Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.38 KB, 27 trang )

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC SẢN XUẤT KINH
DOANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
I - SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THI TRƯỜNG.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển được ngoài những lỗ lực của bản thân doanh
nghiệp, các doanh nghiệp còn phải biết xây dựng cho mình những chiến lược
đầy tham vọng.
Để làm được điều đó, trước hết các doanh nghiệp phải nắm được các
thông tin và sau đó phải có tư duy phán đoán chiến lược và lựa chọn cho mình
đường đi thích hợp.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chiến lược kinh doanh là
phạm trù tương đối mới mẻ, ít được nhắc đến. Các doanh nghiệp hoạt động
theo kế hoạch của Nhà nước, mang tính tập trung cao độ. Chiến lược kinh
doanh trong thời kỳ này chỉ là mắt xích kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân
chiến lược cấp trên đảm nhận. Tư duy đều tập trung cho rằng: Nhà nước có
trách nhiệm hàng đầu trong việc xây dựng chiến lược phát triển toàn bộ nền
kinh tế quốc dân trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội, sản xuất...
Do đó, vấn đề xây dựng chiến lược kinh doanh ở các doanh nghiệp chưa được
áp dụng phổ biến.
Từ khi có sự chuyển đổi cơ chế quản lý, đa số các doanh nghiệp nước ta
phải đối diện với những điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn, phức tạp
mang tính biến động và rủi ro cao. Mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp
lúc này là đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Để đạt được mục tiêu đó, các
doanh nghiệp phải biết điều chỉnh hoạt động của mình một các linh hoạt để
thích nghi với sự thay đổi thường xuyên của môi trường kinh doanh. Sự biến
đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
cùng với việc khan hiếm của các nguồn tài nguyên làm cho hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp ngày càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, cùng với
sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của xã hội ngày càng mở rộng, người
tiêu dùng đòi hỏi những hàng hoá có chất lượng ngày càng cao. Do vậy, nhiệm


vụ của nhà quản trị là phải nắm bắt được nhưng cơ hội, hạn chế những nguy
cơ, phát huy khả năng của doanh nghiệp, khắc phục những khó khăn. Điều đó
có nghĩa là các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình những chiến lược kinh
doanh. Do đó, chiến lược kinh doanh ngày càng có tầm quan trọng to lớn đối
với các doanh nghiệp.
Sự cần thiết khách quan phải xây dựng chiến lược kinh doanh đối với
doanh nghiệp thể hiện trên một số mặt sau:
Một là, chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp thấy rõ mục tiêu
và hướng đi của mình trong tương lai.
Hai là, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp luôn biến đổi
nhanh thường tạo ra các cơ hội, nguy cơ bất ngờ.
Việc xây dựng chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp thấy rõ các cơ
hội, hạn chế ở mức thấp nhất các nguy cơ làm tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Ba là, chiến lược kinh doanh sẽ giúp cho các doanh nghiệp gắn liền các
quyết định đề ra với điều kiện môi trường liên quan, hay nói cách khác là giúp
các doanh nghiệp đề ra các quyết định chủ động.
Bốn là, xây dựng chiến lược kinh doanh sẽ giúp cho các doanh nghiệp
tạo ra những hướng kinh doanh tốt hơn thông qua việc sử dụng phương pháp
tiếp cận hệ thống, tạo cơ sở tăng sự liên kết và tính gắn bó của nhân viên với
các nhà quản trị trong việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Năm là, chiến lược kinh doanh giúp cho các doanh nghiệp sử dụng hợp
lý các nguồn lực.
Với tầm quan trọng to lớn như vậy, ta có thể khẳng định, việc xây dựng
chiến lược kinh doanh trong cơ chế thị trường là hết sức cần thiết đối với các
doanh nghiệp trong nước và trên Thế giới. Có thể coi chiến lược kinh doanh là
“ bánh lái” của con tầu đưa nó vượt trùng dương đến bến bờ thắng lợi.
II- CÁC QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP.
1- Sự du nhập vào lĩnh vực kinh doanh của thuật ngữ chiến

