinh ra các chi phí mới như chi phí
khám chữa bệnh. Chính vì vậy, việc đảm bảo được kinh tế để có thể suy trì
cuộc sống trong giai đoạn này là điều vô cùng quan trọng. Với mục đích trên
thì BHXH mà trong đó có bảo hiểm hưu trí là một trong những chế độ được
đặt nhiều sự quan tâm và thực hiện sớm nhất.
Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống các chế độ BHXH đã có
những cơ sở để hình thành và phát triển. Trong hoạt động sản xuất, trước
những rủi ro của cuộc sống (già yếu, ốm đau, tai nạn lao động) đã buộc NLĐ
tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ
tương tế, các hội công đoàn…) đồng thời họ đòi hỏi giới chủ và Nhà nước
phải có trợ giúp đảm bảo cuộc sống cho họ khi gặp những rủi ro đó. Hệ thống
bảo hiểm xã hội được ra đời đầy tiên trên thế giới là của Chính phủ Đức (năm
1850) với cơ chế ba bên là Nhà nước – Giới chủ - Giới thợ cùng đóng góp với
mục đích phòng tránh một số rủi ro... Sau này, với những mặt tích cực của mô
hình BHXH của Đức đem lại, dần dân lan rộng ra châu Âu, rồi sang các nước
7


Mỹ Latinh và rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX.
Năm 1935, Hoa Kỳ thông qua đạo luật về ASXH, đây là văn bản pháp luật
đầu tiên trên thế giới xây dựng khái niệm về an sinh xã hội, trong đó có quy
định về chương trình hưu trí tuổi già. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH
đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng
Caribe và sau đó ngày càng lan rộng ra các nước trên thế giới.

Năm 1952, ILO đã thông qua công ước số 102 về Quy phạm tối thiểu
về an toàn xã hội, trong đó đưa ra hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 09 chế
độ: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ
cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp gia đình, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền
tuất và khuyến nghị các nước thành viên ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ,
trong đó ít nhất phải có một trong 5 chế độ: trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp tuổi
già; trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp tàn tật và trợ cấp tiền
tuất. Điều này chứng tỏ, bảo hiểm hưu trí luôn được ILO, Chính phủ các nước
cũng như NLĐ hết sức quan tâm.
Bảo hiểm hưu trí là chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực hiện
một các thường xuyên và đều đặn, nói cách khác, BHHT lấy sự tích góp của
thế hệ sau chi trả cho thế hệ trước. Chính vì thế nó tạo ra sự kết nối mật thiết
giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau
hơn. Chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội đảm bảo thu nhập cho người
lao động đã hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Theo Tổ chức lao
động quốc tế (ILO), chế độ hưu trí còn được gọi là bảo hiểm tuổi già, là một
trong các nhánh quan trọng của an toàn xã hội.
Thực tế cho thấy NLĐ ngoài làm việc cho bản thân mà còn đóng góp
cho cả xã hội nên Nhà nước cần có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất lẫn
tinh thần cho họ. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, cuộc sống cần có sự chia sẻ,
giúp đỡ nhau, phát huy tốt truyền thống tương thân, tương ái trong xã hội. Từ

8


nhu cầu đó bảo hiểm hưu trí tự nguyện xuất hiện bên cạnh bảo hiểm hưu trí
bắt buộc như một yêu cầu tất yếu và khách quan.
Về bản chất, bảo hiểm hưu trí tự nguyện là một loại sản phẩm tài chính
mà NLĐ hoặc NSDLĐ có thể tham gia đóng góp tiền tiết kiệm theo định kỳ
vào các sản phẩm hưu trí. Người lao động sẽ được nhận chi trả từ quỹ khi đến

