Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.51 KB, 39 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I. KHÁI NIỆM VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I.1. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh doanh
Chiến lược là một thuật ngữ dùng để chỉ các kế hoạch lớn dài hạn được
đưa ra trên cơ sở tin chắc được rằng những cái gì đối phương có thể làm, những
cái gì đối phương có thể không làm. Chiến lược được hiểu một cách đơn giản
nhất là những kế hoạch được thiết lập hoặc những hành động được thực hiện
trong nỗ lực nhằm đạt tới các mục đích của doanh nghiệp .
Theo James B.Quinn, thuộc Đại học Dartmouth: "Chiến lược là một dạng
thức hoặc một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình
tự hành động một tổng thể kết dính lại với nhau".
Khái niệm chiến lược kinh doanh được sử dụng khá phổ biến trong các
doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển và ngày càng tỏ ra có vai trò
hết sức quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp, nhất là trong nền kinh
tế thị trường biến động phức tạp như hiện nay. Khoa học quản trị kinh doanh đã
tồn tại rất nhiều khái niệm về chiến lược kinh doanh trong số đó có một số khái
niệm được chấp nhận tương đối rộng rãi là:
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một chương trình hành động
tổng quát hướng tới việc thực hiện những mục tiêu của doanh nghiệp. Chiến
lược không vạch ra một cách cụ thể để đạt được những mục tiêu vì đó là nhiệm
vụ của vô số chương trình hỗ trợ các chiến lược chức năng khác mà chiến lược
chỉ tạo ra cái khung để hướng dẫn tư duy hành động.
Theo Alfred Chandler: Chiến lược kinh doanh bao hàm việc ấn định các
mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh nghiệp, đồng thời lựa chọn các cách thức
hoặc tiến trình hành động và phân bổ các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các
mục tiêu đó.
Theo định nghĩa trong giáo trình “Chiến lược kinh doanh và phát triển
doanh nghiệp”: Chiến lược kinh doanh của một công ty là tổng hợp các mục tiêu
dài hạn, các chính sách và các giải pháp lớn về sản xuất kinh doanh, về tài chính
và về giải quyết nhân tố con người nhằm đưa hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lên một trạng thái mới cao hơn về chất.


Tuy nhiên hiện nay, chưa có khái niệm nào điễn tả được đầy đủ bản chất
của chiến lược kinh doanh. Tùy theo cách phân tích khách nhau, sẽ có những lý
giải khác nhau về những vấn đề cơ bản của chiến lược, dù vẫn là việc tìm hiểu
phân tích các điều kiện bên ngoài cũng như các nguồn lực bên trong của doanh
nghiệp nhờ việc phân tích này mà các mặt mạnh mặt yếu của công ty sẽ được
giải quyết để tranh thủ các cơ hội bên ngoài, doanh nghiệp sẽ có những quyết
định, hướng đi chính xác và đúng đắn hơn so với các đối thủ cạnh tranh để từ đó
tăng cường và củng cố và phát triển doanh nghiệp .
Từ các khái niệm trên, ta cho chúng ta thấy một số đặc trưng cơ bản của
chiến lược kinh doanh như sau:
- Chiến lược kinh doanh luôn mang tính định hướng
Bởi vì chiến lược kinh doanh bao gồm các mục tiêu dài hạn mà môi
trường kinh doanh hiện đại luôn biến đổi không thể lường trước được nên chiến
lược kinh doanh chỉ có tính định hướng chứ không thể cứng nhắc. Vì vậy, bên
cạnh các chỉ tiêu định lượng, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp còn chú
trọng nhiều hơn đến các chỉ tiêu định tính. Điều cần thiết là phải luôn theo dõi,
dự báo những thay đổi của môi trường kinh doanh để kịp thời điều chỉnh các
hoạt động thực hiện chiến lược thậm chí điều chỉnh các mục tiêu chiến lược cho
phù hợp.
- Chiến lược kinh doanh luôn tập trung về ban lãnh đạo công ty hoặc người
đứng đầu công ty để quyết định những vấn đề lớn quan trọng nhất đối với công
ty.
Chiến lược kinh doanh của công ty đề cập đến những vấn đề bao trùm,
tổng quát nhất tới mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như: các mục
tiêu cơ bản của công ty là gì ?. Công ty đang tham gia lĩnh vực kinh doanh nào?...
và chiến lược kinh doanh phải được ban lãnh đạo cao nhất của công ty thông
qua.
- Chiến lược kinh doanh luôn được xây dựng trên cơ sở lợi thế so sánh với các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường
Vì kế hoạch hoá chiến lược mang bản chất động và tấn công, chủ động tận