lược.
Xét về mặt lịch sử, chiến lược được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực
quân sự. Sau đó mới du nhập vào các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội.
Từ những năm 50 của thế kỷ 20, chiến lược kinh doanh được triển khai áp
dụng rộng rãi tại các Công ty ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Sự xuất hiện của thuật ngữ chiến lược không chỉ đơn thuần là sự vay
mượn khái niệm mà bắt nguồn từ sự cần thiết phản ánh thực tiễn khách quan
của quản lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
2 - Một số quan điểm tiếp cận chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.1 Quan điểm cổ điển.
Quan điểm này xuất hiện từ trước những năm 60, theo quan điểm này
thì doanh nghiệp có thể kế hoạch hoá, tối ưu tất cả các yếu tố đầu vào để từ đó
tạo ra lợi thế cạnh tranh dài hạn nhằm đạt được mục tiêu hiệu quả và tối ưu
hoá lợi nhuận. Vì vậy, trong thời kỳ này dùng nhiều hàm sản xuất và máy tính
tối ưu hoá lợi nhuận.
Thực tế, đến những năm 70 cách tiếp cận này đã mất ý nghĩa vì toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp đều do kế toán trưởng và Giám đốc chỉ đạo không
đề cập đến bên ngoài. Mặt khác, lúc này đã hình thành khu vực Bắc Mỹ, Nam
Mỹ, Tây âu, Đông âu... chi phối toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tiếng nói chung
phối hợp với nhau.
2.2 Quan điểm tiến hoá.
Quan điểm này coi “doanh nghiệp là một cơ thể sống và nó chịu sự tác
động của môi trường bên ngoài, đồng thời cơ thể sống tự điều chỉnh chính
mình để thích nghi với môi trường kinh doanh”. Như vậy quan điểm này không
thừa nhận doanh nghiệp như là một “hộp đen”, mà trái lại doanh nghiệp như
là một hệ thống mở chịu sự tác động từ bên ngoài, “doanh nghiệp không thể
ngồi trong bốn bức tường mà phải mở cửa sổ để quan sát bầu trời đầy sao”
nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh và phát hiện nguy cơ có thể đe dọa doanh

nghiệp.
2.3 Quan điểm theo quá trình.
Theo quan điểm này doanh nghiệp muốn thành công trên thị trường thì
phải có một quá trình tích lũy kinh nghiệm, nâng lên thành mưu kế trong kinh
doanh. Theo tính toán của trường đại học Havard Mỹ thì: từ một đến ba năm
mới bước vào thị trường, từ ba năm đến năm năm mới giữ vững trên thị
trường và trên tám năm mới thành công.
2.4 Quan điểm hệ thống.
Quan điểm này cho rằng các doanh nghiệp kinh doanh đều nằm trong
hệ thống và chịu sự tác động của hệ thống đó.
Tóm lại, cho dù các quan điểm trên có tiếp cận phạm trù chiến lược
dưới góc độ nào, thì chúng cũng nhằm mục đích chung của mình là tăng
trưởng nhanh, bền vững và tối ưu hoá lợi nhuận.
3 - Quan điểm về chiến lược kinh doanh.
Hiện nay còn có nhiều quan niệm khác nhau về chiến lược kinh doanh.
Nhưng chưa quan niệm nào lột tả được đầy đủ bản chất của hoạt động này. Ta
có thể đưa ra một số quan điểm về chiến lược kinh doanh như sau:
Theo M.Porter cho rằng: “chiến lược là nghệ thuật tạo lập các lợi thế
cạnh tranh”.
Theo Alain Threatart trong cuốn”chiến lược Công ty”cho rằng “chiến
lược là nghệ thuật doanh nghiệp dùng để chống lại sự cạnh tranh và giành
thắng lợi”.
Theo K.Ohame cho rằng:”mục đích của chiến lược kinh doanh là mang
lại những điều kiện thuận lợi nhất cho một phía, đánh giá chính xác thời điểm
tấn công hay rút lui, xác định đúng đắn danh giới của sự thoả hiệp”.
Theo Alain Charles trong cuốn chiến lược “người được giải thưởng”của
trường đại học Havard expandsion năm 1983 cho rằng “chiến lược kinh doanh
nhằm phác thảo những quỹ đạo tiến triển đủ vững chắc và lâu dài, xung quanh
những quỹ đạo đó có thể sắp đặt những quyết định và những hành động chính
xác của doanh nghiệp”.