tuổi nghỉ hưu. Số tiền hưu trí mà mỗi cá nhân được hưởng phụ thuộc vào tổng
số tiền đóng góp của cá nhân và/hoặc tổ chức đó và hiệu quả đầu tư vốn của
quỹ hưu trí tự nguyện.
Như vậy có thể hiểu, Bảo hiểm hưu trí tự nguyện là sự kết hợp giữa
quyền lợi hưu trí và quyền lợi bảo hiểm rủi ro, được hoạt động theo cơ chế
“đóng-hưởng”, người lao động và doanh nghiệp có thể thỏa thuận mức đóng
góp để đạt được quyền lợi hưu trí sau khi nghỉ hưu theo mong muốn mà
không bị ràng buộc mức đóng cố định và thời gian đóng tối thiểu. Thậm chí,
đối với những người lao động không có mức lương cao hoặc bị gián đoạn do
chuyển việc thì vẫn có thể nhận quyền lợi hưu trí tốt nếu tự xây dựng và đóng
góp cho kế hoạch hưu trí của mình.
Bên cạnh quyền lợi hưu trí, NLĐ còn được nhận thêm quyền lợi bảo
hiểm rủi ro trong thời hạn tích lũy giá trị tài khoản hưu trí. Tùy theo thỏa
thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người lao động, quyền lợi bảo hiểm rủi
ro cơ bản bao gồm quyền lợi trợ cấp mai táng và quyền lợi bảo hiểm tử vong
hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
1.1.2. Ý nghĩa bảo hiểm hiểm hưu trí tự nguyện
Về kinh tế: Khi bước vào giai đoạn nghỉ hưu, nhu cầu tài chính lớn nhất
đối với mỗi người là đảm bảo cuộc sống sau nghỉ hưu với mức sống tương
đương hoặc gần tương đương so với trước khi nghỉ hưu cũng như theo kịp
mức sống chung của xã hội. Đáng chú ý, trong điều kiện lạm phát cao thì nhu
cầu tài chính đảm bảo cuộc sống càng là nhu cầu trọng yếu và chiếm tỷ trọng

9


ngày càng lớn trong tổng nhu cầu tài chính giai đoạn này. Thêm vào đó, khi
đời sống xã hội được nâng cao, nhu cầu du lịch, giải trí, theo đuổi sở thích cá
nhân, thăm viếng bạn bè, người thân… cũng chiếm một phần khá lớn trong
nhu cầu tài chính sau tuổi nghỉ hưu. Đặc biệt, nhu cầu chăm sóc sức khỏe và

chữa bệnh là một nhu cầu rất lớn và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nhu cầu tài chính sau tuổi nghỉ hưu trong khi chi phí cho các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khoẻ ngày càng tăng. Trong giai đoạn cuối đời, có thể phát sinh
nhu cầu tài chính rất lớn cho sự chăm sóc đặc biệt, và tiếp đến là chi phí mai
táng, hậu sự. Hiện nay, tỷ lệ người lao động đến tuổi nghỉ hưu đang ngày
càng có chiều hướng gia tăng. Khi tỷ lệ người nghỉ hưu ngày càng cao trong
tổng số dân số đồng nghĩa với tỷ lệ lực lượng tham gia lao động có xu hướng
giảm đi, dẫn đến việc làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có chiều hướng
giảm đi và tỷ lệ người thụ hưởng có xu hướng gia tăng, quỹ hưu trí cũng phải
chi lương hưu nhiều hơn. Bên cạnh đó, ở các nước có thu nhập trung bình và
thu nhập thấp, người hết tuổi lao động đang phải đối mặt với đói nghèo, bệnh
tật, hàng triệu người cao tuổi sống dưới mức đói nghèo. Thực trạng này đã đặt
ra những yêu cầu lớn đối với cả cộng đồng quốc tế đó là làm thế nào để bảo
đảm đời sống và chăm sóc sức khoẻ cho bộ phận cư dân này là câu hỏi dành
chung cho mọi quốc gia trên thế giới, không có ngoại lệ.
Hiện nay tỷ lệ người lao động tham gia BHHT ở Việt Nam còn rất
thấp so với các quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo của ILO hiện nay ở Việt
Nam, trong khoảng hơn 11,3 triệu người cao tuổi, có 2.3 triệu người đang
hưởng chế độ hưu trí, 1.3 triệu người hưởng trợ cấp xã hội và khoảng 6-7
triệu người cao tuổi không có thu nhập [16]. Trong đó phần lớn người cao
tuổi ở Việt Nam sống ở nông thôn [15]. Bên cạnh đó, còn nhiều người cao
tuổi từ 70 - 80 tuổi từng tham gia kháng chiến, phục vụ cách mạng nên
không có thời gian tích lũy tiền bạc, chuẩn bị cuộc sống về già. Thực tế rất

