Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM HÀN QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.79 KB, 47 trang )

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM HÀN QUỐC
3.1) Triển vọng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam – Hàn
Quốc.
Với những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực thương mại và đầu tư trong
thời gian vừa qua là rất đang khích lệ. Từ đó chúng ta có cơ sở để tin tưởng vào
triển vọng tốt đẹp trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam- Hàn Quốc. Bên cạnh đó
việc đánh giá đúng về tiềm năng và triển vọng trong quan hệ trên lĩnh vực
thương mại và đầu tư sẽ giúp chúng ta đưa ra được những giải pháp đúng đắn
nhằm tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
3.1.1) Triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc
Quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam- Hàn Quốc tăng nhanh trong thời
gian qua cho thấy cả hai nước đã phát huy được lợi thế so sánh của mình và
thương mại đã có tác động tích cực đối với nền kinh tế hai nước. Tuy nhiên,
những kết quả đạt được cũng chưa phản ánh đúng tiềm năng của hai nước, nhất
là từ phía Việt Nam, hiện nay nhập siêu quá lớn. Để cải thiện tình trạng nhập
siêu hiện nay, Việt Nam cho rằng cần đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang
Hàn Quốc chứ không phải bằng cách giảm nhập khẩu.
Theo tham tán Thương mại Việt Nam tại Hàn Quốc Bùi Quang Hào nhận
định từ năm nay (2007) hàng hóa Việt Nam có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu
sang Hàn Quốc do hai bên thực thi cam kết FTA giữa ASEAN - Hàn Quốc,
miễn thuế đối với 70% mặt hàng nhập khẩu. Đồng thời, sau khi gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam được hưởng quy chế thuế theo
quy định và có điều kiện thuận lợi để xúc tiến đàm phán song phương giải quyết
một số vấn đề liên quan đến hàng rào phi thuế quan của Hàn Quốc như kiểm
dịch động, thực vật. Cơ hội được mở rộng nhưng hàng hóa Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh gay gắt với các nước khác trong ASEAN và đặc biệt là Trung Quốc
về chất lượng, giá cả, mẫu mã, khả năng giao hàng nhanh và ổn định. Do đó,
Việt Nam cần có quy hoạch chiến lược các mặt hàng xuất khẩu, đầu tư một cách
có hệ thống, chuyên nghiệp và biết cách quảng bá sản phẩm. Khoảng giữa năm
nay, vào dịp Hội chợ hàng nhập khẩu của Hàn Quốc, Bộ Thương mại dự định sẽ


tổ chức Tuần thương mại Việt Nam tại Hàn Quốc nhằm đẩy mạnh xúc tiến
thương mại, cân đối thị trường xuất khẩu trên thế giới. Ngoài ra, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng sẽ tham dự các hoạt động về xúc tiến thương mại, đầu tư
trong Tuần Việt Nam tại Hàn Quốc đầu tháng 5 tới.
Về tình trạng nhập siêu lớn của Việt Nam trong thương mại với Hàn
Quốc, với điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay, việc nhập siêu là tất yếu do
cơ cấu mặt hàng khác nhau. Xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam chủ yếu là
máy móc, thiết bị, nguyên liệu sản xuất cho công ty Việt Nam và công ty Hàn
Quốc ở Việt Nam. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các mặt
hàng nông, thủy sản, giá trị kim ngạch thấp.
Dưới đây là một số mặt hàng còn nhiều tiềm năng và triển vọng xuất
khẩu sang Hàn Quốc:
- Mặt hàng nông sản:
Hiện nay Hàn Quốc nhập khẩu khoảng 12 tỷ USD/ năm các mặt hàng
thực phẩm. Với mức thu nhập bình quần đầu người đã vượt quá 10000 USD/
năm, người dân Hàn Quốc ngày càng có nhu cầu lớn về các loại thực phẩm có
chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hương vị và đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm. Đây là thị trường nhiều tiềm năng nhưng hằng năm Việt Nam chỉ
xuất khẩu được một lượng rất nhỏ các mặt hàng này vào thị trường Hàn Quốc,
vì cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng sơ chế, có giá trị thấp.
-Thủy sản:
Nhu cầu nhập thủy sản của Hàn Quốc là rất lớn, trung bình mỗi năm là 1,3 tỷ
USD. Thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc mấy năm gần đây tăng lên
và luôn là mặt hàng chiếm vị trí số một. Tuy nhiên thị phần của hải sản Việt
Nam trên thị trường Hàn Quốc năm 2005 là 5,8% đứng thứ 5 sau các nước
Trung Quốc, Nga, Mỹ và Nhật Bản. Theo báo cáo của Bộ Nông Lâm Hàn Quốc,
tiêu dùng thịt của người dân Hàn Quốc năm qua giảm xuống do lo ngại các
bệnh dịch ở bò và gia cầm xảy ra ở nhiều nước mấy năm gần đây, và do vậy họ
có xu hướng tiêu dùng thủy sản nhiều hơn.Việt Nam cần nắm bắt tình hình này
và tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang Hàn Quốc, đặc biệt là một số loại

