Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế và thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.14 KB, 40 trang )

Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế và thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ
1.1. Khái niệm về thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện chi trả bằng tiền liên quan đến
các dịch vụ mua bán hàng hoá hay cung ứng lao vụ... giữa các tổ chức
hay cá nhân nước này với các tổ chức hay cá nhân nước khác, hay
giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế thông qua quan hệ giữa các
ngân hàng của các nước liên quan.
Dưới giác độ kinh tế, các quan hệ quốc tế được phân chia thành
hai loại: quan hệ mậu dịch và quan hệ phi mậu dịch. Do đó thanh toán
quốc tế cũng bao gồm: thanh toán phi mậu dịch và thanh toán mậu dịch.
- Thanh toán phi mậu dịch: Là quan hệ thanh toán phát sinh không
liên quan đến hàng hoá cũng như cung ứng lao vụ, nó không mang tính
chất thương mại. Đó là những chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại
thương ở nước sở tại, các chi phí về vận chuyển và đi lại của các đoàn
khách Nhà nước, các tổ chức, cá nhân.
- Thanh toán mậu dịch: Khác hoàn toàn với thanh toán phi mậu
dịch, thanh toán mậu dịch phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá và các
dịch vụ thương mại theo giá cả quốc tế. Thông thường trong nghiệp vụ
thanh toán mậu dịch phải có chứng từ hàng hoá kèm theo. Các bên
mua bán bị ràng buộc với nhau bởi hợp đồng thương mại, hoặc một
hình thức cam kết khác (thư, điện giao dịch...). Mỗi hợp đồng chỉ ra một
mối quan hệ nhất định, nội dung hợp đồng phải quy định điều kiện thanh
toán cụ thể.
Ngoài hai loại hình thanh toán nêu trên, trong thanh toán quốc tế
còn có: thanh toán vay nợ viện trợ. Thực chất loại thanh toán này cũng
là thanh toán mậu dịch, nhưng chỉ khác nhau ở nguồn vốn. Thanh toán
mậu dịch được thực hiện bằng nguồn vốn tự có, còn thanh toán vay nợ
viện trợ do nước ngoài cấp vốn.
1.2 Vai trò của thanh toán quốc tế
1.2.1 Đối với nền kinh tế


- Thanh toán quốc tế là đòi hỏi tất yếu khách quan trong sự phát
triển kinh tế đối ngoại.
Với sự gia tăng mạnh mẽ của hoạt động giao lưu quốc tế, nhu cầu
hợp tác, phân công lao động quốc tế, trao đổi hàng hóa... giữa các nước
gia tăng không ngừng. Từ đây bắt đầu phát sinh các mối liên hệ giữa
người mua và người bán, người cho vay và người trả nợ, người đầu tư
và người nhận đầu tư... và các bên liên quan trong quan hệ quốc tế có
sự khác nhau về địa lý, về loại tiền sử dụng, về tập quán kinh doanh...vì
vậy thanh toán quốc tế ra đời là đòi hỏi tất yếu để giải quyết một phần
và làm hài hoà các mối quan hệ đó.
- Thanh toán quốc tế là một hình thức dịch vụ quan trọng gắn liền
với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Kể từ khi tiền tệ ra đời, hoạt động thanh toán đã trở thành bộ phận
riêng nhưng lại gắn bó hữu cơ với hoạt động buôn bán hàng hoá. Có
thể thấy trên một hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ điều khoản
thanh toán luôn luôn là điều khoản không thể thiếu và rất quan trọng.
Thực hiện thanh toán như thế nào liên quan chặt chẽ tới quyền lợi, trách
nhiệm, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Các điều khoản thanh
toán được quy định và thỏa thuận một cách thống nhất và chặt chẽ sẽ
tạo điều kiện cho các bên tham gia tránh được những rủi ro, cũng như
có biện pháp để phòng ngừa rủi ro. Việc thực hiện các điều khoản thanh
toán có nghiêm túc hay không ảnh hưởng tới uy tín và độ bền vững
trong quan hệ mua bán giữa các bên trên thương trường. Do đó có thể
nói hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh XNK một phần lớn nhờ
vào chất lượng của khâu thanh toán, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế
đối ngoại phát triển.
- Thanh toán quốc tế là thước đo, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh.
Thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến vòng quay vốn của
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xuất