Theo nhóm tác giả Garry Osmith, Danny Rarnold, Bobby G.Bizzell trong
cuốn “chiến lược và sách lược kinh doanh “cho rằng: “chiến lược được định ra
như là kế hoạch tổng quát hướng dẫn Công ty đạt được mục tiêu mong muốn.
Kế hoạch tác nghiệp này tạo cơ sở cho các chính sách và các thủ pháp tác
nghiệp”.
Cách tiếp cận phổ biến nhất hiện nay xác nhận :”chiến lược kinh doanh
là tổng hợp các mục tiêu dài hạn, các chính sách và giải pháp lớn về sản xuất
kinh doanh về tài chính và về giải quyết nhân tố con người nhằm đưa hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển lên một trạng thái mới cao hơn
về chất.
Nhìn chung các quan niệm trên về thuật ngữ chiến lược đều bao hàm
và phản ánh các vấn đề sau:
+Mục tiêu chiến lược .
+ Thời gian thực hiện.
+ Quá trình ra quyết định chiến lược .
+ Nhân tố môi trường cạnh tranh.
+ Lợi thế và yếu điểm của doanh nghiệp nói chung và theo từng hoạt
động riêng.
Có thể nói, tư tưởng chiến lược đã thay đổi và hoàn thiện dần, đặc
biệt trong bốn thập kỷ qua. Lúc đầu xuất hiện các phương pháp đánh giá cơ
hội, thời cơ... để tìm các phương án sử dụng hợp lý vào kinh doanh. Tiến đến
việc xuất hiện các phương án dài hạn quản lý việc thực hiện các mục tiêu
kinh doanh từ các nỗ lực hoàn thiện quản lý sản xuất nội bộ, khai thác
nguồn lực nội sinh và kết hợp với nguồn lực bên ngoài. Sau đó, các nỗ lực
hoàn thiện tư tưởng chiến lược lại hướng vào phát triển thị trường và chiến
lược Marketing. Ngày nay việc nghiên cứu hoàn thiện tư tưởng chiến lược
đang hướng tới các nỗ lực kết hợp xâu chuỗi các kết quả đã đạt được vận
dụng một cách tổng hợp hơn vào môi trường hoạt động mới đầy biến động.
Cùng với sự biến đổi của tư tưởng chiến lược là quá trình tìm tòi một quan
điểm hoàn chỉnh. Song mọi nỗ lực hiện vẫn còn đang ở phía trước và quan

niệm phổ biến tạm thời được chấp nhận cho đến nay.
4- Các đặc trưng cơ bản của chiến lược.
Để có thể hiểu rõ hơn về phạm trù chiến lược kinh doanh chúng ta hãy
xem xét những đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh doanh. Trong phạm vi
chiến lược kinh doanh các đặc trưng được quan niệm tương đối đồng nhất.
Đó là:
- Chiến lược kinh doanh thường xác định rõ các mục tiêu cơ bản trong
thời gian tương đối dài( 3 năm, 5 năm, và dài hơn nữa).
- Chính khung khổ của các mục tiêu và phương pháp dài hạn đó đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển liên tục và
vững chắc trong môi trường kinh doanh đầy biến động của nền kinh tế thị
trường.
- Chiến lược kinh doanh chỉ phác thảo các phương hướng dài hạn, có
tính định hướng còn trong thực hành kinh doanh phải thực hiện phương châm
“kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế, kết hợp chiến lược với sách
lược và các phương án kinh doanh tác nghiệp”.
- Mọi quyết định quan trọng trong quá trình xây dựng, quyết định, tổ
chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến lược đều phải tập trung
về người lãnh đạo cao nhất trong doanh nghiệp. Đặc trưng này được ước định
bởi lẽ:
+ Tháp quản trị viên và thang quyền lực tương ứng trong quản lý điều
hành doanh nghiệp.
+Bảo đảm yêu cầu bí mật thông tin kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường.
- Trong thực tế, chỉ có người chủ doanh nghiệp và những người được uỷ
quyền thay mặt chủ sở hữu mới có quyền quyết định các vấn đề có tính chất
chiến lược trọng yếu nhất của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh luôn được xây dựng, lựa chọn và thực thi dựa
trên cơ sở các lợi thế so sánh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp
phải đánh giá đúng thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình khi