dụng thời cơ, điểm mạnh của mình để hạn chế các rủi ro và điểm yếu cho nên tất
yếu phải xác định điểm mạnh của ta so với đối thủ cạnh tranh và tận dụng triệt
để điểm mạnh đó, phải “biết mình biết người” và luôn để sự đánh giá về công ty
mình trong mối liên hệ với đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Nghĩa là giải đáp
câu hỏi “Chúng ta đang ở đâu?”.
- Chiến lược kinh doanh luôn xây dựng cho những ngành nghề kinh doanh trong
những lĩnh vực kinh doanh chuyên môn hoá truyền thống và thế mạnh của công
ty. Phương án kinh doanh của công ty được kết hợp thực hiện trên cơ sở kết hợp
chuyên môn hoá với đa dạng hoá sản xuất và kinh doanh tổng hợp.
I. 2. Xác định nhiệm vụ của chiến lược kinh doanh
Xác định nhiệm vụ chiến lược chính là để trả lời cho câu hỏi công việc kinh
doanh của doanh nghiệp chúng ta là gì? Đôi khi người ta gọi nhiệm vụ kinh
doanh là nguyên tắc kinh doanh, nục đích kinh doanh triết lý kinh doanh, từ đó
xác định lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp thông thường đó là loại sản
phẩm cơ bản hoặc dịch vụ chính, các nhóm đối tượng khách hàng hàng đầu,
nhu cầu thị trường tình hình công nghệ và một loạt các yếu tố khác
Chức năng nhiệm vụ thường nói về những mục đích dài hạn của doanh
nghiệp, nó phân biệt doanh nghiệp với các công ty khác trong ngành, nó nói lên
các nguyên tắc kinh doanh các quan điểm của doanh nghiệp, từ đó xác định lĩnh
vực kinh doanh, loại sản phẩm, khách hàng và công nghệ sử dụng cũng như
khuôn khổ hoạt động của doanh nghiệp. Chức năng nhiệm vụ phải có giới hạn
vừa đủ để loại trừ các rủi ro nhưng nó phải đủ rộng để đảm bảo tăng trưởng.
Khi xây dựng chức năng nhiệm vụ phải đảm bảo tính thống nhất về ý trí và
phương hướng phát triển trong nội bộ doanh nghiệp, tạo cơ sở để huy động và
phân bổ hợp lý nguồn lực của công ty đồng thời nó có vai trò làm điểm tụ cho
mọi người đồng tình với phương hướng và mục đích của công ty.
I. 3. Xác định mục tiêu chiến lược
Thuật ngữ " mục tiêu" được dùng để chỉ các đích hoặc các kết quả cụ thể mà
doanh nghiệp muốn phấn đấu để đạt được. Tuy nó được suy ra từ chức năng
nhiệm vụ nhưng chúng cần phải cụ thể, rõ ràng hơn và lượng hoá được.