nhập khẩu, do vậy ảnh hưởng đến doanh thu cũng như lợi nhuận của
các bên tham gia. Thông qua hoạt động thanh toán, chúng ta có thể
đánh giá khả năng tài chính, uy tín cũng như tiềm lực của mỗi đơn vị.
Chính vì vậy xem xét tình hình thanh toán là một trong những cơ sở để
tìm đối tác, bạn hàng trong quan hệ kinh doanh sao cho có lợi cho mình
nhiều nhất. Có thể nói rằng, kinh tế đối ngoại có được mở rộng hay
không một phần là nhờ vào hoạt động thanh toán quốc tế có được thực
hiện tốt hay không. Thanh toán quốc tế hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện
đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển sản xuất trong nước,
khuyến khích nâng cao chất lượng hàng hoá, thực hiện mục tiêu chiếm
lĩnh thị trường xuất khẩu của các quốc gia.
1.2.2. Đối với Ngân hàng
Đối với Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh
toán quốc tế có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Đây không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà còn
được coi là không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của mỗi Ngân
hàng, bổ sung và hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh khác trong Ngân
hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng thu hút thêm
nhiều khách hàng có nhu cầu thanh toán quốc tế, phần lớn là các khách
hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trên cơ sở
đó, Ngân hàng có thể mở rộng qui mô hoạt động, tăng thêm nguồn thu
nhập, củng cố khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trên phương diện quản lý nhà nước, thông qua hoạt động thanh
toán quốc tế, Chính phủ thực hiện tốt quản lý nguồn ngoại tệ ra vào của
một quốc gia dựa trên cán cân thanh toán quốc tế và làm cơ sở cho việc
xây dựng và thực hiện chính sách tài khoá - tiền tệ. Như vậy, trong xu
thế phát triển hiện nay thanh toán quốc tế có một vị trí rất quan trọng và
đòi hỏi các Ngân hàng phải nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ thanh
toán quốc tế.

Cũng chính bởi thanh toán quốc tế là một loại hình dịch vụ không
thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của mỗi NHTM, vì thế các ngân
hàng cũng có một vai trò rất lớn để đẩy mạnh và phát triển dịch vụ này.
Nhờ có sự tham gia của mạng lưới các ngân hàng rộng lớn trên khắp
thế giới với chức năng làm trung gian thanh toán, việc thanh toán giữa
các quốc gia được diễn ra thuận lợi, tiết kiệm được thời gian và chi phí,
từ đó nó thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển. Bên cạnh đó,
Ngân hàng không chỉ thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế đơn thuần
mà còn tham gia vào việc tư vấn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoàn
thiện nghiệp vụ này tránh những rủi ro dựa vào sự hiểu biết của ngân
hàng.
1.3. Khái quát về quá trình phát triển thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế đã xuất hiện từ lâu, nhưng thực sự chỉ được
phát triển từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và từ đó đến nay nó trở thành
một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế. Quan hệ kinh tế quốc tế
ngày càng được mở rộng. Hàng năm, một khối lượng lớn hàng hoá
được giao lưu trên Thế giới, vì vậy thanh toán quốc tế là một đòi hỏi
khách quan. Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, yêu cầu
trong thanh toán quốc tế phải có những phương thức thanh toán mới
cho phù hợp. Do đặc tính thuận lợi của hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt, cùng với sự phát triển của hệ thống Ngân hàng ở các
nước cho nên trong thanh toán quốc tế sử dụng thanh toán không dùng
tiền mặt (tức chuyển khoản) là chủ yếu.
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ II, hệ thống các nước Xã hội chủ
nghĩa được thành lập, quan hệ kinh tế giữa các nước Xã hội chủ nghĩa
được hình thành và phát triển thì quan hệ thanh toán cũng được mở
rộng. Trong thời gian đầu, Liên xô là nước cung cấp hàng hoá chủ yếu
cho các nước Xã hội chủ nghĩa khác, cho nên việc thanh toán hàng hóa
mới chỉ là thanh toán Clearing tay đôi giữa Liên xô với từng nước Xã hội
chủ nghĩa. Sau một thời gian, nền kinh tế của các nước Xã hội chủ

