Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.01 KB, 33 trang )

LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Từ những năm 90 trở lại đây, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau ra đời, do cơ chế luật pháp thông thoáng, tư duy con người thay đổi và
phát triển. Vậy doanh nghiệp là gì? Nó có phải đơn thuần chỉ là một cửa hàng
buôn bán lặt vặt ngoài phố, hay những nhà xưởng sản xuất xe đạp Thống nhất,
những bao phân lân để rồi khi không có tiền thì lấy chính sản phẩm đó trả thay
tiền lương?
Chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem doanh nghiệp sẽ được hiểu như thế nào là
đúng nghĩa nhất.
1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Theo “Luật Doanh nghiệp” ban hành ngày 12/6/1999 thì :
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện hoạt động kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh ở đây được hiểu là
việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lời.
Như thế có thể hiểu doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách
pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở
hữu.
ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều loại hình doanh nghiệp như : Doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh, công ty
liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Việc phân loại doanh nghiệp như vậy là dựa vào hình thức sở hữu vốn
đầu tư: Doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn đầu tư do Nhà nước cấp phát, lãi
thì Nhà nước thu một phần lợi nhuận, lỗ thì không phải nộp thuế, còn được cấp
phát vốn. Điều này đã khiến cho đa số doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam làm
ăn trở nên thua lỗ. Điều nguy hiểm hơn cả là trong nền kinh tế nước ta có tới 1/2
là doanh nghiệp Nhà nước nếu không nói là hầu như chỉ có doanh nghiệp Nhà


nước những năm 90. Nhưng mọi việc ngày nay đã thay đổi, bên cạnh những
doanh nghiệp Nhà nước còn có :
* Công ty cổ phần – tức là doanh nghiệp mà vốn do nhiều thành viên
đóng góp, những thành viên góp vốn gọi là cổ đông. Công ty cổ phần có quyền
phát hành cổ phiếu.
*Công ty TNHH, vốn góp cũng do các thành viên công ty đóng góp. Tuy
nhiên, số thành viên trong công ty không vượt quá 50 người và không được phát
hành cổ phiếu.
*Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp mà vốn do một thành
viên đứng tên doanh nghiệp. Doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân,
không được phát hành cổ phiếu, người sở hữu vốn trong doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm vô hạn về khoản nợ phát sinh trong doanh nghiệp. Đây là loại hình
doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các mô hình
kinh doanh khác như: Công ty hợp doanh, hộ gia đình, ….
Ngoài việc phân chia theo hình thức góp vốn, ta có thể phân loại doanh
nghiệp theo chủ thể kinh doanh:
Kinh doanh cá thể (Sole Proprietorship), kinh doanh góp vốn
(Parnership), công ty (Corporation).
Kinh doanh cá thể là loại hình thành lập đơn giản nhất, không cần có điều
lệ chính thưc và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Loại hình kinh doanh này
không bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp mà tất cả lợi nhuận được tính vào
thu nhập cá nhân. Đây là loại hình doanh nghiệp này không có tư cách pháp
nhân, chủ doanh nghiệp phải chịu tránh nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và
các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh
nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào người
chủ sở hữu doanh nghiệp. Khả năng thu hút vốn của loại hinh doanh nghiệp này
bị hạn chế bởi nó phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của người chủ sở hữu.
Kinh doanh góp vốn là loại hình doanh nghiệp rất phát triển ở nước ta
hiện nay,do việc thành lập doanh nghiệp này hết sưc dễ dàng với chi phí thấp,
một số trường hợp cần giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có

trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Nếu như một thành viên không hoàn
thành trách nhiệm của mình thì phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả.
Tuổi thọ của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên chính thức,
doanh nghiệp sẽ tan vỡ nếu một thành viên chết hoặc rút vốn. Việc huy động
vốn của loại hình doanh nghiệp này cũng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng, uy
tín của các thành viên chính thức, do vậy nó cũng khá hạn chế. Lãi thu được từ
hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
Hình thức cuối cùng là công ty: đây là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có
kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông(chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của
các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng,
hoạt động và chính sách của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó
HĐQT lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động theo nguyên tắc đem
lại lợi ích tốt nhất cho các cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà
quản lý mang lại lợi thế cho công ty so với kinh doanh cá thể và góp vón như:
+ Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển nhượng cho cổ đông mới.
+ Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào số lượng, tuổi thọ của các cổ
đông.
+ Trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn tại phần vốn góp của cổ đông vào
công ty.
Mỗi loại hình doanh nghiệp có các ưu nhược điểm riêng. Việc phân loại
này chỉ mang tính tương đối. Trong bài viết này, các mô hình trên đều gọi chung
là doanh nghiệp với chung mục tiêu hoạt động là tối đa hoá lợi nhuận .
Ngày nay trong môi trường xã hội biến động theo từng giờ, mọi hoạt
động, quyết định của doanh nghiệp chị sự tác động của môi trường mà nó tồn
tại.
Môi trường ở đây được hiểu là tổng hoá các yếu tố có thể làm thay đổi
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như:
Sự quản lý của Nhà nước: Một cá nhân, tổ chức có thể tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh, có thể đưa doanh nghiệp phát triển tới vị trí mong
muốn. Nhưng sự thắt chặt hay nới lỏng của doanh nghiệp đó lại hoàn toàn phụ

thuộc vào sự điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ
chế quản lý tài chính. Vì thế ta thấy, có một số lĩnh vực kinh tế thì rất phát triển
cả về số lượng người kinh doanh, cả về quy mô nguồn vốn, nhưng một số lĩnh
vực không phải ai kinh doanh cũng được, và với quy mô kinh doanh bao nhiêu
là tuỳ thích. Bởi chúng chịu sự tác động của cơ chế quản lý của Nhà nước.
Một số yếu tố nữa mà doanh nghiệp ngày càng thực sự phải đối đầu, đố là
sự thay đổi của khoa học công nghệ. Sự thay đổi khoa học công nghệ diễn ra
từng ngày, từng tháng đã mang lại rất nhiều thay đổi trong phương thức sản
xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài
chính của doanh nghiệp, bởi nó không chỉ đem lại những cơ may mà còn đem
đến rất nhiều những rủi ro lớn. Vì vậy, nhà quản lý luôn phải đối đầu với những
rủi ro có thể xảy ra, để có thể ứng phó kịp thời, đúng đắn. Doanh nghiệp với sức
ép từ phía thị trường, từ sự thay đổi tư duy con người, đã chuyển dần từ phương
thức sản xuất kinh doanh cổ điển là chỉ quan tâm đến cái mà mình sản xuất,
chuyển sang việc quan tâm cái mà thị trường cần. Việc tính đến sự tác động của
môi trường , sự thay đổi không ngừng trong cung cách làm ăn của doanh nghiệp
là để đạt được mục tiêu sự phát triển bền vững – tối đa hoá lợi nhuận.
Nếu xa rời mục tiêu này, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại lâu được. Việc
tìm hiểu chỉ tiêu này, sẽ thấy được tầm quan trọng của nó.
1.1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
* Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận
Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu để đánh giá sự làm ăn có hiệu quả
hay không của doanh nghiệp.
Sự thay đổi liên tục trong phương thức sản xuất kinh doanh, những chiến
lược mới trong phương thức quản lý. Mục tiêu của nó là để cho doanh nghiệp có
thể tồn tại bền vững và từ đó là đem lại nhiều lợi nhuận hơn nữa.
Lợi nhuận : Chỉ tiêu mà mọi thời kỳ kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều
quan tâm và lấy đó làm đích để hướng tới, từ đây cũng nảy sinh rất nhiều những
quan điểm khác nhau về lợi nhuận
- Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng, “cái phần trội lên