Mục tiêu dài hạn là kết quả mong muốn được đề ra trong một khoảng thời
gian tương đối dài. Số năm cụ thể khác nhau nhưng nhìn chung thường dài hơn
một chu kỳ quyết định kinh doanh(Chu kỳ quyết định kinh doanh là khoảng thời
gian cần thiết để thực hiện trọn vẹn một quyết định).
Các mục tiêu dài hạn thường đề cập đến 7 lĩnh vực chủ yếu:
- Mức lợi nhuận
- Năng suất;
- Vị thế cạnh tranh;
- Phát triển việc làm;
- Quan hệ giữa công nhân viên;
- Vị trí dẫn đầu về công nghệ;
- Trách nhiện xã hội
Mục tiêu ngắn hạn: là mục đích cần đạt được trong một kỳ kinh doanh,
mục đích phải hết sức cụ thể và phải nêu ra được các kết quả tiêu đích chi tiết
gắn liền với kế hoạch thực hiện.Nhìn chung các mục tiêu cụ thể khi đưa ra cần
phải đảm bảo tính đúng đắn tức là phù hợp với tình hình sản xuất và năng lực
của doanh nghiệp trên cơ sở đáp ứng đủ 6 tiêu thức:
-Tính cụ thể, tính linh hoạt,
- Tính đo được (định lượng),
- Tính khả thi, tính nhất quán
- Tính hợp lý (khả năng chấp nhận được).
Các mục tiêu cần phải được xác định rõ các vấn đề liên quan, giới hạn thực
hiện cũng như hệ thống các chỉ tiêu con số định lượng cụ thể. Trong điều kiện
biến động của môi trường kinh doanh mục tiêu càng quan trọng thì mức độ linh
hoạt càng cao, do vậy khi mục tiêu thay đổi thì các kế hoach, các chiến lược liên
quan cũng thay đổi theo tạo điều kiện cho các thành viên có liên quan trong và
ngoài doanh nghiệp đều có thể chấp nhận được đối với những thách thức để
hoàn thành mục tiêu.
Mọi tổ chức đểu phải hoạch định mục tiêu, bao gồm chức năng, nhiệm vụ,
chỉ tiêu dài hạn và ngắn hạn. Chức năng nhiệm vụ là nội bao quát, xác định lý

do tồn tại của tổ chức và luôn được đề ra trước nhất. Sau khi đã đề ra chức
năng nhiệm vụ làm định hướng phải tiến hành xác định các mục tiêu dài hạn và
ngắn hạn.
I.4. Vai trò và sự cần thiết hoạch định chiến lược trong kinh doanh.
Nền kinh tế thị trường tự do kinh doanh tạo điều kiện cho việc phát triển
các loại hình doanh nghiệp. Phạm vi phần thị trường của các doanh nghiệp luôn
có nguy cơ bị thu hẹp, trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, việc định hướng chiến
lược kinh doanh có vai trò rất quan trọng, nó quyết định sự tồn vong của cả một
doanh nghiệp. Nên việc đánh giá khả năng thích nghi và sự phù hợp của chiến
lược kinh doanh là rất cần thiết để từ đó nhà lãnh đạo có biện pháp điều chỉnh
theo những biến động của môi trường một cách có hiệu quả nhất. Điều minh
chứng cho thấy lợi ích và vai trò to lớn của việc hoạch định chiến lược đem lại
cho doanh nghiệp là:
- Giúp cho nhà quản trị thấy rõ mục đích và hướng đi của mình, biết được
những kết quả mong muốn và việc sử dụng tài nguyên hợp lý, tối ưu, khuyến
khích tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên.
- Giúp lãnh đạo công ty có điều kiện ra quyết định mang tính thống nhất
phù hợp với các hoạt động nhịp nhàng, uyển chuyển, tạo ra sự đồng tâm nhất trí
của toàn bộ lực lượng hoạt động trong công ty.
- Giúp lãnh đạo chủ động thích ứng trước những sự thay đổi của môi
trường kinh doanh khai thác các cơ hội của môi trường và phát huy sức mạnh
nội tại của doanh nghiệp khắc phục nhược điểm trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Bên cạnh đó ,các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì có nghĩa là
phải chấp nhận những khó khăn thách thức của môi trường, những biến động
bất kỳ của nền kinh tế và sự cạnh tranh khốc liệt của quy luật kinh tế thị trường.
Mỗi doanh nghiệp để bắt đầu việc khởi sự kinh doanh của mình thì phải có
những nguồn lực nhất định, và để tồn tại doanh nghiệp cần phải có chiến lược
kinh doanh phù hợp với những nguồn lực của mình nhằm phát huy các tiềm lực:
như tiềm lực về tài chính, về vốn, về công nghệ lao động vv… Để duy trì và phát