nghĩa được phục hồi và dần dần phát triển thì quan hệ trao đổi hàng hoá
giữa các nước cũng được mở rộng, từ đó hình thành quan hệ thanh
toán Clearing tay đôi giữa các nước Xã hội chủ nghĩa với nhau.
Quá trình phát triển quan hệ thanh toán quốc tế giữa Việt Nam với
các nước Xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu từ chế độ thanh toán Clearing
hai bên (Việt nam với Liên Xô, Việt Nam với Tiệp Khắc...), tiếp đến là
chế độ thanh toán Clearing nhiều bên và thanh toán Clearing nhiều bên
bằng đồng Rup chuyển khoản qua Ngân hàng Hợp tác kinh tế quốc tế
(RCK).
Bước sang những năm 90, tình hình Thế giới có nhiều biến động
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị... Theo xu hướng mới, hệ thống các
nước Xã hội chủ nghĩa ngày càng giảm sút, tan rã..., cơ chế thanh toán
nhiều bên bằng RCK không còn phù hợp nữa vì vậy từ năm 1991, đồng
RCK đã bị loại bỏ khỏi Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời
Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế cũng được cải tổ lại thành một Ngân
hàng thương mại khu vực.
Từ năm 1990 trở về trước, song song với hệ thống thanh toán của
khối các nước Xã hội chủ nghĩa thì các nước Tư bản chủ nghĩa cũng
thiết lập cho riêng mình một hệ thống thanh toán Tư bản chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự tác động mạnh mẽ của thành tựu
khoa học kỹ thuật, cùng với xu hướng mới của thời đại, quan hệ quốc tế
đã và đang chuyển sang một thời kỳ mới. Sự giao lưu hàng hoá không
còn bị giới hạn bởi chế độ chính trị của mỗi quốc gia, thị trường quốc tế
mở rộng, việc mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ sử dụng hệ thống giá
cả thống nhất vì vậy nội dung thanh toán quốc tế của mỗi nước cũng đổi
mới sử dụng các điều kiện thanh toán (phương thức, tiền tệ) thống nhất
trên phạm vi toàn Thế giới, không còn phân biệt màu sắc chính trị như
trước đây.
1.4. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
1.4.1 Phương thức chuyển tiền.

Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán, trong đó
khách hàng (người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số
tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm
nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu, hoặc
bằng điện (Telegaphic tranfer-T/T) hoặc bằng thư (Mail tranfer-M/T).
Hiện nay các ngân hàng sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện là
chủ yếu.
- Ưu điểm: Phương thức này có thủ tục đơn giản, dễ thực hiện, phí
thanh toán không cao nên thường được áp dụng trong những trường
hợp sau:
Thanh toán những lô hàng có giá trị nhỏ, hai bên mua bán có sự tin
cậy lẫn nhau.
Thanh toán trong lĩnh vực phi mậu dịch và chi phí có liên quan đến
hoạt động xuất nhập khẩu như phí vận tải, tiền hoa hồng, tiền bồi
thường.
chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền ra nước ngoài để đầu tư.
- Nhược điểm: bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì phương thức
chuyển tiền còn có nhiều hạn chế như không đảm bảo rằng người bán
sẽ thu được tiền hàng trong trường hợp thanh toán sau và không bảo
bảm cho người mua nhận được hàng như yêu cầu trong trường hợp
thanh toán trước.
1.4.2. Phương thức nhờ thu
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán mà người bán
sau khi giao hàng ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, rồi đến Ngân
hàng nhờ thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu đó.
Các bên tham gia:
Người bán (người hưởng lợi).
Người mua (người trả tiền).
Ngân hàng bên bán: Ngân hàng nhận sự uỷ thác của người hưởng
lợi