có ưu thế của Việt Nam như: tôm, mực khô, mực đông lạnh, chả cá, cá khô, cá
đông lạnh,cá phi lê. Hiện nay Việt Nam đã có 6 phòng xét nghiệm của
NAFIQACEN được công nhận trong việc cấp giấy chứng nhận vệ sinh an toàn
thực phẩm cho hàng thủy sản xuất khẩu sang Hàn Quốc cùng danh sách 174
doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang Hàn Quốc, đó là những thuận lợi rất
lớn cho hàng thủy sản Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Mặt khác, theo Bộ Thuỷ sản, từ đầu năm 2007, mỗi năm các nước thành viên
ASEAN, trong đó có Việt Nam, sẽ được miễn thuế nhập khẩu đối với khoảng
7.300 tấn tôm và 2.000 tấn mực nang đông lạnh sang thị trường Hàn Quốc.
Ngoài ra, lượng hàng thuỷ sản nhập khẩu ngoài hạn ngạch cũng sẽ được áp
dụng mức thuế suất ưu đãi MFN của Hàn Quốc.Thoả thuận này nằm trong Hiệp
định thương mại hàng hoá khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Hàn Quốc sẽ có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007. Mặc dù số lượng hàng được miễn thuế
không nhiều, nhưng đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam
tăng cường xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Hàn Quốc.Theo Tổng cục Hải
quan, từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc đạt
khoảng 200 triệu USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước. Cục Thanh tra
chất lượng thực phẩm thuộc Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp Hàn Quốc vừa công
nhận thêm 13 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam được phép xuất khẩu
sản phẩm sang Hàn Quốc, nâng tổng số doanh nghiệp được xuất khẩu sang thị
trường này lên 298 doanh nghiệp.
- Cà phê:
Hằng năm, Hàn Quốc nhập khẩu cà phê trị giá trung bình khoảng 67 triệu
USD/ năm, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam( là nước đứng đầu) chiếm tới 19%.
Tuy nhiên, cà phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là cà phê chưa rang, giá trị
thấp. Nếu Việt Nam chú ý đến chế biến mặt hàng này để có hương vị đặc trưng
riêng cùng với tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng hình ảnh về cà phê
Việt Nam thì khả năng tăng trưởng xuất khẩu cà phê có giá trị cao hơn vào thị
trường Hàn Quốc vẫn còn nhiều cơ hội thuận lợi.
Hiện nay, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang 54 nước, trong đó các nước

nhập khẩu trên 10.000 tấn cà phê là Hoa Kỳ, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ,
Pháp, Ba Lan, Anh, Nhật Bản, áo, Hàn Quốc, Canada và Hà Lan. Hiện nay Việt
Nam chỉ đứng sau Braxin về sản lượng cà phê xuất khẩu, nhưng lại dẫn đầu về
sản lượng và xuất khẩu cà phê vối, bỏ xa Inđônêxia vốn ngự trị vị trí số một về
loại cà phê này được các nhà chế biến thường dùng để sản xuất cà phê tan. Với
những nhận định như trên, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tăng lượng cà phê
xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc trong thời gian tới
- Cao su:
Hàn Quốc nhập khẩu mỗi năm khoảng 900 triệu USD cao su và sản phẩm
cao su. Nhưng Việt Nam mới chỉ xuất khẩu dưới dạng mủ cao su tự nhiên nên
có giá trị thấp.Hiện nay ở thị trường Hàn Quốc, Thái Lan chiếm 51%, tiếp theo
là Inđônêxia 23%, MaiLaixia 19% tổng lượng mủ cao su tự nhiên. Hiện nay,
Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu cao su lớn thứ 2 của Việt Nam sau Trung
Quốc, năm 2006 Hàn Quốc nhập khẩu 23 nghìn tấn cao su từ Việt Nam. Có thể
thấy rằng Hàn Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu cao su đầy tiềm năng của Việt
Nam.
- Rau củ quả:
Nhu cầu tiêu dùng rau quả của người Hàn Quốc có xu hướng tăng lên
theo thu nhập. Năm 1970 tiêu dùng bình quân theo đầu người của Hàn Quốc về
rau là 66,6 kg,quả 12kg, đến 1980 là 120,6kg rau, 16,2 kg quả, đến 1990 các
con số tương ứng là 132,8 kg và 29 kg. Mặc dù Hàn Quốc có thể tự cung ứng
nhiều loại rau quả cho nhu cầu trong nước, nhưng do khí hậu khắc nghiệt vào
mùa đông nên việc cung cấp rau quả cũng gặp nhiều khó khăn. Các nhà hàng và
nhà sản xuất chế biến rau quả thường tìm đến nguồn cung cấp ổn định hơn, giá
thành rẻ hơn. Do vậy mà mỗi năm Hàn Quốc nhập khẩu khoảng hơn 134 triệu
USD các loại rau và gần 268 triệu USD trái cây các loại.
Đối với hàng công nghiệp.
- Hàng dệt may, da giầy
Hàng dệt may, giầy dép vẫn là một trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu
của Hàn Quốc cho đến giữa những năm 1980. Nhưng sau đó do chí phí tiền