10


nhiều người trong số họ khá khó khăn về kinh tế, trong khi đó lại thường
xuyên bị ốm đau, bệnh tật.
Bởi vậy, thách thức trong giải quyết đời sống của người hết tuổi lao

động sẽ rất lớn khi Việt Nam rơi vào tình trạng “già trước khi giàu” như hiện
nay. Nếu không có chiến lược đối phó với tình trạng này thì nhà nước sẽ phải
có những khoản chi tiêu rất lớn, và từ đó sẽ tác động tiêu cực đến ngân sách
cũng như sự bền vững dài hạn của nền kinh tế quốc dân.
Về xã hội: Vấn đề đảm bảo cuộc sống khi hết độ tuổi lao động là thách
thức lớn nhất mà các quốc gia đang phải đối mặt trong qua trình dân số già
hóa. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho áp lực về tài chính thêm trầm
trọng và khó khăn trong việc đảm bảo cả kinh tế và tiếp cận các dịch vụ y tế
cho người già. Đầu tư cho BHHT tự nguyện được xem là một trong những
biện pháp quan trọng nhất đảm bảo độc lập về mặt kinh tế và giảm nghèo cho
NLĐ khi về hưu. Ở các quốc gia phát triển, mối quan tâm chính là làm thế
nào để suy trì tính bền vững của hệ thống này. Trong khi đó, tại các nước
đang phát triển, khả năng bao phủ của hệ thống an sinh xã hội và trợ cấp hưu
trí cho người cao tuổi đang là thách thức lớn, khi mà phần lớn lực lượng lao
động làm việc trong các môi trường không chính thức. BHHT tự nguyện nói
riêng và bảo hiểm xã hội nói chung là trụ cột của an sinh xã hội. An sinh xã
hội phải thực hiện tốt để đảm bảo cho NLĐ khi về hưu được ổn định cuộc
sống cũng như có thể tiếp cận các dịch vụ xã hội và y tế thiết yếu.
1.2. Pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện
BHXH là một trụ cột quan trọng trong hệ thống ASXH của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, BHXH có xu hướng tập trung vào những
người lao động làm việc trong khu vực chính thức. Chính vì điều đó mà vấn
đề mở rộng phạm vi BHXH đến các hình thức lao động trong khu vực không

11


chính thức hay lo động trong lĩnh vực nông nghiệp luôn là vấn đề mà các
quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Hiện nay, tỷ lệ tham gia bảo hiểm bắt

buộc ở các nước đang phát triển còn thấp, ngay cả ở các nước phát triển thì
một số bộ phận dân số không được bảo hiểm. BHXH không những là nguyện
vọng của một tầng lớp xã hội mà còn là quyền con người, là sự bảo vệ của
mọi người lao động, đặc biệt là khi họ nghỉ hưu. Trước tình hình đó, để đảm
bảo mọi người lao động đề có cơ hội được hưởng hưu trí thì bên cạnh BHXH
bắt buộc, các quốc gia còn quy định thêm loại hình BHXH tự nguyện.
BHXH tự nguyện tôn trọng quyền tự do lựa chọn của người lao động.
Vấn đề “tự nguyện” được thể hiện ở ngay trong việc người lao động có quyền
quyết định tham gia loại hình BHXH này hay không. Khi người lao động
tham gia loại hình bảo hiểm này thì họ có quyền lựa chọn mức đóng, phương
thức đóng phù hợp với nhu cầu, thu nhập cũng như hoàn cảnh của người lao
động. Có thể hiểu BHXH tự nguyện là “loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức
mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương
thức đóng phù hợp với thu nhập của mình” [2] đề hưởng BHXH. BHHT tự
nguyện được thực hiện trên cơ sở người lao động tự nguyện tham gia loại
hình BHXH tự nguyện do Nhà nước tổ chức thực hiện, căn cứ vào quy định
của pháp luật về BHXH tự nguyện do Nhà nước ban hành.
BHHT tự nguyện luôn là một trong những nội dung quan trọng được
pháp luật các quốc gia trên thế giới ghi nhận và điều chỉnh. Bên cạnh sự phát
triển không ngừng của kinh tế xã hội, khoa học y tế dẫn đến việc tuổi thọ con
người cũng đang ngày càng tăng lên, số lượng người già ngày càng tăng.
Theo quy luật tự nhiên, con người ở độ tuổi này khả năng lao động của họ sẽ
bị suy giảm, đi kèm theo đó là những rủi ro về sức khỏe, nếu không được bảo
đảm trong đời sống và chăm sóc sức khỏe thì NLĐ khi hết tuổi lao động sẽ
gặp rất nhiều khó khăn và khó có thể duy trì được cuộc sống. Chính thực