triển hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải phát huy triệt
để mọi tiềm lực này, mọi thế mạnh mà doanh nghiệp mình có. Tức là với nguồn
lực đó làm sao doanh nghiệp tạo được lợi thế hơn so với các doanh nghiệp khác
trong việc thoả mãn đến mức cao nhất các đòi hỏi của thị trường. Vậy trong
doanh nghiệp thì công tác nào giúp cho doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
trên ? Đó chính là công tác quản trị chiến lược hay chính là sự cần thiết phải
soạn thảo những chiến lược kinh doanh và triển khai chiến lược kinh doanh tối
ưu để đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Từ đó cho thấy việc xây dựng
chiến lược kinh doanh tốt là cơ sở quan trọng nhằm thực hiện có hiệu quả công
tác quản trị doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Hơn nữa, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường để tồn tại và phát
triển phải thực hiện xây dựng và áp dụng các chiến lược kinh doanh để nâng cao
khả năng cạnh tranh, song cũng phải tuân theo quy luật cạnh tranh. Với các
doanh nghiệp cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi, một mặt nó đào thải các
doanh nghiệp không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường. Mặt khác nó làm
cho điều kiện cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng khó khăn và khốc liệt
hơn buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cố gắng nghiên cứu thị trường
xây dựng những chiến lược kinh doanh đáp ứng với sự biến động của môi
trường kinh doanh nhằm hoàn thiện hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh
của mình để tồn tại và phát triển. Đây là mục đích tự thân của doanh nghiệp.
Một lý do khác các doanh nghiệp cần phải soạn thảo chiến lược kinh
doanh trong điều kiện hiện nay đó là nhu cầu tiêu dùng hàng hoá của con người
ngày càng cao, là rất đa dạng và phong phú. Song có xu thế là thích tiêu dùng
những sản phẩm hàng hoá dịch vụ có chất lượng tốt mà giá thành lại hợp lý. Để
thoả mãn nhu cầu của khác hàng đòi hỏi doanh nghiệp không được tự bằng
lòng với chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, mà đòi hỏi doanh nghiệp không
ngừng tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường, đánh giá đúng mình đúng
người, xây dựng những chiến lược đầy tham vọng bởi vì sản phẩm ngày hôm
nay được ưu dùng nhưng ngày mai có thể lỗi thời. Trong giai đoạn hiện nay thì
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đang phát triển rất mạnh với tốc

độ chóng mặt. Nhiều công trình khoa học tiên tiến ra đời tạo ra các sản phẩm có
chất lượng tốt mà giá cả hợp lý, đáp ứng mọi mặt nhu cầu của con người.
Nhưng nhu cầu của con người thì vô tận và sẽ tạo ra “khe hở thị trường“ nó
đang chờ các doanh nghiệp tìm ra và thoả mãn. Do vậy doanh nghiệp phải đi
sâu vào nghiên cứu thị trường và phát hiện nhu cầu mới của khách hàng, qua đó
lựa chọn phương án phù hợp với năng lực của mình để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Và trong cuộc chạy đua doanh nghiệp năng động, nhạy bén hơn thì
doanh nghiệp đó sẽ thành công, chính vì vậy các doanh nghiệp phải xây dựng
chiến lược kinh doanh thích hợp trong từng điều kiện cụ thể của môi trường
nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng và chiến thắng các đối thủ khác.
Tóm lại: Việc xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường là cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nó làm
kim chỉ nam cho sự phát triển của doanh nghiệp, nhất là trong trong thị trường
có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
I.5. Các loại hình chiến lược kinh doanh.
* Căn cứ vào phạm vi chiến lược người ta chia chiến lược kinh doanh thành :
- Chiến lược chung : thường đề cập đến những vấn đề quan trọng lâu dài
quyết định sự sống còn của doanh nghiệp
- Chiến lược bộ phận : với doanh nghiệp thường là chiến lược phân phối,
chiến lược sản phẩm, chiến lược giá chiến lược yểm trợ bán hàng...
* Căn cứ và hướng tiếp cận chiến lược kinh doanh chia thành 4 loại
- Chiến lược tập trung và các yếu tố then chốt: Tư tưởng chỉ đạo của chiến
lược này không dàn trải các nguồn lực mà tập trung cho những hoạt động có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp
- Chiến lược dựa trên các ưu thế tương đối: Vấn đề cơ bản của hoạch định
chiến lược ở đây là bắt đầu từ việc phân tích so sánh sản phẩm dịch vụ của
doanh nghiệp mình với các đối thủ cạnh tranh tìm ra các điểm mạnh điểm yếu
của mình để từ đó có các biện pháp giải quyết cụ thể trong chiến lược kinh
doanh
- Chiến lược sáng tạo tấn công: Việc xây dựng chiến lược là tiếp cận theo