(người bán) để thực hiện nghiệp vụ uỷ thác thu.
Ngân hàng bên mua: là Ngân hàng phục vụ người mua. Ngân hàng
này thường là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng bên bán và ở nước của
người mua.
Ngân hàng trung gian: Đứng ra làm trung gian thanh toán khi Ngân
hàng bên bán và Ngân hàng bên mua không có quan hệ đại lý với nhau
(Ngân hàng trung gian có thể có hoặc không).
Phương thức nhờ thu được phân thành hai loại: đó là phương thức
nhờ thu phiếu trơn và phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
1.4.2.1 Phương thức nhờ thu phiếu trơn.
Đây là phương thức thanh toán mà người bán ký phát hối phiếu
nhờ Ngân hàng thu hộ số tiền bán hàng ghi trên hối phiếu từ người
mua, mà không gửi kèm theo bất cứ một chứng từ thương mại nào.
Cùng với việc gửi hàng hoá cho người mua, người bán gửi thẳng bộ
chứng từ cho người mua để người mua đi nhận hàng.
Phương thức này chỉ được áp dụng trong trường hợp:
- Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau, hoặc có quan hệ liên
doanh với nhau dưới dạng công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các chi
nhánh.
- Thanh toán các dịch vụ có liên quan tới xuất nhập khẩu hàng hoá
như tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, phạt. Do đó thanh toán này không
cần thiết phải kèm theo chứng từ.
Phương thức này ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế vì
không đảm bảo quyền lợi cho người bán và người mua do việc nhận
hàng và thanh toán hoàn toàn tách rời nhau.
1.4.2.2 Phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán trong đó người
bán sau khi giao hàng, ký phát hối phiếu và kèm theo với bộ chứng từ
gửi hàng hoá để nhờ Ngân hàng thu hộ tiền từ người mua. Với điều kiện
là Ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ cho người mua để đi nhận hàng sau

khi người mua trả tiền, hoặc ký chấp nhận thanh toán (trong trường hợp
bán chịu). Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác
cho Ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có nhiệm vụ khống chế chứng
từ hàng hoá đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ
thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Với cách khống chế này,
quyền lợi người bán được đảm bảo hơn.
Những mặt còn hạn chế của phương thức này:
- Tuy đã khống chế được quyền định đoạt đối với hàng hoá của
người mua nhưng chưa khống chế được việc người mua có trả tiền hay
không. Người mua có thể chậm trễ hoặc không thanh toán bằng cách trì
hoãn việc nhận chứng từ hàng hoá hoặc không nhận hàng hoá nữa.
Việc thanh toán diễn ra chậm chạp.
Ngân hàng chỉ đóng vai trò là một trung gian thu tiền hộ, còn không
có trách nhiệm dến việc trả tiền của người mua.
Có hai loại nhờ thu kèm chứng từ:
+ D/P (Document again payment): có nghĩa Ngân hàng chỉ trao
chứng từ cho người mua khi người mua đã trả tiền.
+ D/A (Document again acceptance): có nghĩa Ngân hàng chỉ trao
chứng từ cho người mua khi người mua ký hối phiếu chấp nhận thanh
toán.
1.4.2.3 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Ngày nay trong thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ là phương thức được sử dụng phổ biến nhất trong buôn
bán quốc tế và được coi là phương thức khá hiệu quả. Tuỳ theo thói
quen và thông lệ của từng nước mà Tín dụng chứng từ được gọi với
nhiều tên khác nhau: Letter of Credit, Credit, Document Credit... ở Việt
Nam, ngoài tên là Tín dụng chứng từ còn được gọi dưới nhiều tên khác
như Tín dụng thư, Thư tín dụng, L/C và thông dụng nhất là từ “ Tín dụng
chứng từ” (Document Letter of Credit) vì nó thể hiện đúng nhất ý nghĩa
tín dụng kèm chứng từ. Khi áp dụng phương thức thanh toán này, nó