lương trong công nghiệp dệt may, giầy dép tăng nhanh, lợi thế cạnh tranh của
Hàn Quốc về mặt hàng này giảm dần so với những nước đi sau như Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và các nước đang phát triển khác, vì vậy Hàn Quốc đã
chuyển hướng sang các mặt hàng có giá trị cao với kỹ thuật công nghệ cao hơn.
Tình hình đó đã tạo ra một thị trường có triển vọng hơn với hàng dệt may, giầy
dép Việt Nam. Hiện nay, mặt hàng dệt may của Việt Nam có kim ngạch xuất
khẩu sang Hàn Quốc lớn thứ hai, chỉ sau thủy sản, năm 2003 là 67,42 triệu
USD, chiếm 13,7% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc. Mặt hàng giầy
dép đứng thứ 6 trong số các mặt hàng xuất khẩu sang Hàn Quốc, với 20,47 triệu
USD chiếm 4,2% tỷ trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc.
- Hàng đồ gỗ:
Đây là mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Hàn Quốc năm 2005 đứng thứ 7,
đạt 46 triệu USD, chiếm tỷ trọng 4,9% tổng kim ngạch ngoại xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường này. Đây là mặt hàng được đánh giá là có nhiều tiềm năng,
vì là mặt hàng mới trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc
nhưng đã sớm được mặt hàng này chấp nhận, đặc biệt là các loại đồ gỗ nội thất.
Tuy nhiên Việt Nam cần phải chú trọng nhiều đến việc giới thiệu quảng bá để
mặt hàng này được phổ biến hơn nữa trên thị trường Hàn Quốc.
Ngoài ra Việt Nam còn xuất khẩu một số mặt hàng khác, trong đó có
những mặt hàng đã từng xuất khẩu sang Hàn Quốc, là những mặt hàng chủ yếu
của Việt Nam hiện nay như dầu thô, than đá, gạo, hàng thủ công mỹ nghệ, điện
tử… có tiềm năng lớn để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc.
Thực tế trên đã cho thấy rằng, đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt Nam-
Hàn Quốc đã đem lại lợi ích cho cả hai bên. Tíep tục phát triển quan hệ này trên
cơ sở nguyên tắc hai bên cùng có lợi thì quan hệ thương mại giữa hai nước sẽ
ngày càng phát triển bền vững.
3.1.2) Triển vọng FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam
Có thể nhận định rằng triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn
Quốc vào Việt Nam trong những năm tới là rất lớn bởi những tiêu điểm chính
sau:

- Hai bên Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều lợi thế và có thể hỗ trợ lẫn
nhau. Hàn Quốc có thế mạnh về vốn, kỹ thuật, kỹ năng quản lý; còn Việt Nam
có nguồn lao động rẻ, sẵn có nguyên vật liệu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện. Những lợi thế này là cơ sở để đảm
bảo cho quan hệ giữa hai nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Mặt khác, việc
triển khai chiến lược toàn cầu hoá và cải cách cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc diễn
ra đồng thời với các cố gắng đẩy mạnh cải cách về mọi mặt và tăng cường hội
nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam sẽ làm cho cả hai nước phát triển
nhanh hơn, đồng thời nâng cao vai trò của mỗi bên trong khu vực và trên thế
giới.
- Kể từ sau khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) thì luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng với tốc độ đáng
kinh ngạc, tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2006 đạt
10,2 tỷ USD, trong đó đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam đạt 2,78 tỷ USD gấp
4 lần so với năm 2005. Hiện nay, Việt Nam đã vượt Thái Lan để giành vị trí thứ
9 trong số các nước hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhất châu Á, nguyên nhân là do
Việt Nam đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, tạo ra cơ chế thông
thoáng, môi trường chính trị ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
- Trong hai tháng 11 và 12 năm 2006, Văn phòng Xúc tiến Thương mại và Đầu
tư - Kotra (Hàn Quốc) đã tiến hành một cuộc điều tra về tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp nước này đang đầu tư tại Việt Nam.Theo kết quả điều tra thì
doanh nghiệp Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam coi việc Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là mối quan tâm hàng đầu của họ
(chiếm hơn 63%).
Bên cạnh đó, gần 62% các doanh nghiệp Hàn Quốc cho rằng việc Việt
Nam gia nhập WTO sẽ đóng góp vào việc cải thiện môi trường kinh doanh tại
Việt Nam.
Các nhà đầu tư xứ Hàn còn cho hay họ hài lòng với hoạt động đầu tư tại
Việt Nam (chiếm 93,3% doanh nghiệp tham gia cuộc điều tra), do lao động giá
rẻ, những ưu đãi về thuế, có sự hỗ trợ đắc lực từ Chính phủ…Doanh nghiệp Hàn