nằm trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo Adam Smith lợi nhuận là “
khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo Ricardo “ lợi
nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công”
- K.Mark thì cho rằng “ giá trị thặng dư, hay phần trội lên nằm trong toàn
bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay là lao động không được
trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận.
- Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuelson và W. D . Nordhaus lại cho
rằng “ lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ đi tổng số chi hay nó
cách khác lợi nhuận được định ngiã là “sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và
tổng chi phí” của một doanh nghiệp. David Begg thì cho rằng lợi nhuận là
“khoản dôi ra của doanh thu so với chi phí”.
Các khái niệm trên tuy được phát biểu khác nhau song đều có điểm
chung, là coi lợi nhuận là số phần thừa ra từ chênh lệch giữa những khoản thu
được và chi phí phải bỏ ra.
Đứng về phía góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản còn lại của doanh
nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí ( chi phí nguyên vật liệu, tiền lương, thuế
thu nhập doanh nghiệp..
Lợi nhuận được định nghĩa như vậy, thế nhưng xuất phát từ đâu để có các
khoản lợi nhuận đó, đây quả thật là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
- Phái trọng thương thì cho rằng “ lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực
lưu thông”
- Phái trọng nông lại quan niệm “ Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần
tuý là tặng vật của thiên nhiên và của nông nghiệp, là ngành duy nhất tạo ra sản
phẩm thuần tuý”
- Phái cổ điển mà nổi tiếng là A. Smith là người đầu tiên tuyên bố rằng “
lao động nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư” và chính ông ta lại khẳng
định giá trị hàng hoá bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô. Còn theo Ricardo
thì “ Giá do lao động của công nhân sáng tạo ra, là nguồn gốc sinh ra tiền lương,
lợi nhuận cũng như địa tô”
Từ hai quan điểm được phát biểu trên, chúng ta thấy rằng cả Adam Smith

và Ricardo đều đã lẫn lộn giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận.
Với tư duy duy vật biện chứng, K.Mard đã xây dựng thành công lý luận
về hàng hoá sức lao động_cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến
kết luận:” Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận”
- Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự phân
tích thực tế thì kết luận lợi nhuận của doanh nghiệp gồm: Thu nhập từ các
nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư trong kinh doanh, phần thưởng cho sự
mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền.
Việc hiểu rõ bản chất của lợi nhuận là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là với
các nhà quản trị doanh nghiệp , để từ đó họ có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp một cách hợp lý, đúng đắn, từ đó có thể đưa ra các biện pháp
khác nhau làm tăng cao lợi nhuận.
Phân phối lợi nhuận: Quá trình sản xuất , kinh doanh là quá trình tuần
hoàn liên tục, chu kỳ này nối tiếp chu kỳ khác. Để có thể tiếp tục vòng quay này
phải có vốn đầu tư vào, điều này không thể mãi đòi hỏi từ chủ sở hữu bởi không
ai có một nguồn lực vô hạn như vậy. Để có thể tái mở rộng sản xuất, lợi nhuận
chính là nguồn lực cần thiết và cần phải có. Người ta sẽ phân chia khoản lợi
nhuận đó như thế nào? Giữ lại toàn bộ để tiêu dùng? Đầu tư toàn bộ vào tái sản
xuất hay có những phương thức nào khác? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào
người chủ doanh nghiệp. Nhưng hiện nay có một phương pháp chung mà các
doanh nghiệp hay áp dụng để phân phối lợi nhuận.
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp một phần dùng để chia lãi cổ phần,
còn lãi là lợi nhuận không chia. Tỷ lệ phần lợi nhuận chia lãi và không chia tuỳ
thuộc vào chính sách của Nhà nước (Đối với doanh nghiệp Nhà nước) hay chính
sách cổ tức cổ phần của đại hội cổ đông ( Đối với doanh nghiệp khác) ở mỗi
doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam, lợi nhuận sau thuế sau khi
nộp phạt và các khoản khác nếu có được trích lập các quỹ của doanh nghiệp như
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc

làm, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
*Các quỹ doanh nghiệp:
+ Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được sử dụng vào các mục đích sau:
Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh
Đổi mới , thay thế thiêt bị máy móc, dây chuyền công nghệ, nghiên cứu,
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đổi mới trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp.
Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các cán
bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Bổ sung vốn lưu động.
Tham gia liên doanh, liên kết, mua cổ phiếu.
Trích nộp cấp trên ( Nếu có)
+ Qũy dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những thiệt
hại, tổn thất về tài sản do thiên tai, những rủi ro trong kinh doanh không được
tính vào giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm.
Trích nộp để hình thành quỹ dự phòng tài chính của tổng công ty (nếu là
thành viên của tổng công ty) theo tỷ lệ do hội đồng quản trị tổng công ty quyết
định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ tổn thất, thiệt hại trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành viên theo quy chế quản lý tài chính của
tổng công ty.
+ Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người đang
làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc
đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hay
chuyển sang công việc mới.
Trợ cấp cho người lao động theo nguyên nhân khách quan như: lao động
dôi ra do thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong khi chưa
bố trí công việc khác hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc.
Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm Giám đốc và Chủ tịch Công đoàn
xét cụ thể theo pháp luật hiện hành.
+ Quỹ phúc lợi: Quỹ này dùng để xây dựng, sửa chữa, bổ xung các công

trìng phúc lợi chung trong nghành, hoặc với các đơn vị khác theo thoả thuận,
chi cho hoạt động phúc lợi xã hội, thể thao, văn hóa, phúc lợi công cộng của
toàn thể công nhân viên trong doanh nghiệp; đóng góp cho quỹ phũc lợi xã
hội( các hoạt động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng…);…
Ngoài ra, doanh nghiệp sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho
người lao động của doanh nghiệp đã về hưu, mất sức hay lâm vào cảnh khó
khăn,không nơi nương tựa
Ngoài các loại quỹ trên người ta còn phân chi lợi nhuận để hình thành
nên quỹ khen thưởng.
+ Quỹ khen thưởng dùng để :
Thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp, mức thưởng do HĐQT, Giám đốc( nếu doanh nghiệp không có HĐQT)
quyết định sau khi có ý kiến tham gia của Công đoàn doanh nghiệp trên cơ sở
năng suất lao động, thành tích công tác và mức lương cơ bản của mỗi cán bộ,
CNV trong doanh nghiệp.
Thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến cải
tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh.
Việc phân chia lợi nhuận ra thành các quỹ là việc làm cần thiết, nó có thể
giúp cho doanh nghiệp phản ứng một cách nhanh chóng đối với những rủi ro
sảy ra và khích lệ tinh thần cho các cá nhân có thành tích. Ngoài ra, việc phân
chia lợi nhuận thành quỹ dự phòng tài chính tạo ra một tâm lý an tâm hơn trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Qua một số phân tích ở trên, ta có thể thấy đựơc lợi nhuận là vô cùng
quan trọng đối với doanh nghiệp. Vậy ngoài doanh nghiệp ra, lợi nhuận còn có
vai trò nào khác? Chúng ta sẽ xem xét ở phần dưói đây:
Vai trò của lợi nhuận.
Lợi nhuận không chỉ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp
mà còn là nguồn dinh dưỡng chính nuôi dưỡng nền kinh tế của một quốc gia.
Lấy gì để thu thuế khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ? Việc xem xét vai trò của lợi
nhuận đối với từng đối tượng cụ thể sẽ làm chúng ta hiểu tầm quan trọng của

nó.
*Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu tổng hộp
nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động cơ, mục đích
của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra để kinh doanh. Điều này được thể hiện:
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ xung vốn vào
mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi nhuận,
lập các quỹ trong doanh nghiệp như: Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi…Từ các quỹ này, doanh nghiệp có thể bổ xung vốn
lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất – kinh doanh đòi hỏi. Và cũng
chính từ các quỹ này, doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao đời sống của cán
bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần khuyến khích người lao động gắn bó
với công việc, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh phát triển.
Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh
toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các nghĩa vụ với
Nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Lợi nhuận là nguồn tài chính
để doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay các khoản bị phạt do
chậm nộp thuế, do vi phạm hợp đồng.
Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ khả năng tái sản xuất giản
đơn( bù đắp hao phí trong quá trình sản xuất – kinh doanh) thì tình hình tài
chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không
những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng đổi
mới máy móc thiết bị, ứng dung khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh
doanh giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và có uy tín.
* Đối với người lao động
Lợi nhuận là nguồn chính để doanh nghiệp trích lập quỹ: quỹ trợ cấp mất
việc làm, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, giải quyết nhu cầu xã hội cho

cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn để trích lập các quỹ này càng
lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện nâng cao tinh thần, vật chất cho cán bộ
công nhân viên, từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng cao tính chủ
động, sáng tạo trong quá trình làm việc. Chính vì thế, việc sản xuất có lãi ngày
càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở rộng mà còn là
quyền lợi thiết thựccủa CBCNV trong doanh nghiệp.
Thực tế đã chứng minh: áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến
khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc , có trách nhiệm
đến cùng với sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật,
tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu để hạ giá thành sản phẩm.
* Đối với nền sản xuất xã hội.
Trước hết ta thấy, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước,
nhằm thoả mãn nhu cầu nền kinh tế quốc dân, là nguồn duy trì bộ máy hành
chính, là nguồn củng cố và tăng cường nguồn lực quốc phòng, cải tiến đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân. Muốn thu được thuế thì doanh nghiệp
phải làm ăn có lãi. Sự phát triển của các doanh nghiệp tạo ra sự tích luỹ trong xã
hội, tạo sự ổn định về mặt kinh tế cho một quốc gia, từ đó có sự ổn định về
chính trị.
Lợi nhuận là yếu tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, thông qua việc doanh
nghiệp liên tục cải tiến khoa học kỹ thuật và mở rộng không ngừng để có được
mức thu nhập như mong muốn. Lấy ví dụ như trong thời kỳ bao cấp, sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp quốc doanh phụ thuộc hoàn toàn vào sự bao cấp
của Nhà nước, vốn do Nhà nước cấp phát hoàn toàn, sử dụng hiệu quả như thế
nào doanh nghiệp hoàn toàn không chịu trách nhiệm, lỗ đã có Nhà nước bù. Vì
thế trong thời kỳ này, doanh nghiệp làm ăn không năng động do động lực kích
thích bị thui chột, tình trạng thua lỗ kéo dài, từ đó nhìn toàn cảnh xã hội là
nghèo nàn, lạc hậu.
Từ khi xoá bỏ chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp
chuyển sang chế độ hoạch toán kinh doanh, bộ mặt nền kinh tế có sự thay đổi
hết sức tích cực. Doanh nghiệp hoạt động có mục đích của nó, khiến cho nó trở

nên năng động, sáng tạo và luôn đổi mới mình.
Như vậy, có thể đi đến kết luận: lợi nhuận có vai trò vô cùng to lớn đối
với nền kinh tế, nó chính là động lực, mục tiêu để doanh nghiệp hoạt động và
phát triển, là nguồn tích luỹ của xã hội, là sự thể hiện sức mạnh của nền kinh tế .
Trên đây, chúng ta thấy sự cần thiết khi doanh nghiệp làm ăn có lãi,
nhưng việc tính toán một cách chính xác doanh nghiệp đó có thực sự có lợi
nhuận hay không là việc không phải dễ dàng. Ngày nay, người ta đưa ra phương
pháp để tính toán lợi nhuận của doanh nghiệp, ta sẽ xem xét phần tiếp theo.
1.2.Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.1. Các yếu tố cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường năng động, để tăng
cường khả năng cạnh tranh, thu đựơc nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp có xu
hướng đa dạng hoá hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh
vực khác nhau. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần thu
được từ quá trình sản xuất – kinh doanh mà có thể còn thu đựơc từ kết quả quá
trình hoạt động tài chính hay là từ một hoạt động bất thường nào đó. Lợi nhuận
của doanh nghiệp là tổng hợp của các lợi nhuận đó.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ của các ngành sản xuất - kinh doanh chính và sản xuất – kinh doanh
phụ. Lợi nhuận thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận từ hoạt động sản
xuất – kinh doanh.
Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn nhằm
mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất
động sản, buôn bán ngoại tệ. Lãi thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận thu
đựơc từ hoạt động tài chính.
Những hoạt động trên đều đã được doanh nghiệp hoạch định từ trước, có
kế hoạch, có sự chuẩn bị các hoạt động theo ý muốn. Tuy nhiên, trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp, có rất nhiều hoạt động không được hoạch định từ
trước mà xảy ra bất ngờ như thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải quyết

tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên
nhân. Những hoạt động này cũng đem lại cho doanh nghiệp những khoản thu
nhập, khoản thu này sau khi đã trừ đi các chi phí cho những hoạt động bất
thường này gọi là lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Như vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động
sản xuất – kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt
động bất thường.
Việc cần thiết bây giờ là làm thế nào có thể tính toán các khoản lợi nhuận
này? Chúng ta sẽ tính toán theo phương pháp sau:
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như đã định nghĩa ở trên, lợi nhuận được hiểu là phần chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí, nhưng thực tế thì cũng không hoàn toàn như vậy, bởi vì
phần thu nhập này lại phải chịu một phần thuế thu nhập do Nhà nước đánh. Vì
thế, ta sẽ đưa ra hai khái niệm sau:
* Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp: bao gồm lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất
thường.
* Lợi nhuận sau thuế ( thu nhập sau thuế) của doanh nghiệp là chênh lệch
giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thu nhập trước thuế
Thuế suât thuế thu nhập doanh nghiệp
=
X
Lợi nhuận sau thuế
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu nhập doanh nghiệp
=
-
Trong phần nghiên cứu dưới đây, lợi nhuận đề cấp là lợi nhuận trước

thuế, gọi chung là lợi nhuận của doanh nghiệp. Như đã nói ở phần trên:
Lợi nhuận của doanh nghiệp
=
Lợi nhuận từ HĐKD
Lợi nhuận từ HĐTC
Lợi nhuận từ HĐBT
+
+
Lợi nhuận từ HĐBT
Thu nhập từ HĐBT
Chi phí cho HĐBT
=
-
Trong đó:
Doanh thu từ hoạt động bất thường là khoản thu về việc thanh lý, nhượng
bán tài sản cố định, tiền thu từ vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi mà
đã nghi là đã mất.
Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi như : chi phạt thuế, bị
phạt vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định…
Thực ra đây là hợp đồng không thường xuyên và ít xảy ra trong doanh
nghiệp nên tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động này thường rất nhỏ và có thể dễ dàng
hoạch toán trong một chu kỳ kinh doanh.
Lợi nhuận từ HĐTC
Doanh thu từ HĐTC
Chi phí cho HĐTC
=
-
Đối với những doanh nghiệp cho thuê tài chính, hay đối với các nhân hàng thì
lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất. Doanh thu từ hoạt
đọng tài chính bao gồm: khoản thu từ việc mua bán trái phiếu, cổ phiếu, thu

nhập từ hoạt động liên doanh liên kết, thu nhập từ hoạt động cho thuê tài sản,
thu nhập từ hoạt động gửi tiền vào ngân hàng.
Chi phí cho hoạt động tài chính là các chi phí cho việc mua bán chứng
khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần, chi phí
cho hoạt động thuê tài chính…
Trong bài viết này, đang đứng nghiên cứu dưới góc độ doanh nghiệp
thông thường, nên tỷ trọng từ hoạt động bất thường, hoạt động tài chính chiếm
tỷ trọng nhỏ, không phản ánh được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần
lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong doanh nghiệp thông thường là lợi nhuận từ
hoạt động sản xuất kinh dona, và cũng là mục đích nghiên cứu chính của bài
viết này.
Lợi nhuận = Doanh thu tiêu thụ - Chi phí hoạt động
hoạt động kinh doanh sản phẩm dịch vụ kinh doanh

×