đem lại sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia
trong quá trình mua bán. Cùng vớí sự tham gia của các ngân hàng trong
quá trình thanh toán, rủi ro được hạn chế và chia đều cho người mua và
người bán. Đây cũng chính là nội dung chính của đề tài nghiên cứu.
* Khái niệm và đặc điểm thư tín dụng.
Theo định nghĩa trong UCP 600 (Quy tắc và thực hành thống nhất
tín dụng chứng từ, bản sửa đổi năm 1993, số xuất bản 600 do phòng
Thương mại quốc tế Paris phát hành), tín dụng chứng từ là bất cứ thỏa
thuận nào trong đó Ngân hàng phát hành hành động theo yêu cầu và chỉ
thị của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) hoặc nhân danh
chính bản thân mình để:
- Thanh toán cho, hoặc theo lệnh của phía thứ ba (người hưởng lợi)
hoặc chấp nhận và thanh toán hối phiếu do người hưởng lợi ký phát,
hoặc
- Uỷ quyền cho Ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận và thanh toán
hối phiếu hoặc cho phép Ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định
trong thư tín dụng với điều kiện chúng phù hợp với tất cả các điều
khoản và điều kiện của thư tín dụng.
Với giác độ là một phương thức thanh toán, tín dụng chứng từ có
lợi cho cả người mua và người bán. Người mua yêu cầu ngân hàng mở
một thư tín dụng trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả tiền cho người bán
nếu họ xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ chứng tỏ rằng họ đã
giao hàng theo đúng yêu cầu của thư tín dụng. Như vậy, người bán tin
chắc sẽ nhận được tiền hàng đã xuất khi anh ta thực hiện nghĩa vụ của
mình là lập và xuất trình chứng từ đầy đủ, đúng hạn như đã quy định
trong Thư tín dụng tại ngân hàng được chỉ định. Còn đối với người mua
thì quyền lợi của anh ta cũng được đảm bảo chỉ trả tiền khi hàng hoá đã
được giao thể hiện qua bộ chứng từ mà người bán xuất trình theo L/C.
Ngân hàng không đơn thuần là một trung gian thu hộ mà là người
đại diện bên nhập khẩu, trực tiếp cam kết thanh toán tiền hàng cho bên

xuất khẩu. Đối với ngân hàng đây được coi là một khoản tín dụng của
ngân hàng đối với người mua vì nếu người mua không trả được thì
ngân hàng vẫn phải trả tiền cho người bán. Do đó ngân hàng phải xem
xét khả năng thanh toán của người mua trước khi chấp nhận mở thư tín
dụng. Khi ngân hàng mở thư tín dụng cho người mua vay một phần
hoặc toàn bộ giá trị của thư tín dụng là ngân hàng đã thực hiện một
khoản tín dụng thực sự. Nhưng khi ngân hàng buộc nhà nhập khẩu kí
quỹ 100% trị giá của thư tín dụng thì lúc này ngân hàng không cấp cho
nhà nhập khẩu khoản tín dụng bằng tiền nào mà chỉ cho họ vay uy tín
của mình bằng cam kết thanh toán.
Tính độc lập của L/C là điều đáng lưu ý nhất. Tuy được hình thành
trên cơ sở hợp đồng mua bán nhưng sau khi được mở, nó lại hoàn toàn
độc lập với hợp đồng mua bán, có nghĩa là khi thanh toán, các ngân
hàng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ mà thôi. Sự tồn tại của bộ chứng từ
này cũng như sự phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng, tạo nên cơ
sở nền tảng của tín dụng kèm chứng từ, bởi vì ngân hàng không cần
nhìn thấy hàng hoá, mà chỉ xét các chứng từ. Tính độc lập của L/C đã
chi phối toàn bộ các khâu của quá trình thanh toán, quy định toàn bộ
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
* Các bên tham gia:
Trong phương thức tín dụng chứng từ truyền thống có sự tham gia
của:
- Người xin mở thư tín dụng (Applicant): là người mua, người nhập
khẩu hàng hoá.
- Người hưởng lợi thư tín dụng (Beneficiary): là người bán, người
xuất khẩu, hay bất cứ người nào khác được chỉ định.
- Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank): là Ngân hàng đại diện
cho người nhập khẩu, có thể cấp tín dụng cho ngời nhập khẩu. Khi nhận
được bộ chứng từ phù hợp, ngân hàng mở sẽ thay người mua trả tiền
cho người hưởng lợi.

- Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank): thường là
Ngân hàng đại lý của Ngân hàng mở thư tín dụng hoặc Ngân hàng bên
bán. Đây là Ngân hàng ở nước người bán.
- Ngân hàng xác nhận (Confirming bank), Ngân hàng chiết khấu
(Negotiating bank), Ngân hàng trả tiền (Reimbursing bank): các Ngân
hàng này có thể có hoặc không tùy thuộc vào yêu cầu của người mua
trong đơn xin mở thư tín dụng và sự uỷ nhiệm của Ngân hàng mở thư
tín dụng.
* Quy trình thanh toán bằng tín dụng chứng từ.
Ng©n hµng më th­ tÝn dông
Ng­êi NhËp khÈu
Ng©n hµng th«ng b¸o th­ tÝn dông
Ng­êiXuÊt khÈu
(8) (7) (2)
(3)(5)(6)
(6) (5) (4)
(1)
Tùy từng trường hợp cụ thể, tùy vào yêu cầu của người xin mở thư
tín dụng và tùy vào sự uỷ nhiệm của Ngân hàng mở thư tín dụng mà
trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có sự tham gia của
bao nhiêu Ngân hàng, Ngân hàng nào là Ngân hàng thông báo, Ngân
hàng trả tiền, Ngân hàng chấp nhận hay Ngân hàng chiết khấu và với
mỗi trường hợp thì trình tự thực hiện của phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ cũng lại khác nhau. Trong khuôn khổ của mục này, em
xin trình bày trình tự thực hiện của phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ khi có sự tham gia của hai Ngân hàng đó là Ngân hàng mở
thư tín dụng và Ngân hàng thông báo (là Ngân hàng đại lý của Ngân
hàng mở thư tín dụng ở nước người xuất khẩu), trong đó Ngân hàng
mở thư tín dụng là Ngân hàng trả tiền. Đây là trường hợp thường xảy ra
trong thực tế.

Sơ đồ thực hiện.
(1). Nhà xuất khẩu và nhập khẩu tiến hành giao dịch thương mại.
(2) Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến Ngân hàng
của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
(3). Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở thư tín dụng
và hợp đồng thương mại, Ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín
dụng và thông qua Ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu
để thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người
xuất khẩu.
(4). Khi nhận được thông báo này, Ngân hàng thông báo sẽ thông
báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín
dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho
người xuất khẩu.
(5). Người xuất khẩu kiểm tra kỹ nội dung của thư tín dụng, nếu
chấp nhận thì tiến hành giao hàng, nếu không thì trực tiếp hoặc thông
qua Ngân hàng mở thư tín dụng đề nghị người nhập khẩu sửa đổi, bổ
sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng. Mọi nội dung sửa đổi phải
có sự xác nhận của Ngân hàng mở thư tín dụng mới có hiệu lực. Văn
bản sửa đổi trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời thư tín
dụng cũ và huỷ bỏ thư tín dụng cũ.
Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán
theo yêu cầu của thư tín dụng, xuất trình thông qua Ngân hàng thông
báo cho Ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán.
(6). Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ thanh toán,
nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành thanh toán cho người
xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, Ngân hàng từ chối thanh toán và
gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu.

×