cách cơ bản là luôn luôn đặt câu hỏi là "tại sao" nhằm xem xét lại những điều
kiện sảy ra từ đó trả lời cho những câu hỏi này. Tổng hợp lại từ đó có những
khám phá sáng tạo mới dành ưu thế cho doanh nghiệp mình
- Chiến lược khai thác các khả năng tiềm tàng: Dựa trên các sự phân tích
có hệ thống thông tin nhằm khai thác các khả năng có thể của tất cả các yếu tố
ngoài yếu tố then chốt để hoạch định chiến lược tận dụng cơ hội kinh doanh.
* Căn cứ vào cấp quản lý chiến lược :
- Chiến lược cấp công ty (corporate – level strategy): còn gọi là chiến lược
tổng thể bao trùm mọi hoạt động của công ty. Nó xác định và vạch rõ mục tiêu,
nục đích, các tiêu đích của công ty, xác định các hoạt động kinh doanh mà công
ty theo đuổi, Xác định ngành kinh doanh mà công ty đang hoặc sẽ tiến hành,
mỗi ngành kinh doanh đều cần phải xác định rõ là kinh doanh như thế nào lĩnh
vực hoạt động
- Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh (business – level strategy): dành cho
từng lĩnh vực hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp. Mỗi lĩnh vực như thế được
gọi là SBU hoặc đơn vị kinh doanh chiến lược. Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh
là một bộ phận của chiến lược cấp công ty xác định rõ việc lựa chọn sản phẩm
hoặc định dạng cụ thể thị trường cho hoạt động kinh doanh riêng trong nội bộ
công ty nó xác định xem một công ty sẽ cạnh tranh như thế nào với hoạt động
kinh doanh cùng với vị trí đã biết của bản thân công ty giữa những người cạnh
tranh.
Chiến lược cấp kinh doanh còn phải xác định cách thức mỗi đơn vị kinh
doanh sẽ cố gắng hoàn thành mục tiêu của nó để góp phần vào việc hoàn thành
mục tiêu cấp công ty. Nếu công ty là đơn vị ngành thì chiến lược cấp đơn vị kinh
doanh được coi là chiến lược cấp công ty.
- Chiến lược cấp chức năng (function – level strategy): áp dụng cho từng
bộ phận chức năng, đó là các phòng ban khối hoặc khu vực sản phẩm trên thị
trường riêng biệt. Chiến lược cấp bộ phận chức năng tập trung hỗ trợ vào việc bố
trí của chiến lược kinh doanh, tập trung vào các lĩnh vực tác nghiệp, những công
việc kinh doanh. Dù ở mức độ nào các chiến lược cũng tuân theo quy trình cơ bản

(sơ đồ I.2)
Phân tích môi trường
Xác định chức năng, nhiệm vụ mục tiêu
Phân tích v là ựa chọn chiến lược
Thực hiện
Kiểm tra
Phân tích môi trường
Xác định chức năng, nhiệm vụ mục tiêu
Phân tích v là ựa chọn chiến lược
Thực hiện
Kiểm tra
Phân tích môi trường
Xác định chức năng, nhiệm vụ mục tiêu
Phân tích v là ựa chọn chiến lược
Thực hiện
Kiểm tra
Cấp công ty
Cấp kinh doanh cơ sở
Cấp bộ phận chức năng

