Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.07 MB, 74 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small> </small>
phố biến rộng, có năng suất cao và giá trị kinh tế lớn của loài người. Cho đến giữa những năm 90 của thế kỷ 20, ngơ cịn xếp thứ 3 về diện tích và sản
ngơ đã vượt qua lúa nước, với 157 triệu ha, sản lượng đạt kỷ lục với 766,2
việc tăng nhanh năng suất và sản lượng ngô trên thế giới trong thời gian qua, trước hết là do đời sống kinh tế toàn cầu có sự tăng trưởng mạnh mẽ, từ đó nhu cầu về sản phẩm ngô cũng tăng theo. Nhưng quan trọng hơn là trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển khoa học công nghệ nói chung và
thuật vào sản xuất cây lương thực đã mang lại những kết quả to lớn, đảm bảo
Đông Nam Phi , Tây Phi, Nam Á. Ngô là thành phần quan trọng nhất trong thức ăn chăn nuôi. Hầu như 70% chất tính trong chăn nuôi A tong hợp từ ngô, 71% sản lượng ngô trên thế giới được dùng cho chăn nuôi. Ở các nước
khoảng trên 670 loại sản phẩm từ ngô bằng công nghiệp lương thực, thực phẩm, công nghiệp nhẹ và được phẩm (Ngơ Hữu Tình, 1997) [15].
Trong những năm gần đây, khi mà đời sống con người ngày một nâng
được nhiều người ưa chuộng như ngô chiên, súp ngô, snack ngơ hoặc đóng
lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho một số nước như Thái ln, Đài Loan... Ngoài sản phẩm chính, thân cây ngơ cịn là nguồn thức ăn xanh đáng kê cho gia stic.
Với ngô nếp, nhờ tinh bột có thành phần chủ yếu là Amylopectin, có giá trị dinh dưỡng cao, giàu Lizin và Triptophan, từ lâu nó đã là nguồn lương
dệt. Gần đây, vai trò của ngô nếp càng được nâng lên nhờ những thành tựu trong việc nghiên cứu chọn tạo và mở rộng những giống lai cho năng suất khá cao mà vẫn giữ được chất lượng đặc biệt của nó.
bộ, có vị trí địa lý thuận lợi, Vĩnh Phúc đã được Chính phủ xác định là một trong 8 tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; l vùng trọng điểm phát triển công nghiệp của các tỉnh phía Bắc. Trong những năm gần đây, do
nhanh, trong một thời gian ngắn diện tích đất trồng trọt của Vĩnh Phúc đã bị
hiện nay, thì chỉ sau một thời gian ngắn nữa diện tích đất nông nghiệp của Vĩnh Phúc sẽ ngày càng bị thu hẹp lại, người nông dân sẽ bị mất dần ruộng,
trật tự an toàn xã hội ở vùng nông thôn. (Nguồn: Niên giám thống kê Vĩnh
cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Với ngơ nếp là cây đã được nông dân Vĩnh Phúc chọn trồng ở nhiều địa phương để phục vụ cho nhu cầu ăn tươi,
sử dụng giống cũ, giống địa phương. Nên việc tìm ra một bộ giống mới cho
la rat cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng một số
2.1. Mục tiêu
- Xác đmh được những đặc điểm nơng sinh học chính của các nguồn vật liệu được chọn.
- Xác định được giống ngô nếp lai mới cho năng suất cao, chất lượng
lai có triển vọng trong điều kiện vụ xuân và vụ đông 2007.
- Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô nếp lai
- Phân tích hàm lượng Prôtêm, Amylopectin
- Xác định được một số giống ngô nếp hi có nhiều ưu điểm nỗi trội
Thực tiến sản xuất nông nghiệp trên thế giới cũng như trong nước đã khang định giống cây trồng là một trong những nhân tố quyết định
bộ giống cây trồng phong phú đa dạng chúng ta đang thực hiện chuyển
dạng hoá sản phẩm nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, thực hiện cơng nghiệp hố hiện đại hố nơng nghiệp và nơng thôn.
Sản xuất nông nghiệp là đòn bẩy thúc đây các ngành khác phát triển như ngành chăn nuôi, công nghiệp chế biễn...đo vậy tăng năng suất, chất lượng cây trồng là rất cần thiết. Tuy nhiên năng suất cây trồng còn phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, kỹ thuật sản xuất, trình độ dân trí, đặc biệt là việc sử dụng giống. Do vậy, để có giống mới phù hợp với điều kiện sinh thái của từng địa phương trước thì khi đưa vào sản xuất cần phải được khảo nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau để đánh giá
ngoại cảnh bắt thuận.
Vài năm trở lại đây do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống cây trồng, các nhà khoa học Việt Nam đã chọn tạo được rất nhiều giống ngô lai có triển vọng làm cho diện tích ngơ của cả nước tăng lên rât nhanh, năng suất và sản lượng được cải thiện rõ rệt, nhưng vẫn chưa
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">cây trồng Miền Nam, Bạch ngọc của Công ty Lương Nông... và rất nhiều
thử nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau để đưa vào sản xuất dai trà.