Quốc cũng hy vọng vào việc môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ cải thiện trong
thời gian tới. Trong đó, 38% doanh nghiệp hy vọng việc mở cửa thị trường sẽ
thúc đẩy hơn nữa, 32% hy vọng vào sự phát triển của thị trường tiêu dùng của
Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy vậy, các doanh nghiệp này nhận xét vẫn còn có những khó khăn khi
đầu tư tại Việt Nam. Cụ thể, theo họ khó khăn lớn nhất là sự khác biệt về văn
hóa, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện (trong đó có vấn đề quan liêu tham
nhũng), do thiếu thông tin, và bất đồng ngôn ngữ,…
- Hàn Quốc đang lên kế hoạch thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài. Hàn Quốc
đang có nhiều động thái để khuyến khích các doanh nghiệp nước này tăng
cường đầu tư ra nước ngoài.Đây là một phần trong những nỗ lực giảm bớt
những áp lực lên hoạt động xuất khẩu do sự tăng giá của đồng Won thời gian
qua. Theo lời của Bộ trưởng Bộ Tài chính Hàn Quốc Kwon O-Kyu cho biết,
nước này sẽ miễn thuế thu nhập trong 3 năm đối với các nhà đầu tư địa phương
khi đầu tư ra nước ngoài. Mặt khác, Hàn Quốc cũng cho phép gia tăng mức đầu
tư vào bất động sản tại nước ngoài, từ mức 1 triệu USD lên 3 triệu USD. Động
thái này nhằm khuyến khích các tập đoàn Hàn Quốc tăng cường đầu tư, dự đoán
lượng vốn đầu tư ra nước ngoài có thể sẽ lên đến 15 tỷ USD.
3.2) Các giải pháp chung nhằm tăng cường hợp tác kinh tế giữa Việt Nam-
Hàn Quốc
Trong thời gian tới, quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc sẽ chịu sự tác
động của các yếu tố mang tính tòan cầu, khu vực và quốc gia khác nhau.Trên
phạm vi tòan cầu, tất cả các nền kinh tế trên thế giới tiếp tục chịu ảnh hưởng của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trong đó đặc biệt là cách mạng công
nghệ thông tin và sinh học, của quá trình tự do hóa kinh tế.Trong khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương, quan hệ kinh tế Việt Nam-Hàn Quốc sẽ chịu tác động
của yếu tố Trung Quốc, sự lớn mạnh của các NIEs, làn sóng liên kết kinh tế khu
vực, kể cả việc tìm kiếm các FTAs, sự chênh lệch trong phát triển giữa các quốc
gia, cũng như một số biến động khác. Ngòai ra, định hướng chiến lược phát
triển kinh tế của hai nước cũng là những yếu tố tác động lên sự phát triển quan

hệ song phương. Xu hướng tác động của các yếu tố này là khác nhau.Các yếu tố
có tác động thúc đẩy sự phát triển quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc bao gồm:
a) Tiềm năng phát triển kinh tế của Hàn Quốc với tư cách là một NIEs châu
Á tiếp tục làm cho nước này có lợi thế về vốn và công nghệ, còn Việt
Nam tiếp tục có lợi thế về lao động và tài nguyên- nền tảng cho sự gặp
nhau giữa nhu cầu và lợi ích của hai nước.
b) Việc thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại trong phạm vi
WTO,APEC, đặc biệt khi Chương trình Làm việc Đôha đã được thông
qua, trong đó đề cập đến việc xóa bỏ mọi rào cản đối với thương mại
hàng nông sản, sẽ tạo thuận lợi cho mở rộng quan hệ Việt Nam- Hàn
Quốc.
c) Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam và Hàn
Quốc có thể nhận thấy rằng trong tương lai, xu hướng chuyển dịch cơ cấu
của hai nước tiếp tục thể hiện tính bổ xung cho nhau rõ rệt. Việt Nam chú
trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo nên những giống cây trồng, vật nuôi
có năng xuất cao. Còn Hàn Quốc thông qua đầu tư vào công nghệ để có
được các sản phẩm mới có tính năng bảo vệ môi trường, tạo nên các
ngành dịch vụ mới để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Một số yếu tố khác có tác động làm chậm lại sự phát triển quan hệ Việt
Nam- Hàn Quốc. Đó là:
a) Yếu tố Trung Quốc. Sự nổi lên của Trung Quốc vừa mang lại cơ hội phát
triển, đồng thời cả những thách thức cho nhiều nước trong khu vực.
Những cải cách của Trung Quốc trong thời gian qua, đặc biệt là sau khi
nước này gia nhập WTO, kết hợp với sự chuyển hướng chiến lược phát
triển kinh tế sang miền Tây và những biện pháp ưu đãi nhằm thu hút đầu
tư nươc ngoài, đang làm cho dòng đầu tư đổ vào Châu Á bị chệch hướng
và đổ vào Trung Quốc. Trong dòng đầu tư đó bao gồm cả đầu tư từ Hàn
Quốc. Do đó, tác động không tốt lên quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc.
b) Sự tìm kiếm các FTA có thể làm cho chính phủ Hàn Quốc quan tâm đến
một số mục tiêu khác. Bởi lẽ, tuy Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn

thứ 15 của nước này, song lại chủ yếu được tạo nên bởi sự gia tăng đầu
tư. Hệ quả là, nếu đầu tư có nguy cơ giảm đi, sẽ làm thay đổi vị trí của thị
trường Việt Nam đối với Hàn Quốc. Hơn nữa, trước mắt, Việt Nam chưa
thể đàm phán về một FTA với nước này.
Trong hai nhóm yếu tố trên, nhóm các yếu tố thúc đẩy có tác động mạnh
hơn.Do đó, triển vọng phát triển quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc trong tương lai là
rất khả quan. Kết luận này còn được dựa trên nhận định cho rằng trong mối
quan hệ này, các bên tham gia chưa khai thác hết tiềm năng của mình. Trong
trao đổi hàng hóa, nhiều mặt hàng có khả năng xuất khẩu của Việt Nam chưa,
hoặc tiếp cận thị trường Hàn Quốc ở mức thấp, như đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ,
đồ nội thất, dầu thô, nông sản nhiệt đới. Sản phẩm từ các cơ sở có vốn đầu tư
Hàn Quốc xuất khẩu trở lại nước này chưa nhiều. Trong lĩnh vực đầu tư, các dự
án đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ còn ít, đặc biệt cho các ngành
công nghiệp nhẹ. Trong lĩnh vực du lịch, tiềm năng phát triển rất lớn, bởi Việt
Nam mới thu hút được một lượng khách ít ỏi trong luồng khách du lịch từ Hàn
Quốc sang các nước châu Á- Thái Bình Dương. Trong xuất khẩu lao động, Việt
Nam chưa xuất khẩu lao động có trình độ kỹ thuật cao sang Hàn Quốc. Dựa trên
tất cả những điều đó có thể khẳng định rằng trong tương lai, quan hệ Việt Nam-
Hàn Quốc tiếp tục được phát triển, nhưng Việt Nam vẫn rơi vào tình trạng nhập
siêu trong cán cân thương mại với Hàn Quốc. Tuy nhiên, mức nhập siêu có thể
giảm đi, do khả năng gia tăng thu nhập từ “ xuất khẩu tại chỗ”, chương trình cải
cách khu vực công nghiệp của Hàn Quốc và sự chuyển dịch cơ cấu trong khu
vực công nghiệp theo hướng chuyển dần các ngành công nghiệp nhẹ và công
nghiệp phụ trợ của Hàn Quốc ra nước ngoài.
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc.
1. Quan điểm chung
Trong xu thế tòan cầu hóa và hợp tác khu vực ngày càng gia tăng, quan
hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc cần phải dựa trên và hướng tới việc tạo
lập một khuôn khổ hợp tác đa phương mới mà nền tảng là những nguyên
tắc của Tổ chức thương mại thế giới. Với việc Việt Nam đã là thành viên