12


trạng khách này luôn đặt ra yêu cầu phải có những quy định pháp luật phù

hợp để điều chỉnh.
Sự điều chỉnh của pháp luật về BHHT tự nguyện được xây dựng trên
cơ sở đảm bảo quyền cơ bản của con người. Thông qua các quy định này, các
quyền về bảo vệ thu nhập, chăm sóc sức khỏe và các quyền khác của người về
hưu sẽ được đảm bảo một cách ổn định và lâu dài, chứ không còn đơn thuần
là vì mục đích nhân đạo thuần túy của các quan hệ xã hội. Đồng thời, với
chức năng xã hội của mình, nhà nước là chủ thể chính, thông qua các cơ quan
do nhà nước thành lập, tổ chức thực hiện các quy định, nhằm hiện thực hóa
các quy định về bảo hiểm thu nhập cho người cao tuổi trong thực tế. Các
khoản lương hưu, trợ cấp, hỗ trợ về vật chất cho NLĐ khi hết tuổi lao động
được thực hiện theo hướng công bằng, trong tương quan phát triển kinh tế xã hội chung của cộng đồng. Mục đích của các quy định pháp luật là nhằm
giúp NLĐ và gia đình họ giảm bớt khó khăn, gánh nặng về kinh tế do không
còn khả năng lao động dẫn đến không đảm bảo kinh tế và chi phí khám chữa
bệnh ngày càng tăng thêm. Từ đó khuyến khích, động viên NLĐ khi nghỉ hưu
có thể phát huy những kinh nghiệm quý giá của bản thân để có thể góp phần
vào việc giáo dục thế hệ trẻ, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu pháp luật về BHHT tự nguyện là
tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các hình thức tham gia, điều
kiện và mức hưởng cho những người tham gia bảo hiểm hưu trí khi đã hết
tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động, nhằm giảm thiểu rủi
ro về kinh tế và sức khỏe, đảm bảo mức sống và chống đói nghèo cho người
cao tuổi, góp phần phát triển ổn định, bền vững kinh tế xã hội của đất nước.
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện
Bên cạnh các nguyên tắc chung của BHXH thì BHHT tự nguyện còn có
một số nguyên tắc riêng, đó là:

13


Thứ nhất, BHHT tự nguyện thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, mức