Sơ đồ I-1. Các cấp quản lý chiến lược
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
Quản trị chiến lược là tổng thể các hành động và các quyết định để tiến
hành việc hoạch định, thực hiện và kiểm tra các chiến lược nhằm đạt được mục
tiêu của tổ chức; đề ra, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm
đạt được các mục tiêu đó trong môi trường hiện tại cũng như tương lai. Quản
trị chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp là một nội dung cơ bản
của quản trị doanh nghiệp.
II.1. Hình thành chiến lược :
Hình thành chiến lược là phác thảo khung khổ cho các hoạt động kinh doanh

dài hạn của doanh nghiệp trong tương lai, được dựa trên cơ sở xác định mục
tiêu, thông tin thu thập được qua quá trình phân tích môi trường hoạt động của
doanh nghiệp và phân tích các yếu tố nội tại trong doanh nghiệp. Trong khi xây
dựng chiến lược kinh doanh, thông qua phân tích tình hình nhà quản trị doanh
nghiệp cần thiết phải dự báo được các tình hình biến động có thể xảy ra của các
nhân tố liên quan nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp và có khả
năng thành công nhất. Những yêu cầu khi thiết lập chiến lược kinh doanh:
a) Chiến lược kinh doanh phải đạt được mục đích tăng thế lực của doanh
nghiệp và giành lợi thế cạnh tranh vì chiến lược kinh doanh chỉ thực sự cần
thiết khi thị trường có sự cạnh tranh
b) Chiến lược kinh doanh phải đảm bảo cho sự an toàn kinh doanh cho
doanh nghiệp. Kinh tế thị trường luôn chứa đựng trong đó những nguy cơ
hiểm hoạ cho hoạt động của các doanh nghiệp "thương trường như chiến
trường"; do vậy yếu tố an toàn trong kinh doanh là tiền đề quan trọng hàng
đầu cho sự tồn tai và phát triển của doanh nghiệp.
c) Chiến lược kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở xác định phạm vi
kinh doanh, mục tiêu và những điều kiện cơ bản để thực hiện mục tiêu. Việc xác
định mục tiêu và những điều kiện cơ bản phải đảm bảo khắc phục được sự dàn
trải nguồn lực và tránh tình trạng không sử dụng hết nguồn lực.
d) Khi thiết lập chiến lược kinh doanh việc phân tích và dự báo biến động
của môi trường kinh doanh là hết sức quan trọng, việc phân tích dự báo càng
chính xác thì khả năng thành công khi triển khai chiến lược kinh doanh càng
cao.
e) Việc xây dựng chiến lược kinh doanh cần thiết phải nắm được thời cơ
thực hiện và có tính linh động; tức là phải xây dựng chiến lược dự phòng, bởi lẽ
những điều kiện trong tương lai luôn là những dự tính và không hoàn toàn chắc
chắn
II.2. Thực hiện chiến lược
Việc xây dựng chiến lược tốt chưa đủ đảm bảo cho thực hiện chiến lược
thành công. Thực hiện chiến lược luôn khó và phức tạp vì việc thực hiện chiến

lược đòi hỏi sự phối hợp toàn diện của tất cả các bộ phận trong cơ cấu tổ chức
của công ty, nó tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh doanh của công ty.
Tổ chức thực hiện chiến lược được thực hiện thông qua các công tác chủ yếu
sau:
- Kế hoạch hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hoạch định và thực thi các chính sách của doanh nghiệp.
- Phân phối các nguồn lực phục vụ kinh doanh.
- Thay đổi, điều chỉnh cơ cấu tổ chức hiện tại.
- Làm thích nghi với quá trình tác nghiệp khi thực hiện chiến lược.
- Thiết lập hệ thống thông tin, ...
Thực hiện chiến lược là giai đoạn gồm nhiều nội dung phức tạp. Vì vậy, việc
điều chỉnh tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận phải được
thiết lập rõ ràng và phải rà soát lại thường xuyên trong quá trình thực thi chiến
lược.
II.3. Kiểm tra, đánh giá chiến lược kinh doanh
Hoạt động quản trị doanh nghiệp sẽ đem lại kết quả không như mong
muốn nếu thiếu hoạt động kiểm tra. Thực hiện chức năng kiểm tra, quản trị
doanh nghiệp phải luôn so sánh giữa mục tiêu đặt ra với kết quả đạt được ở
từng khoảng thời gian, đánh giá xem tại sao và bằng cách nào có thể thực hiện
được các mục tiêu đã đề ra. Tuỳ theo quy mô cũng như lĩnh vực hoạt động quản
trị cụ thể mà hoạt động kiểm tra có nội dung cũng như đòi hỏi phải sử dụng các
tiêu chuẩn, phương pháp và công cụ thích hợp. Vì chiến lược kinh doanh luôn
phải đối đầu với môi trường rất năng động, thay đổi nhanh chóng và khắc
nghiệt nên kiểm tra đánh giá chiến lược luôn được coi là có tầm quan trọng lớn.
* Các yêu cầu đối với kiểm tra, đánh giá trong quản trị chiến lược.
- Hoạt động kiểm tra phải phù hợp với đối tượng kiểm tra và phải phù hợp
với mọi giai đoạn quản trị chiến lược.
Sự phù hợp với đối tượng kiểm tra thể hiện ở việc xác định nội dung, tiêu
chuẩn và phương pháp đánh giá trên cơ sở đòi hỏi của đối tượng đánh giá. Hoạt
động kiểm tra đánh giá ở các doanh nghiệp có quy mô khác nhau, lĩnh vực kinh