của WTO mối quan hệ giữa hai nước càng có nhiều cơ hội phát triển hơn
nữa.
Trên bình diện liên kết Đông Á, quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc có
một vai trò quan trọng: đó là cầu nối giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Điều này có nghĩa là, trên cơ sở các sáng kiến ASEAN+1, cần sớm hình
thành một hiệp định hợp tác kinh tế song phương Việt Nam- Hàn Quốc,
trong đó thể hiện rõ vai trò của quan hệ này trong xu thế thúc đẩy hợp tác
giữa ASEAN và Đông Bắc Á nói chung và với Hàn Quốc nói riêng;
Cần có cách tiếp cận tòan diện đối với khuôn khổ hợp tác kinh tế song
phương. Điều này có nghĩa là đưa các nội dung hợp tác hiện nay vào một
hiệp định chung hơn là nỗ lực có một FTA song phương hoặc các hiệp
định hợp tác riêng lẻ trong các lĩnh vực cụ thể.
2. Các giải pháp cụ thể
Để khắc phục những tồn tại trong quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc
trong bối cảnh phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các
nước trên thị trường quốc tế, khu vực cũng như thị trường nội địa, xin đề
xuất một số giải pháp sau:
Đối với chính phủ Việt Nam: Bên cạnh việc đẩy nhanh quá trình đàm
phán gia nhập WTO, đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
cũng như nhập khẩu, tích cực chuyển dịch cơ cấu ngành trên cơ sở lợi thế
so sánh và cạnh tranh, cần nâng cao hiệu quả đàm phán song phương với
Hàn Quốc. Với các cơ chế hiện có và thông qua các cuộc viếng thăm lẫn
nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước, hiệu quả của đàm phán song
phương có thể được cải thiện, nếu Việt Nam biết tranh thủ cơ hội là thị
trường quan trọng của dòng đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc mà tạo
thế chủ động trong đàm phán, nỗ lực hết sức trong việc tìm kiếm các giải
pháp nhằm thuận lợi hóa thương mại, trước hết là đối với việc kiểm dịch
vệ sinh dịch tễ đối với hàng nông sản và thủy sản, nếu mở rộng được sự
hợp tác giữa các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt trong những lĩnh vực mà
Hàn Quốc có lợi thế cạnh tranh như công nghệ thông tin và viễn thông,

đóng tàu.Ngoài ra, chính phủ cần nhận thức rõ rằng việc giảm bớt sự
thâm hụt trong cán cân thương mại với Hàn Quốc sẽ chỉ thực hiện được,
khi quan tâm đúng mức không chỉ đến việc gia tăng xuất khẩu và định
hướng nhập khẩu, mà còn quan tâm đến việc tăng cường hoạt động xuất
khẩu tại chỗ thông qua du lịch, xuất khẩu lao động có kỹ năng sang Hàn
Quốc và các lĩnh vực liên quan khác, như đào tạo nguồn nhân lực, nâng
cao năng lực quản lý.
Đối với các bộ liên quan của Việt Nam như Bộ thương mại, Bộ kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổng cục Du lịch,
có một số kiến nghị sau:
- Trên cơ sở hiểu rõ tầm quan trọng cũng như bất cập của công tác này
trong thời gian qua, các bộ liên quan cần nhận thức đầy đủ hơn về công
tác xúc tiến thương mại, phải coi đó là chiến lược phát triển kinh tế nhấn
mạnh đến việc thúc đẩy xuất khẩu thông qua các biện pháp khuyến khích,
hỗ trợ cần thiết. Theo cách hiểu đó, công tác nghiên cứu thị trường cần
được tíến hành một cách có bài bản hệ thống, bên cạnh hoạt động cung
cấp thông tin về thị trường, tổ chức hội chợ, triển lãm hay giới thiệu sản
phẩm. Tham gia vào thực hiện công tác xúc tiến xuất khẩu phải bao gồm
tất cả các cơ quan liên quan ở cấp chính phủ, các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu
và các doanh nghiệp trong sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa chúng;
- Công tác nghiên cứu thị trường thường được tiến hành dưới hai
khía cạnh- nghiên cứu chung và nghiên cứu về một thị trường hàng hóa
cụ thể. Đối với thị trường Hàn Quốc, việc nghiên cứu chung nên do các tổ
chức thuộc các bộ liên quan tiến hành, bao gồm nghiên cứu về phương
hướng phát trỉển chung của nền kinh tế Hàn Quốc, giới thiệu về tập quán
kinh doanh, hệ thống phân phối, những thay đổi chính sách, thói quen
tiêu dùng, đặc trưng văn hóa của thị trường này. Để tiết kiệm chi phí và
nâng cao hiệu quả sử dụng các kết quả đạt được, các bộ liên quan cần trao
đổi các kế hoạch nghiên cứu, cũng như thông tin về các kết quả đạt được
với nhau. Trong hoạt động này cần có sự tham gia tích cực của Thương