hưởng tùy thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng
Nguyên tắc này được xem là nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng
các quy định của pháp luật về BHHT tự nguyện. Việc đảm bảo tham gia
BHXH bắt buộc để có thể hưởng chế độ hưu trí là điều không dễ dàng có
thể thực hiện được, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, do gặp
nhiều khó khăn trong việc quản lý lao động ở các khu vực phi chính thức,
khu vực nông nghiệp.
Ở nguyên tắc này thì mức BHXH không được cao hơn mức tiền lương
khi đang làm việc và trong một số trường hợp không được thấp hơn mức trợ
cấp bảo hiểm tối thiểu và phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được
bảo hiểm. Trợ cấp BHHT là khoản trợ cấp bằng tiền cho NLĐ khi họ gặp khó
khăn, rủi ro trong cuộc sống khi hết tuổi lao động. Chính vì thế, mức trợ cấp
này về nguyên tắc phải thấp hơn mức tiền lương khi NLĐ đang làm việc. Mặc
dù vậy cũng cần phải tính đến những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu cho người
được bảo hiểm. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những quy định khống chế mức
trợ cấp tối thiểu nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được BHHT.
BHHT là mức tiền thấp nhất mà người được BHXH có thể nhận được
để bảo đảm những nhu cầu tối thiểu khi có các điều kiện BHXH theo quy
định của pháp luật. Mức trợ cấp tối thiểu được quy định, thay đổi tùy theo
điều kiện kinh tế - xã hộ cụ thể và thường được căn cứ vào một số yếu tố liên
quan như: mức sống tối thiểu, tiền lương tối thiểu, nhu cầu chi tiêu tối thiểu.
Thứ hai, BHHT tự nguyện bảo đảm quyền tự do ý chí của người tham
gia bảo hiểm
Theo nguyên tắc này, việc tham gia hay không tham gia là hoàn toàn do
người tham gia quyết định. Người tham gia có thể tự do lựa chọn mức đóng,
phương thức đóng theo nhu cầu và khả năng của bản thân trên cơ sở những

14



quy định của pháp luật. Với đối tượng tham gia BHHT tự nguyện hầu hết là
NLĐ không có quan hệ lao động, nên nguồn hình thành quỹ BHHT tự nguyện
không phải do nhiều bên đóng góp mà là sự đóng góp của chính bản thân
NLĐ và khả năng đầu tư phần tiền nhàn rỗi của Quỹ.
Hơn nữa, khi vấn đề già hóa dân số diễn ra, tuổi thọ trung bình của con
người được nâng lên, số người già cũng ngày càng tăng đồng nghĩa với thời
gian hưởng lương hưu kéo dài trong khi việc mở rộng đối tượng tham gia
BHXH gặp khó khăn do tỷ lệ sinh giảm, số lao động trẻ tham gia thị trường
lao động ít, số người về hưu ngày càng tăng làm cho việc chi trả chế độ hưu
trí sẽ tăng ảnh hưởng lớn đến sự đảm bảo cân đối thu chi quỹ BHXH trong
tương lai lâu dài nếu không có sự điều chỉnh về mặt chính sách.
Thứ ba, BHHT tự nguyện có sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện
BHHT tự nguyện hướng đến đối tượng là người không tham gia BHXH
bắt buộc nằm mở rộng diện bao phủ của BHXH, đóng vai trò bổ sung cho
BHHT bắt buộc nhằm cung cấp bảo hiểm toàn diện đến các thành phần người
lao động khác nhau và đáp ứng các mục tiêu khác nhau.
NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở
thời gian đóng BHXH. Với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện có sự liên thông, đảm bảo cho người tham gia BHXH khi hết tuổi
lao động có nhiều cơ hội được hưởng chế độ hưu trí do thời gian đóng BHXH
được tính bằng tổng thời gian đóng BHXH của 2 loại hình. Tuy nhiên theo
quy định của Luật BHXH thì trong cùng một thời điểm, NLĐ chỉ được tham
gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. Để đảm bảo mối tương
quan trong tham gia BHXH với nguyên tắc liên thông giữa BHXH bắt buộc
và BHXH tự nguyện, chế độ hưu trí cần được quy định cụ thể cho phù hợp.

