Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.07 KB, 23 trang )

Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
1.1.Khái niệm cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh.
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh.
Cạnh tranh là một thuật ngữ phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, đó là hành động ghanh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay nhóm, các
loài vì mục đích giành sự tồn tại, sống còn, lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, hay
các phần thưởng khác.
Trong lĩnh vực kinh tế, cạnh tranh xuất hiện khi tiền tệ ra đời, đặc biệt trong
thời kỳ nền sản xuất hàng hoá của chế độ Tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh.
Cùng với thời gian cũng như theo các cách tiếp cận khác nhau, có nhiều
quan điểm khác nhau về cạnh tranh.
Theo K.Mark, “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt của các nhà Tư
bản nhằm tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch, cạnh tranh là quy luật điều chỉnh tỷ
suất lợi nhuận, các nhà Tư bản luôn cạnh tranh với nhau và tìm đến nơi nào có
tỷ suất lợi nhuận cao hơn, qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường”.
Theo Kinh tế chính trị học, “Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối
thủ nhằm giành giật thị trường, khách hàng cho doanh nghiệp của mình”.
Theo quan điểm Marketing, “Cạnh tranh là việc đưa ra những chiến thuật,
chiến lược phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp, xử lý tốt các chiến lược,
chiến thuật của đối thủ, giành được lợi thế trong kinh doanh hàng hóa và dịch
vụ nhằm tối đa hoá lợi nhuận”.
Dù hiểu theo cách tiếp cận nào đi chăng nữa, bản chất của cạnh tranh vẫn
là sự ganh đua của các chủ thể với nhau nhằm mang lại lợi ích cho chủ thể. Đối
với các doanh nghiệp thì cạnh tranh là hoạt động nhằm đối phó lại với các đối
thủ khác trên thị trường, với mục đích chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị thế của
doanh nghiệp nhằm mục đích cao nhất là lợi nhuận.
Hiện nay, khi tình hình kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến, người ta
hiểu cạnh tranh không đơn thuần chỉ là cuộc chiến giữa các đối thủ nhằm phân
chia thặng dư kinh tế mà còn là giành những cơ hội xuất hiện trong tương lai.


Ở Việt Nam, trước đổi mới - năm 1986, thuật ngữ cạnh tranh còn đang
mơ hồ, chưa được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, bởi thời gian đó kinh tế
nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá, tự cung tự cấp, các doanh nghiệp sản xuất
theo đơn đặt hàng của Nhà nước, sản phẩm sản xuất ra lại được chính Nhà nước
bao tiêu. Vì thế mà các doanh nghiệp thiếu đi động lực phát triển. Thực tế đó đã
kìm hãm sự phát triển đất nước trong một thời gian dài. Nhận thức được điều
đó, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986, Đảng ta quyết định đưa nước
ta đi theo con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến lúc
này, cạnh tranh mới trở nên phổ biến hơn. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế
không còn ỷ lại vào vai trò của Nhà nước nữa mà trở nên chủ động hơn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì thế mà bộ mặt nền kinh tế nước ta
mới được cải thiện rõ rệt hơn sau thời gian đó.
Ngày nay, khi quốc tế hoá, toàn cầu hoá trở thành một tất yếu, cạnh tranh
là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp buộc
phải chấp nhận cạnh tranh nếu không muốn bị đào thải.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh.
Cũng giống như cách mạng, với bản chất là sự ganh đua của mình, cạnh
tranh là động lực của mọi sự phát triển.
1.1.2.1 . Đối với nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh là động lực của sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, thông
qua cạnh tranh, tiềm lực của nền kinh tế ngày càng được cải thiện hơn nhờ sự
nâng cao năng suất lao động của các chủ thể trong nền kinh tế, khoa học kỹ
thuật phát triển và được ứng dụng rộng rãi hơn, của cải xã hội được tạo ra ngày
càng nhiều hơn, nhu cầu con người sẽ được đáp ứng nhiều hơn. Cạnh tranh tạo
ra nhiều sản phẩm mới, qua đó kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, tạo
tăng trưởng cho nền kinh tế.
Cạnh tranh giúp loại bỏ những những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không
có khả năng ra khỏi thị trường, tạo điều kiện thuân lợi hơn cho các doanh
nghiệp còn lại của nền kinh tếcó điều kiện thuân lợi hơn để phát triển.
Cạnh tranh giúp nâng cao sức đề kháng của nền kinh tế, giúp đất nước