xây dựng chiến lược và thường xuyên soát xét các yếu tố nội tại khi thực thi
chiến lược.
Chiến lược kinh doanh trước hết và chủ yếu được xây dựng cho các
ngành nghề kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh chuyên môn hoá, truyền
thống, thế mạnh của doanh nghiệp. Điều đó đặt doanh nghiệp vào thế phải xây
dựng, lựa chọn và thực thi chiến lược kinh doanh cũng như tham gia kinh
doanh trên những thương trường có chuẩn bị và có thế mạnh.
Từ những đặc điểm nêu trên ta dễ dàng phân biệt phạm trù chiến lược
kinh doanh với các khái niệm và phạm trù có liên quan. Khái niệm gần gũi với
chiến lược là kế hoạch, trước đây người ta cứ lầm tưởng chiến lược là kế
hoạch. Ta có thể so sánh hai khái niệm này để làm rõ phạm trù về chiến lược
kinh doanh.
Xét theo trình tự thì chiến lược kinh doanh được hình thành trên cơ sở
phân tích chuẩn đoán môi trường, đến lượt nó chiến lược lại làm cơ sở cho các
kế hoạch triển khai thực hiện chiến lược.
Đặc trưng nổi bật của chiến lược là tính định hướng và xác định những
giải pháp, chính sách ở những mục tiêu chủ yếu, còn ở kế hoạch tính cân đối
định hướng là chủ đạo, tất cả các mục tiêu đều được lượng hoá, liên kết với
nhau thành hệ thống chỉ tiêu phản ánh toàn diện hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ở đây cũng cần phân biệt chiến lược với kế hoạch dài
hạn.
Theo tác giả D.Smith, R.arnold, G.Bizzrell thì sự khác nhau giữa chúng
là phương pháp xây dựng. Trong khi các kế hoạch dài hạn chủ yếu dựa trên cơ
sở phân tích các nguồn lực “ dự đoán tương lai” để đề ra giải pháp sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực nhằm đạt tới mục tiêu xác định theo hai cách”: doanh
nghiệp có năng lực và trình độ sản xuất sản phẩm A, như vậy hãy lập kế hoạch
để sản xuất và phát triển nó. Còn chiến lược thì ngược lại, chiến lược chú trọng
tới việc xác lập mục tiêu mong muốn sau đó tiến hành sử dụng các nguồn lực
cần thiết để đạt được mục tiêu ( nếu mục tiêu đó có thể đạt được bằng cách
sản xuất sản phẩm A thì hãy tiến hành sản xuất nó, nếu không đạt được bằng

cách sản xuất sản phẩm A thì hãy tìm con đường khác để đạt được mục tiêu đã
xác định”.
5- Vai trò của chiến lược kinh doanh.
5.1 Giá trị của quản trị chiến lược.
5.1.1 Lợi nhuận và quản trị chiến lược.
Không tìm được mối liên hệ trực tiếp của quản trị chiến lược với sự gia
tăng lợi nhuận của Công ty vì trong môi trường có rất nhiều biến số tác động
và rất phức tạp, do đó việc cô lập sự tác động của một mình nhân tố quản trị
chiến lược đến lợi nhuận của doanh nghiệp là không thể được. Tuy nhiên
không thể phủ nhận những đóng góp gián tiếp vào lợi nhuận của quản trị
chiến lược thông qua việc khai thác cơ hội và giành ưu thế của cạnh tranh.
5.1.2 Quản trị chiến lược và lợi thế của doanh nghiệp.
Buộc quản trị viên phải xem xét tính thích hợp và giá trị của các chiến
lược hiện tại.
Buộc quản trị phải tìm kiếm các khả năng lựa chọn khác nhau sao cho
có quyết định tối ưu.
Đòi hỏi một sự định hướng trong tương lai.
Cho phép bố trí lại hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên.
Bảo đảm sự tương ứng giữa môi trường trong và ngoài.
Giúp kích thích động viên tính năng động của nhân viên.
5.2 Vai trò của quản trị chiến lược.
Trong nền kinh tế thị trường, việc tự do kinh doanh đã tạo tiền đề cho
các doanh nghiệp ra đời ngày càng nhiều. Phần của “miếng bánh thị trường”
bình quân cho mỗi doanh nghiệp ngày càng bé dần. Trong bối cảnh đó, quản trị
chiến lược có vai trò rất quan trọng, và quyết định sự thành bại của doanh
nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, quản trị chiến lược buộc các nhà lãnh
đạo phải thường xuyên xem xét tính phù hợp, tính thích nghi của chiến lược,
những chính sách đối với biến động của môi trường. Cùng với vai trò của mình,
quản trị chiến lược còn cho thấy những ưu điểm nổi bật:
- Giúp nhà quản trị biết được những kết quả mong muốn và việc sử