15



Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, nhất là sự phát triển của khoa
học – công nghệ đạt được nhiều thành tựu to lớn phục vụ nhu cầu và lợi ích
cho con người, NLĐ ngày càng làm ra nhiều của cải, vật chất, dẫn đến nhu
cầu tiêu dùng trong sinh hoạt ngày càng gia tăng. Để có thể đáp ứng những
nhu cầu đó cần có nhiều yếu tố, một trong những yếu tố đó là yếu tố về kinh
tế. Trong quá trình lao động, nhiều NLĐ đã tích lũy được của cải nhất định, từ
đó, họ tham gia thêm BHHT tự nguyện để khi về hưu, họ có một nguồn thu
nhập ổn định và an toàn. Chính vì vậy, BHHT tự nguyện hỗ trợ cho BHHT
bắt buộc, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. BHHT tự nguyện ở Việt Nam ra
đời sau BHHT bắt buộc, tuy nhiên loại hình bảo hiểm này đã và đang không
ngừng được củng cố và phát huy vai trò to lớn của mình. Qua tình hình thực
tế, BHHT tự nguyện cũng cần phải học hỏi và tận dụng các kinh nghiệm tổ
chức thực hiện của BHHT bắt buộc.
Sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và tự nguyện giúp phản ánh tình
hình quốc gia cũng như xác chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Bên cạnh đó, các loại hình BHXH này cũng góp phần vào việc xây
dựng một hệ thống ASXH đa tầng, linh hoạt, không những không bài trừ mà
còn hỗ trợ lẫn nhau, góp phần đảm bảo an toàn cho người lao động, đặc biệt
trong các trường hợp rủi ro về kinh tế - xã hội.
1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm hưu trí tự nguyện
Cũng như bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao
động khu vực phi chính thức, lao động nông nghiệp, nông thôn thường quy
định rất rõ các nội dung áp dụng. Trong mỗi chế độ bảo hiểm xã hội được áp
dụng, quy định rất cụ thể các nội dung sau: Đối tượng áp dụng chế độ; Điều
kiện hưởng chế độ; Mức đóng phương thức đóng; Mức hưởng và thời gian
hưởng trợ cấp; Các vấn đề khác có liên quan đến chế độ...

16



1.2.3.1. Đối tượng tham gia BHHT tự nguyện
Hiện nay, trên thế giới khi cần mở rộng phạm vi của BHXH, tạo cơ sở
pháp lý cho những đối tượng không thuộc phạm vi áp dụng của BHXH bắt
buộc cũng có điều kiện được hưởng các chế độ bảo hiểm hưu trí. Chính vì
mục đích đó nên các quốc gia trên thế giới đã xây dựng và phát triển loại hình
BHXH tự nguyện. Đối tượng áp dụng của BHXH tự nguyện là người không
thuộc đối tượng áp dụng của BHXH bắt buộc, những đối tượng này thường là
người lao động nằm trong khu vực phi chính thức hay trong lĩnh vực nônglâm-ngư nghiệp. Các đối tượng nằm trong khu vực phi chính thức hay nông
nghiệp không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật để
tham gia BHXH bắt buộc. Trên thế giới, có một số quốc gia đang từng bước
đưa nhóm người lao động nằm trong khu vực phi chính thức và nông nghiệp
tham gia BHXH bắt buộc nhưng trường hợp này hiện nay là không nhiều, mà
đa phần các quốc gia sẽ đưa đối tượng trong khu vực phi chính thức vào quy
định của BHXH tự nguyện.
Theo ILO, khu vực phi chính thức mang đặc trưng chung bao gồm các
cơ sở sản xuất kinh doanh, hoạt động với quy mô nhỏ, có mức độ tổ chức
thấp, không phân biệt yếu tố đầu vào cho sản xuất, kinh doanh là lao động hay
vốn hoặc nếu có phân biệt thì ở mức độ thấp, và với mục tiêu chính là việc tạo
thu nhập và việc làm cho những người có liên quan. Ở khía cạnh vận hành
hoạt động sản xuất kinh doanh khu vực này được xác định dựa trên cơ sở
những quy định cụ thể của từng quốc gia, thường là những doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh không có tư cách pháp nhân, thuộc sở hữu của hộ gia
đình, sản xuất ít nhất là một số sản phẩm cung cấp ra thị trường, có thể có quy
định giới hạn hoặc không giới hạn về số lượng người lao động và (hoặc)
không cần đăng ký theo các quy định pháp luật liên quan của quốc gia, ví dụ
như các quy định về nghĩa vụ thuế, an sinh xã hội hoặc các quy định theo đạo