phát triển đi lên, không tụt lại sau so với sự phát triển chung của kinh tế thế giới.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp.
Cạnh tranh giúp doanh nghiệp nhận thức rõ vị trí hiện tại của mình trên
thị trường, từ đó doanh nghiệp buộc phải có những đối sách nhằm nâng cao vị
thế của mình.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp không còn nhận được sự bảo hộ
của Nhà nước, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp buộc phải tự cứu lấy chính
mình trước sự cạnh tranh của các đối thủ khác trong việc giành giật và đáp ứng
nhu cầu khách hàng.
Bất kỳ một doanh nghiệp tồn tại trong một phân đoạn thị trường nào đều
muốn mình là người chiếm lĩnh các lợi thế của thị trường đó, nhằm thu lợi
nhuận tối đa. Để đạt được mục đích đó, doanh nghiệp buộc phải làm tốt nhất
việc phục vụ nhu cầu của khách hàng. Đó là động lực để doanh nghiệp không
ngừng cải tiến công nghệ sản xuất sản phẩm, năng động, linh hoạt hơn trong
việc tìm ra các tính năng mới cũng như các sản phẩm mới. Doanh nghiệp phải
tìm cách tối thiểu hoá chi phí sản xuất, hoàn thiện hơn dịch vụ bán hàng và sau
bán hàng…
Vì thế cạnh tranh là động lực mang lại sự phát triển cho doanh nghiệp.
1.1.2.3. Đối với sản phẩm.
Thành công của doanh nghiệp trong cạnh tranh thể hiện một phần qua các
sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra. Để giành chiến thắng trong cạnh
tranh, doanh nghiệp phải tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, giá thành
thấp hơn, mẫu mã đa dạng hơn, phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành là động lực để tạo nên sự hoàn
thiện hơn của các sản phẩm.
1.1.2.4. Đối với người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau đều nhằm mục đích phục vụ tốt
hơn nhu cầu của khách hàng. Khách hàng trở thành cái đích trước lợi nhuận của
các doanh nghiệp trong các hoạt động cạnh tranh của mình.
Khi mà cuộc sống của người tiêu dùng được cải thiện nhiều hơn, nhu cầu

tiêu dùng của họ cũng tăng theo không chỉ về số mà còn về chất lượng.
Cạnh tranh giúp doanh nghiệp nâng cao được khả năng đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng nhờ đó, nguời tiêu dùng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn trong
việc mua sắm sản phẩm. Nhu cầu của họ sẽ được đáp ứng dễ dàng hơn, đầy đủ
hơn. Như vậy cạnh tranh giúp người tiêu dùng thoã mãn nhu cầu của mình một
cách dễ dàng hơn.
Bên cạnh những vai trò tích cực đó, cạnh tranh còn mang lại nhiều vấn đề
tiêu cực trong xã hội đó là khi các chủ thể cạnh tranh không lành mạnh với
nhau. Cạnh tranh tạo nên sự thành công cho các doanh nghiệp lớn mạnh nhưng
cũng tiêu diệt các doanh nghiệp có tiềm lực không đủ mạnh. Sự phá sản của các
doanh nghiệp này tạo nên hiệu ứng dây chuyền như người lao động mất việc,
thu nhập giảm sút, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, bất bình đẵng thu nhập
trong xã hội tăng theo. Mặt khác, cạnh tranh có thể dẫn đến tình trạng giữ bí mật
công nghệ sản xuất, cản trở công tác chuyển giao công nghệ. Cạnh tranh không
lành mạnh là động lực thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện các hành vi vi phạm
pháp luật cạnh tranh như trốn thuế, ăn cắp phát minh, sáng chế của đối thủ…
1.2. Năng lực cạnh tranh.
Cạnh tranh là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, một
doanh nghiệp muốn giành chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi phải có năng lực
cạnh tranh đủ mạnh để đối phó với các đối thủ khác trên thị trường.
Cũng như cạnh tranh, năng lực cạnh tranh là một thuật ngữ phổ biến trên
các phương tiện thông tin đại chúng, bản chất của năng lực cạnh tranh là khả
năng hay những lợi thế so sánh mà chủ thể có được so với đối thủ của mình để
duy trì và nâng cao vị thế của mình so với các đối thủ.
Khi nghiên cứu về năng lực cạnh tranh, người ta thường chia thành 3 cấp
độ là năng lực cạnh tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
1.2.1. Năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Theo quan điểm của diễn đàn kinh tế thế giới WEF(Wold Economic
Forum) thì “Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là sức mạnh thể hiện trong