dụng tài nguyên hợp lý, tối ưu, khuyến khích được tinh thần trách nhiệm của
mỗi nhân viên.
-Trong nội bộ doanh nghiệp, giúp cho việc tạo điều kiện ra quyết định
mang tính thống nhất, phối hợp các hoạt động nhịp nhàng uyển chuyển, tạo ra
sức mạnh nội bộ.
-Giúp nhà quản trị luôn luôn chủ động trước những thay đổi của môi
trường như: biết khai thác những cơ hội, giảm bớt những đe dọa. Từ đó là
quản trị định ra những giải pháp, mục tiêu thích nghi được với môi trường.
-Giúp nhà quản trị sử dụng tốt nguồn tài nguyên ( nhân lực, vật lực, tài
lực,...) đưa đến những thành công, những lợi nhuận cao trên con đường kinh
doanh.
Bên cạnh đó, quản trị chiến lược còn tồn tại các nhược điểm:
-Thường mất thời gian và chi phí hơn đối với một doanh nghiệp có
kinh nghiệm và có một quan điểm quản trị chiến lược thích hợp thì khuyết
điểm này có thể hạn chế tối đa được.
-Dễ rơi vào cứng nhắc thậm chí thụ động nếu như không nhận thấy
đặc điểm của chiến lược là năng động và phát triển phù hợp với môi trường
hoạt động.
-Khi tiên đoán sai sẽ dẫn tới thất bại nặng nề, đây là khuyết điểm dễ
làm các nhà quản trị e ngại khi thực hiện chiến lược.
6- Những yêu cầu cần phải quán triệt khi xây dựng chiến lược kinh
doanh.
Khi xây dựng chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải đáp
ứng những yêu cầu sau:
-Phải đảm bảo tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường.
Các doanh nghiệp phải xác định được thị trường mục tiêu. Từ đó, xác
định vùng an toàn trong kinh doanh và xác định rõ được phạm vi kinh doanh,
xác định mức độ rủi ro cho phép.
- Phải xác định rõ những mục tiêu then chốt và những điều kiện cơ bản

để thực hiện mục tiêu.
-Phải nắm bắt được thông tin và tri thức nhất định. Đặc biệt là thông
tin về thị trường, về khách hàng, về đối thủ cạnh tranh...
-Bên cạnh những chiến lược hiện thực, các doanh nghiệp cần phải biết
xây dựng cho mình những chiến lược dự phòng, chiến lược thay thế.
Phải biết nắm bắt thời cơ, tân dụng tối đa cơ hội và có một chút sự liều
lĩnh.
III - QUY TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH.
Để có được một chiến lược phát triển, doanh nghiệp đều phải tiến hành
xây dựng chiến lược theo một tiến trình.
Thực chất tiến trình xây dựng chiến lược của doanh nghiệp là việc lựa
chọn những lĩnh vực hoạt động kinh doanh và đảm bảo các nguồn lực cho
chúng nhằm duy trì và phát triển doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh
cạnh tranh.
Có nhiều cách thức đã được tổng kết để xây dựng chiến lược kinh
doanh ở cấp doanh nghiệp hay ở cấp đơn vị kinh doanh độc lập. Tuy nhiên,
không có một quy trình nào được coi là hoàn hảo mà cần nghiên cứu hoàn
thiện thêm. Ở đây, em chỉ đưa ra quá trình hoạch định chiến lược của doanh
nghiệp đã được khái quát lại thành bốn bước và thể hiện ở bảng:
Bảng 1.1. Mô hình bốn bước.
Xác định hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
Bước 1
Phân tích nội bộ doanh nghiệp
Bước 3
Phân tích môi trường kinh doanh
Bước 2
Hình thành và lựa chọn chiến lược
Bước 4

( Nguồn: Chiến lược và sách lược kinh doanh )