doanh khác nhau là không giống nhau. Hoạt động kiểm tra đối với từng giai
đoạn quản trị chiến lược cụ thể:
Trong giai đoạn hình thành chiến lược, đối tượng kiểm tra và đánh giá là
môi trường kinh doanh với các nhân tố có giá trị định hướng vận động trong
khoảng thời gian dài, các mục tiêu dài hạn.
Trong giai đoạn thực thi chiến lược, hoạt động kiểm tra nhằm đánh giá
doanh nghiệp đang ở đâu? Đang hướng tới đâu? Các mục tiêu của doanh nghiệp
như thế nào? Để đạt được các mục tiêu đó doanh nghiệp có cần điều chỉnh các
giải pháp hay không và nếu cần thì điều chỉnh như thế nào? Hình thức kiểm tra
và đánh giá các chương trình sản xuất, các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn
được đặt ra.
Công tác kiểm tra đánh giá cũng phải phù hợp với việc kiểm tra các hoạt
động tác nghiệp. Để chính xác phải dựa trên quan điểm đánh giá đối tượng ở
trạng thái động, xác định xu thế phát triển của đối tượng đánh giá có tính đến
những biến động có thể có của môi trường.
- Hoạt động kiểm tra phải đảm bảo tính linh hoạt: doanh nghiệp cần biết
kết hợp trong kế hoạch kiểm tra của mình cả hai hình thức kiểm tra định kỳ và
kiểm tra bất thường. Nếu môi trường kinh doanh thay đổi thì kiểm tra bất
thường là rất cần thiết để doanh nghiệp có thể thay đổi kịp thời các mục tiêu
hoặc giải pháp để để các mục tiêu đặt ra có tính khả thi hơn và có thể đạt được.
- Kiểm tra phải đảm bảo tính lường trước. Để đảm bảo hệ thống kiểm tra
lường trước hoạt động có hiệu quả cần đáp ứng những yêu cầu sau:
+ Thực hiện phát triển toàn bộ và kỹ càng về hệ thống hình thành
chiến lược, hệ thống xây dựng chiến lược cũng như hệ thống kiểm
tra.
+ Đưa ra một mô hình của hệ thống
+ Quan sát đều đặn mô hình hệ thống
+ Thường xuyên thu thập dữ liệu liên quan đến mô hình
+ Đánh giá sự khác biệt gữa các số liệu mới thu thập và các dữ liệu kế
hoạch đánh giá sự ảnh hưởng của các thay đổi đó tới mục tiêu