hiệu quả kinh tế vĩ mô, là năng lực một nền kinh tế đạt được và duy trì tăng
trưởng kinh tế bền vững, thu hút đầu tư, đảm bão ổn định kinh tế xã hôi, nâng
cao đời sống nhân dân”.
Theo quan điểm của Asian Development 2003, “Năng lực cạnh tranh của
quốc gia là khả năng cạnh tranh của một nước đế sản xuất các hàng hóa dịch vụ,
đáp ứng được thử thách của thị trường quốc tế đồng thời duy trì và mở rộng thu
nhập thực tế của người dân nước đó”.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của quốc gia, thường dựa vào các tiêu
chí: Thể chế kinh tế, Cơ sở hạ tầng, Kinh tế vĩ mô, Hệ thống giáo dục và Y tế
phổ thông, Giáo dục đại học, Hiệu quả của cơ chế thị trường, Mức độ sẵn sàng
về công nghệ, Mức độ hài lòng doanh nghiệp, Mức độ sáng tạo.
Theo báo cáo của diễn đàn kinh tế thế giới WEF năm 2008 thì 10 nước có
năng lực canh tranh lớn nhất của thế giới bao gồm: Mỹ, Thụy Sỹ, Đan Mạch,
Thụy Điển, Singapo, Phần Lan, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, Canada. Cũng theo
đánh giá của diễn đàn này, năng lực cạnh tranh của Việt Nam giảm từ vị trí 68
năm 2007 xuống vị trí 70.
Trong nhóm các yếu tố đánh giá thì nhóm các yếu tố căn bản của Việt nam
bị đánh giá thấp nhất.
Bảng1.1: Tổng hợp “12 trụ cột” cho năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới WEF
Đồ thị 1.1: Thang điểm các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm
2008
Nguồn : Diễn đàn kinh tế thế giới WEF
Năng lực cạnh tranh của Việt Nam bị đánh giá thấp chủ yếu là do các yếu
tố như lạm phát, cơ sở hạ tầng và lao động được đào tạo. Bên cạnh đó thì Việt
Nam vẫn được đánh giá cao trong các lĩnh vực như quy mô thị trường, y tế, giáo
dục tiểu học.
Trong nước, hàng năm Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam
(VCCI) cũng tiến hành đánh giá năng lực canh của các tỉnh dựa vào chỉ số PCI
được đánh giá theo 10 tiêu chí:

 Chính sách phát triển kinh tế tư nhân.
 Tính minh bạch.
 Đào tạo lao động.
 Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo.
 Chi phí thời gian để thực hiện quy định của Nhà Nước.
 Thiết chế pháp lý.
 Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước.
 Chi phí không chính thức.
 Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất.
 Chi phí gia nhập thị trường.
Theo đó, năm 2008, Đà Nẵng đã vươn lên vị trí dẫn đầu về năng lực cạnh
tranh. 10 tỉnh có thứ hạng cao nhất về năng lực cạnh tranh bao gồm: Đà Nẵng,
Bình Dương, Vĩnh Phúc, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Bến Tre, Lào Cai,
An Giang, Huế.
Theo đánh giá, các tỉnh ở nhóm đầu của bảng xếp hạng đã có sự chuyển
biến rõ rệt trong việc cải thiện các thủ tục hành chính, giảm thời gian doanh
nghiệp phải chờ đợi hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục gia nhập thị
trường, các văn bản pháp lý được công khai minh bạch hơn. Bên cạnh đó vẫn
còn tồn tại nhiều điểm đen ở các tỉnh nhóm cuối về các chỉ tiêu như đào tạo lao
động, thủ tục về hóa đơn giá trị gia tăng, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng
chống cháy nổ…
1.2.2. Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp sản xuất
và cung cấp sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí
thấp hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn các đối thủ khác trên thị trường.
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là doanh nghiệp có khả
năng tạo ra và duy trì vị thế của mình trên thị trường một cách vững chắc ở hiện
tại lẫn tương lai.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu nội tại của doanh nghiệp như vốn, lao động, công nghệ, quản lý, chất lượng

sản phẩm, hệ thống phân phối…
Một đất nước có năng lực cạnh tranh tốt đòi hỏi các doanh nghiệp trong
đó phải có năng lực cạnh tranh tốt.
Theo đánh giá của WEF thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam được xếp hạng ở mức thấp 79/120. Do các doanh nghiệp Việt Nam
mới chỉ chú trọng công tác sản xuất sản xuất sản phẩm mà chưa chú ý nhiều đến
các hoạt động tạo giá trị gia tăng cao như R&D(nghiên cứu và triển khai),
P&M( xúc tiến và tiếp thị).
Các cấp độ cạnh tranh có mối quan hệ khăng khít với nhau, theo đó, cấp
độ cạnh tranh thấp sẽ góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh cho cấp cao hơn và
ngược lại. Một doanh nghiệp sẽ có được năng lực cạnh tranh tốt so với các đối
thủ của mình khi sản phẩm của họ có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của
doanh nghiệp đối thủ. Khi doanh nghiệp có năng lực canh tranh tốt sẽ góp phần
tạo nên năng lực cạnh tranh quốc gia. Ngược lại, khi quốc gia có năng lực cạnh
tranh lớn, nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy cao hơn năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi doanh nghiệp có đủ năng lực cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác trên thị trường, sản phẩm của doanh nghiệp đó sẽ có
khả năng đối phó với các sản phẩm của đối thủ.
1.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Đó là những đặc tính hay giá trị sử dụng mà sản phẩm có được lợi thế so
với các sản phẩm thay thế như chất lượng, mẫu mã, giá cả. Đó là khả năng giúp
cho sản phẩm duy trì được vị trí của mình trong mắt của người tiêu dùng.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố quan trọng giúp nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sản phẩm có năng lực cạnh tranh tốt là các sản phẩm có giá thành thấp,
chất lượng cao, mẫu mã đẹp, đáp ứng được độ thõa dụng của khách hàng. Để có
được các sản phẩm có năng lực cạnh tranh tốt, các doanh nghiệp phải chú ý đầu
tư nhiều cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất, chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào, sở hữu lao động có trình độ cao
cũng như nguồn vốn lớn, cở sở hạ tầng hiện đại đồng bộ.

Ngày nay, các doanh nghiệp lơn trên thế giới đều chi ra một lượng kinh
phí lớn cho các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng lớn như R&D.
Ở Việt Nam, sỡ dĩ các sản phẩm không đủ sức cạnh tranh với hàng hóa
nhập khẩu là do công nghệ sản xuất sản phẩm của chúng ta còn lạc hậu, sản
phẩm chủ yếu là gia công, giá trị gia tăng thấp, giá trị cấu thành do các yếu tố
nhập khẩu chiếm khoảng 70%. Thêm vào đó nữa, công tác tiếp thị, giới thiệu
quảng bá hình ảnh sản phẩm còn yếu kém. Chính vì thế, nhiều mặt hàng của các

×