vụ và đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc.
- Cần quan tâm nhiều hơn đến việc đa dạng hóa sản phẩm trao đổi, cũng
như nâng cao sức cạnh tranh của chúng. Căn cứ vào khả năng cạnh tranh
của Việt Nam và đặc điểm thị trường người tiêu dùng Hàn Quốc, Việt
Nam cần tập trung vào những mặt hàng đã và có khả năng sẽ được thị
trường Hàn Quốc chấp nhận. Đó là thực phẩm chế biến từ thuỷ sản, thủy
sản đông lạnh, đồ gỗ, đồ nội thất, đèn điện tử, thiết bị viễn thông, một số
nguyên liệu như cao su, khoáng sản, cà phê, sắn lát. Đối với những mặt
hàng có tiềm năng xuất khẩu cao như hàng thủ công mỹ nghệ( giá cả thấp
hơn 8-10% so với Trung Quốc), đồ gỗ nội thất, cần phải có chiến lược
xây dựng thương hiệu, quảng bá và giới thiệu sản phẩm thích hợp đến
người tiêu dùng Hàn Quốc. Đối với sản phẩm nông sản nhiệt đới, cần đạt
được thỏa thuận về kiểm dịch vệ sinh dịch tễ. Trong lĩnh vực du lịch, phải
kết hợp các tour trong nước với quốc tế tạo thêm các hình thức du lịch
mới, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Công tác đào tạo nguồn nhân lực cần đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu thực tiễn. Trong lĩnh vực du lịch, phải quan tâm nhiều hơn đến
việc đào tạo hướng dẫn viên biết tiếng Hàn, chú trọng bồi dưỡng nâng
cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ phục vụ, mở rộng hệ thống các
trường dạy nghề và hoàn thiện chương trình đào tạo. Việt Nam cần quan
tâm hơn đến việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề nhằm đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu lao động sang thị trường Hàn Quốc, cũng như
cung cấp cho các cơ sở FDI Hàn Quốc ở trong nước.
- Cần tăng cường hoạt động hợp tác với các cơ quan chuyên ngành
của Hàn Quốc nhằm nhận được sự giúp đỡ của họ về tài chính, cung cấp
thông tin, trao đổi kinh nghiệm và hợp tác để cùng phát triển.Mở rộng hệ
thống các trường dạy nghề và hòan thiện chương trình đào tạo. Việt Nam
cần quan tâm hơn đến việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề
nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động sang thị trường Hàn Quốc,
cũng như cung cấp cho các cơ sở FDI Hàn Quốc ở trong nước.

- Cần tăng cường hoạt động hợp tác với các cơ quan chuyên ngành
của Hàn Quốc nhằm nhận được sự giúp đỡ của họ về tài chính, cung cấp
thông tin, trao đổi kinh nghiệm và hợp tác để cùng phát triển.
3.3 Một số giải pháp, chính sách cho sự phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam - Hàn Quốc
Qua những phân tích ở chương 2, có thể thấy rằng quan hệ thương mại
song phương Việt Nam - Hàn Quốc đã và đang được phát triển với tốc độ cao.
Mối quan hệ này được xây dựng trên một nền tảng pháp lý khá vững chắc, nhận
được sự quan tâm thường xuyên của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước và nhất
là có sự gặp nhau giữa nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia nhờ sự hiện diện
của lợi thế so sánh giữa hai nước mang lại. Trong tương lai, mối quan hệ này có
nhiều cơ hội để tiếp tục được phát triển. Đối với Việt Nam, mối quan hệ thương
mại song phương với Hàn Quốc có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nước này là
một trong 10 bạn hàng lớn nhất và một trong năm nước đầu tư lớn nhất vào
nước ta. Để nắm bắt được những cơ hội phát triển, Việt Nam cần phải đối mặt
với những thách thức khác nhau. Vì thế, việc đề ra các giải pháp chính sách
nhằm đối mặt với những thách thức đó là rất cần thiết. Trong phần này sẽ đề cập
đến hai nhóm giải pháp chính sách chính nhằm phát triển quan hệ thương mại
song phương Việt Nam - Hàn Quốc là nhóm các giải pháp chính sách chung và
nhóm các giải pháp chính sách trong từng lĩnh vực cụ thể .
3.3.1) Nhóm các giải pháp và chính sách chung.
Để đẩy mạnh sự phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn
Quốc đòi hỏi sự tham gia thực hiện của cả chính phủ và các bộ ngành liên quan,
cũng như sự tham gia tích cực từ phía các doanh nghiệp. Chỉ có như vậy chúng
ta mới có thể đề ra các giải pháp cần thiết và hiệu quả nhằm nâng cao hơn nữa
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
3.3.1.1) Đối với chính phủ Việt Nam và các bộ ngành liên quan
Nhóm các giải pháp chính sách chung bao gồm tăng cường tự do hoá
kinh tế nói chung và tự do hoá thương mại và đầu tư nói riêng, đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, tích cực chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế trên cơ sở lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, và nâng cao hiệu quả của
đàm phán song phương. Việc áp dụng các giải pháp chính sách chung này sẽ tác
động không chỉ đến quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Hàn Quốc,
mà còn đến quan hệ thương mại của nước ta với nhiều nước và khu vực khác
nhau trên thế giới. Song, cần phải ghi nhận rằng việc lựa chọn các giải pháp trên
đưa vào nhóm các giải pháp chung nhằm phát triển quan hệ thương mại song
phương Việt Nam - Hàn Quốc được dưa trên thực trạng quan hệ giữa hai nước
trong thời gian qua.
Giải pháp 1: Tăng cường tự do hoá kinh tế, trong đó bao gồm tự do hoá
thương mại và đầu tư.
Chủ trương tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã được
Đảng và chính phủ Việt Nam quan tâm thực hiện trong nhiều năm qua. Chúng ta
đã hiểu rất rõ tầm quan trọng của nó đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt khi
Việt Nam đang theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Trong lĩnh vực này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ.
Việt Nam đã là thành viên của ASEAN và APEC, đang cố gắng cải cách nền
kinh tế khi đã gia nhập WTO. Đối với việc phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam - Hàn Quốc trong tương lai, việc tăng cường tự do hoá kinh tế nói chung
và tự do hoá thương mại và đầu tư nói riêng ở mọi cấp độ quốc gia, khu vực
hay toàn cầu - có ý nghĩa rất lớn, bởi một số lý do cơ bản sau đây: Trước mắt,
Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt ít nhất là với Trung Quốc trong lĩnh vực
xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng lao động cao và thu hút FDI, đặc biệt khi
nước này đã trở thành thành viên của WTO và đang có khả năng sẽ tiến hành
đàm phán để ký kết FTA với Hàn Quốc. Hơn nữa, thực tế cho thấy quá trình cải
cách hệ thống chính sách kinh tế của Việt Nam khi thực hiện các chương trình
tự do hoá thương mại còn nhiều bất cập và kém hiệu quả hơn Trung Quốc. Vì
thế, để duy trì sức hấp dẫn đối với các bạn hàng và các nhà đầu tư nước ngoài,
trong đó có Hàn Quốc, đồng thời để ngăn chặn sự chuyển hướng đầu tư nước
ngoài sang thị trường này, Việt Nam cần quan tâm và có những bước đi thiết
thực hơn nữa trong quá trình cải cách chính sách kinh tế theo hướng tự do hoá.