+ Giải pháp tác động đến các biện pháp có liên quan
- Kiểm tra phải tập trung vào các điểm thiết yếu: Khi tiến hành kiểm tra
đánh giá chiến lược hoặc các kế hoạch triển khai chiến lược, người làm công tác
này cần phải hướng sự tập trung vào các nhân tố tác động mạnh mẽ đến chiến
lược ( hoặc kế hoạch triển khai chiến lược ) cũng như những nhân tố có sự biến
động chệch khỏi xu thế đã dự đoán đáng kể để chỉ cần tập trung vào những nhân
tố, những mục tiêu hoặc chỉ tiêu nào có khác biệt lớn. Tuy nhiên, có những nhân
tố tuy sự biến đổi không nhiều so với phán đoán chiến lược nhưng vì những
nhân tố này có tác động lớn đến các mục tiêu chiến lược hoặc chiến thuật nên
không được phép bỏ qua khi tiến hành kiểm tra, đánh giá chiến lược kinh doanh
và phát triển doanh nghiệp.
* Nội dung chủ yếu của kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh chiến lược kinh doanh:
- Xác định nội dung kiểm tra, đánh giá chiến lược: Nội dung kiểm tra đánh giá
phải xuất phát từ sự phù hợp với nội dung của chiến lược cũng như các kế
hoạch triển khai chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.
- Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra bao gồm các tiêu chuẩn định tính và định
lượng: Trong thực tế, tuỳ từng đối tượng và nội dung kiểm tra có thể xác định
các tiêu chuẩn định tính hay định lượng. Việc xây dựng các tiêu chuẩn định tính
có thể và phải đảm bảo tính nhất quán, tính phù hợp và tính khả thi. Tiêu chuẩn
định lượng có thể là các phạm trù phản ánh số lượng và cũng có thể là tiêu
chuẩn chất lượng.
- Quá trình đánh giá thực hiện chiến lược theo tiêu chuẩn đã xây dựng: Quá
trình kiểm tra đánh giá chiến lược rất cần thiết cho toàn bộ quá trình hoạch
định và triển khai thực hiện chiến lược. Nó phải tuân thủ theo một quy trình
nhất định đảm bảo tính khoa học bao gồm những nội dung chính như: đánh giá
chiến lược; đánh giá các kế hoạch triển khai chiến lược và điều chỉnh chiến lược.
- Đảm bảo cơ sở thông tin để kiểm tra đánh giá chiến lược: Quá trình quản trị
chiến lược sẽ được tạo điều kiện dễ dàng hơn nhiều khi doanh nghiệp thiết lập
được hệ thống thông tin chính xác và hiệu quả. Để có được những thông tin cần
thiết, doanh nghiệp phải biết sử dụng những thông tin sẵn có như số liệu thống

kê hàng năm, số liệu công bố ở các cơ quan nghiên cứu, khai thác nguồn tin
ngoài nước và tổ chức nghiên cứu, thu lượm những thông tin cần thiết khác.
Bên trong doanh nghiệp phải thiết kế hệ thống thu thập và xử lý, bảo quản thông
tin khoa học, hiện đại.
III. QUY TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH TRONG CÔNG TY
Hoạch định chiến lược là phác thảo khung khổ cho các hoạt động kinh
doanh dài hạn của doanh nghiệp trong tương lai dựa trên cơ sở các thông tin
thu thập được qua các quá trình phân tích và dự báo. Hiện nay, có rất nhiều
quan điểm và cách thức khác nhau về các bước hoạch định một chiến lược kinh
doanh trong một doanh nghiệp. Mỗi quy trình có cách thức tiến hành tiến hành
khác nhau nhưng nội dung về cơ bản là đồng nhất nhau.
Tuy nhiên những quy trình này không phải là đã thực sự hoàn hảo mà ta
cần phải nghiên cứu hoàn thiện hơn. Quy trình tám bước đã được tổng kết từ
kinh nghiệm của các công ty kinh doanh Nhật Bản và được khái quát theo 8
bước sau:
1: Xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
2. Phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh
3. Tổng hợp các kết quả và dự báo những thay đổi của môi trường
4. Phân tích nguồn lực trong doanh nghiệp
5. Tổng hợp và đánh giá kết quả phân tích
6. Nghiên cứu các quan điểm kinh doanh
7. Xây dựng và chọn lựa các phương án chiến lược thích nghi
8. Đánh giá và thực hiện phương án chiến lược kinh doanh
III.1: Xác định nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu của doanh nghiệp
Xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu là bước đầu tiên của
tiến trình quản trị chiến lược làm nền tảng cho việc soạn thảo xây dựng chiến
lược kinh doanh. Để có thể xác lập được nhiệm vụ chiến lược và các mục tiêu
cụ thể cần theo đuổi, doanh nghiệp có thể vận dụng nghiên cứu theo nguyên
tắc 3C ( cụ thể là Phân tích doanh nghiệp; Nghiên cứu khách hàng và Tìm hiểu

×