17



luật khác [18]. Có thể thấy, khu vực phi chính thức được xác định dựa trên hệ
thống pháp luật của từng quốc gia trên thế giới. Các chính sách pháp luật càng
cụ thể thì vấn đề xác định khu vực phi chính thức sẽ được rõ ràng hơn.
Ở Việt Nam, khu vực phi chính thức được hiểu là các doanh nghiệp
không có tư cách pháp nhân, sản xuất ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và
dịch vụ để buôn bán hoặc trao đổi, không có giấy phép kinh doanh và không
thuộc ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản [19]. Cách hiểu này tương ứng với
cách hiểu của ILO về khu vực phi chính thức, nhưng được định nghĩa phù hợp
với tình hình thực tế và các quy định của pháp luật Việt Nam.
Trung Quốc là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với nước ta đã
thực hiện BHXH tự nguyện, đối tượng tham gia loại hình bảo hiểm này là
những người nông dân, lao động tự tạo việc làm, những người chưa tham gia
loại hình BHXH bắt buộc. Cho phép các đối tượng đã tham gia BHXH bắt
buộc, được tham gia loại hình BHXH tự nguyện đó là BHHT bổ sung, để
tăng khả năng an toàn trong cuộc sống. Việc mở rộng đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện, cần phải được thực hiện thận trọng, từng bước. Trong
chính sách bảo hiểm xã hội, ở Trung Quốc BHXH tự nguyện có đối tượng
tham gia là người lao động ở khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính
thức.Điều này là rất thực tế và cũng là kinh nghiệm cho nước ta khi xây
dựng và hoàn thiện chính sách.
Như vậy, để có thể mở rộng đối tượng tham gia BHXH nhằm bảo đảm
cho mục đích gia tăng số lượng người được hưởng BHHT, bên cạnh loại hình
BHHT bắt buộc thì các quốc gia cần phát triển cũng như cần có các quy định
rõ ràng hơn về đối tượng tham gia loại hình BHHT tự nguyện. Việc ban hành
chính sách pháp luật về BHHT tự nguyện cho lao động khu vực phi chính
thức là cần thiết khách quan và có vai trò rất to lớn để từng bước góp phần
thực hiện công bằng xã hội.

18



1.2.3.2. Mức đóng, thời gian đóng BHHT tự nguyện
BHHT tự nguyện được hình thành từ sự đóng góp của người tham gia
là người lao động, có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Do đặc thù của nhóm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, đa số có
mức thu nhập thấp và không ổn định, đặc biệt là lao động trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, thu nhập thường gắn với mùa vụ, nên các nước
thực hiện mức đóng, phương thức đóng bảo hiểm rất mềm dẻo và linh hoạt,
không giới hạn, không khống chế tối đa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của
người tham gia bảo hiểm. Mức đóng thường áp dụng mức đồng nhất cho từng
nơi, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của nơi đó, gắn với mức sống chung
của dân cư và có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn. Quy định nhiều mức đóng
khác nhau để người tham gia có thể lựa chọn phù hợp với điều kiện thu nhập
của bản thân.
Nguồn quỹ được hình thành từ việc đóng góp chủ yếu do người lao
động tham gia bảo hiểm đóng góp, tuy nhiên nếu chỉ có sự tham gia đóng góp
của người lao động thì loại hình BHXH tự nguyện sẽ không thu hút được
nhiều người tham gia. Nhằm bảo đảm tính liên kết giữa các nội dung trong
ASXH, nhiều quốc gia đã quy định vấn đề hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện
của Nhà nước, nhằm khuyến khích cá nhân, tổ chức trong xã hội hỗ trợ tiền
đóng BHXH tự nguyện nhằm làm tăng tính hấp dẫn, khả thi cho loại hình
BHXH này. Đây là điều rất quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động của
hệ thống BHXH tự nguyện, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các nhóm
lao động khác nhau trong xã hội và đảm bảo mục tiêu ASXH chung.
Mức hưởng BHXH tự nguyện thường không gắn với thu nhập mà dựa
vào mức đóng, khả năng thanh toán của quỹ BHXH tự nguyện, nhưng không
thấp hơn mức sống tối thiểu của dân cư. Để được hưởng bảo hiểm tuổi già, thì
điều kiện về tuổi đời và thời gian đóng góp làm căn cứ để xem xét. Tuổi nghỉ


19


×