Nếu Việt Nam tăng cường tự do hoá thương mại trong phạm vi ASEAN và
APEC, đặc biệt với việc Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO thì sẽ được
hưởng những ưu đãi nhất định từ các chính sách kinh tế hiện hành của Hàn
Quốc. Hiện tại, phần lớn hàng công nghiệp của Hàn Quốc có mức thuế suất
nhập khẩu là 8%, song nếu là thành viên của WTO chỉ còn từ 2-2,5%, thậm chí
0%. Ví dụ, mức thuế suất đối với đồ gỗ cho các thành viên WTO là 0% --2%
(trừ một số mặt hàng như đồ gỗ dùng trong y học, phẫu thuật ... có mức 2,5%),
đồ chơi và đồ dùng thể thao là 3%, thay vì mức 8% như bình thường. Tình hình
tương tự như vậy đối với nhóm hàng nông sản. Mức thuế nhập khẩu đối với các
loại thịt là từ 30-50%, song nếu là thành viên WTO chỉ còn 3%, đối với gạo
tương ứng là 5% và 1%. Như vậy, việc trở thành thành viên của WTO, Việt
Nam không những sẽ được hưởng một số ưu đãi về thuế khi xuất khẩu hàng
hoá, mà còn có cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường Hàn Quốc. Việc thực
hiện các cam kết trong WTO, đặc biệt là các cam kết về mở cửa thị trường, sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá của hai nước tiếp cận thị trường của nhau
được dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, các qui định về quản lý và kiểm soát nhập khẩu
cũng minh bạch hơn và ít bị bóp méo thương mại hơn. Điều này đặc biệt có lợi
cho các nhà xuất khẩu nông, thuỷ sản Việt Nam, vì từ trước tới nay họ gặp trở
ngại đáng kể bởi các hàng rào kiểm dịch động thực vật và các tiêu chuẩn của
Hàn Quốc. Các hoạt động hợp tác trong APEC, trong đó có các hoạt động hỗ
trợ, xây dựng năng lực và trao đổi thông tin. góp phần củng cố năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong thương mại quốc tế. Thông qua các hoạt
động tạo thuận lợi cho thương mại, những trở ngại đối với các doanh nghiệp đã
và đang được giảm đi dáng kể, thông qua việc hài hoà hoá các thủ tục hải quan,
thừa nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn. Các cam kết về mở cửa thị trường
dịch vụ của Việt Nam trong khuôn khổ gia nhập WTO sẽ tạo thuận lợi hơn nữa
cho các nhà đầu tư Hàn Quốc. Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, cả
hai nước sẽ được hưởng sự bảo vệ bởi các qui định chung, có điều kiện vận
dụng cơ chế tham vấn và giải quyết tranh chấp thương mại công bằng của
WTO. Các vấn đề còn tồn tại về mặt chính sách, như các biện pháp phi thuế

quan, các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng có thể được giải quyết thông qua cơ chế đối
thoại và hợp tác trong phạm vi APEC. Là một nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam
phải đồng thời hai nhiệm vụ quan trọng là chuyển sang nền kinh tế thị trường và
tiến hành tự do hoá. Vì thế, cho đến đầu thế kỷ 21, trong điều kiện nhận thức và

×