1- Xác lập hệ thống mục tiêu.
1.1 Bản chất mục tiêu của doanh nghiệp.
Trong quá trình xây dựng và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
xác định hệ thống mục tiêu là khâu mở đầu và quan trọng nhất bởi lẽ chỉ khi
nào doanh nghiệp xác định được hệ thống mục tiêu đúng đắn và hợp lý thì mới
tạo ra được định hướng chỉ đạo cho các giai đoạn tiếp theo. Hơn nữa, nó cũng
là một trong những căn cứ để cung cấp các nguồn lực kiểm tra, đánh giá và
điều chỉnh chiến lược. Mục tiêu chiến lược là sự cụ thể hoá của tính mục đích
của doanh nghiệp về hướng, quy mô, cơ cấu và tiến trình triển khai theo thời
gian. Nói cách khác, mục tiêu chiến lược là những gì mà doanh nghiệp cần
vươn tới, cần đạt được trong một khoảng thời gian xác định. Việc xác định các
mục tiêu đưa doanh nghiệp đến chỗ năng động hơn, tự nguyện hơn và có tổ
chức hơn.
1.2 Hệ thống mục tiêu chiến lược.
Đối với một doanh nghiệp có rất nhiều mục tiêu được xác định trong
từng thời kỳ tương ứng tạo thành một hệ thống mục tiêu chiến lược. Đó là
những mục tiêu về lợi nhuận, doanh thu, năng suất, thâm nhập thị trường, Đổi
mới, an toàn, tính độc lập. Hệ thống các mục tiêu chiến lược trên được khái
quát thành mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn.
Chúng ta sẽ bàn về 2 loại mục tiêu là mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn.
thường thì 2 loại mục tiêu này khác nhau ở số năm thực hiện. Mục tiêu ngắn
hạn thường được thực hiện trong một năm còn mục tiêu dài hạn thường được
thực hiện trong thời gian hơn một năm.
Mục tiêu dài hạn là các kết quả mong muốn được đề ra cho một khoảng
thời gian tương đối dài nhìn chung thường dài hơn chu kỳ quyết định. Mục
tiêu dài hạn thường được ấn định 7 lĩnh vực chủ đề sau:
- Mức lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Năng suất lao động.
- Vị thế cạnh tranh.
- Phát triển việc làm.

- Quan hệ giữa công nhân viên.
- Vị trí dẫn đầu về công nghệ.
- Trách nhiệm trước công luận.
 Vận dụng vào Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực:
Mục tiêu dài hạn của Công ty từ năm 2001 đến 2005:
 Tăng mức lợi nhuận từ 6062 triệu đồng lên 8000 triệu đồng năm 2005.
 Cải thiện vị thế cạnh tranh của Công ty để từng bước lấp dần các khoảng
trống trị trường Công ty hiện có.
 Tăng thêm việc làm cho 147 lao động.
 Đưa ra thêm các dịch vụ mới giúp cho thông tin liên lạc giữa các nhà máy
Điện các trung tâm điều độ Điện được thông suốt an toàn..
 Mở rộng quan hệ với nhà cung cấp công nghệ để có công nghệ hiện đại
hơn, tăng năng suất và khả năng phục vụ của Công ty.
Vấn đề cụ thể của mục tiêu dài hạn được trình bày chi tiết ở chương 3.
Mục tiêu ngắn hạn: Mục tiêu ngắn hạn phải hết sức cụ thể và phải nêu ra
được các kết quả tiêu đích một cách chi tiết.
 Vận dụng vào Công ty:
Mục tiêu ngắn hạn của Công ty là một năm và các mục tiêu cần đạt được
cụ thể hoá ở từng năm và trình bày chi tiết ở chương 3.
1.3 Các yêu cầu của mục tiêu chiến lược.
Tuỳ theo góc độ quan sát hoặc cách tiếp cận lý thuyết được sử dụng, việc
hình thành các mục tiêu được hình thành theo các đường lối khác nhau. Song
dù tiến hành theo phương pháp nào thì việc xác định hệ thống mục tiêu phải
đảm bảo được các yêu cầu sau:
Tính cụ thể: Mục tiêu phải xác định rõ ràng trong từng thời gian tương
ứng và phải có mục tiêu chung, mục tiêu riêng cho từng lĩnh vực hoạt động.

×