Qua hơn 7000 năm phát triển từ cây hoang đại, trong điều kiện chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhần tạo, năng suất ngô hạt bình quân trên thế giới cho đến đầu thế kỷ 20 mới chỉ chưa đến 20 tạ/ha, nhưng đến năm
diện tích ngơ đã vượt qua lúa nước, với 157 triệu ha, năng suất 49,0
năm 2007 diện tích là 155,7 triệu ha, năng suất 41 tạ/ha, sản lượng 626,7 triệu tấn. Còn lúa mỳ, năm 1961 có diện tích là 200,88 triệu ha, năng
năng suất ngô tăng nhanh là do việc phát hiện ra ưu thế lai trong chọn tạo giống cây trồng mà ngô là đối tượng thành công điển hình trong số các
thuật canh tác (TS.Phan Xuân Hao, 2008) [3].
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small> </small>
Năm | pitch | Nesud |Sảnlượng| pitch | Nguất | Sảnlượng| Dinh | Nuất | Sảnlượng
<small>(triệu ha) | (tạha) | (triệu tấn) | triệuha) | (tạha) | (triệu tấn) | đriệuha)| (tạhay | (riệu tấn) 1961 | 105,5 19,0 | 205,0 | 204,2 | 11,0 2224 | 115,3 | 19,0 | 215,6 2004 | 145,7 | 50,0 | 727,4 | 217,2 | 29,0 633.3 | 150,2 | 40,0 | 607,3 2005 | 145,5 | 49,0 | 712,9 | 221,4 | 28,0 628,7 | 154.5 | 41,0 | 631,5 2006 | 144.4 | 48,0 | 695,2 | 216,1 | 28,0 605,9 | 153,0 | 41,0 | 6346 2007/08} 157,0 | 49,0 | 766,2 | 2172 | 28,0 | 603,6 | 153,7 | 41,0 | 626,7 </small>
tạo ra bước nhảy vọt về năng suất, song lúc đầu nó chỉ phát huy hiệu quả ở Mỹ và các nước có nền cơng nghiệp phát triển. Cịn đối với các nước đang phát
100% diện tích được trồng bằng giống ngô lai. Năm 2004 năng suất ngơ trung
đây, trong khi phần lớn các nước phát triển tăng khơng đáng kê, thì năng suất
nghé sinh hoc. Theo Ming- Tang Chang va cOng sy (Ming- Tang Chang et al, 2005) [33], ở Mỹ chỉ còn 48% giống ngô được sử đụng là được chọn tạo theo
nam 2004 la 5%), trong đó có những bang có diện tích ngơ lớn như lowa, tỷ lệ này là 60%. Nước có năng suất ngơ cao nhất thế giới hiện nay là Israel với 160 tạ/ha, sau đó là Bi 1220 tạha ChiLé 110/0 tạha, Tây Ban Nha 99
năm luôn đạt xung quanh 25 triệu ha, trong đó tới 90% diện tích được trồng
nước đang phát trién nhu Achentina, Braxin, Colombia, Mehico, An Dé, Pakistan...trong thời kỳ 1966 — 1990 có xấp xỉ 852 giống ngô được tạo ra,
tích ngơ lớn nhất ở khu vực, năm 2004 với diện tích 3,35 triệu ha, cho năng suất bình quân 33,9 tạ/ha và sản lượng là 11,35 triệu tắn. Tuy nhiên, diện tích trồng bằng giống lai của nước này còn thấp, khoảng 30 - 40%. (FAOSTAT,
pháp irviiro có thê dựa vào kỹ thuật nuôi cây một trong ba bộ phận sinh sản của ngô là bao phấn, hạt phần tách rời và noãn chưa thụ tinh. Gần đây, người ta đã nghiên cứu thành công phương pháp mới tạo dòng thuần bằng dùng dịng kích tạo đơn bội. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về đơn bội ngô đã bắt
dựng hoàn chỉnh quy trình ni cấy bao phấn ngơ để tạo dịng đồng hợp tử phục vụ cho công tác chọn tạo giống ngô. Hiện nay kỹ thuật nuôi cấy bao
vọng, phương pháp này cho kết quả khá Ôn định và có hiệu quả, tuy nhiên
các phương pháp khác để tạo đòng thuần, như phương pháp ni cấy nỗn chưa thụ tĩnh và dùng dịng kích tạo đơn bột. (Lê Huy Hàm và cs, 2005; Đỗ
Các ứng dụng công nghệ gen phát triển mạnh từ đầu những năm 90 tới nay và đang ra tăng nhanh chóng. Năm 2006 điện tích trồng cây biến đôi gen
nhất ở Mỹ, chiếm đến 52% tơng diện tích ngơ (Ming — Tang Chang va cs,
ngô, lúa và bông biến đổi gen ở một số địa phương (Vũ Đức Quang và cs,
<small>1995 121K 1997 124 9993 2300 72EOI 7U92 2021 27064 2905 FIG </small>
<small>ko cước +? 17% (2 ewiten feces of 3 etter acres. Deoywww+e AROS ood ARE Levee ~ b= Lewes </small>
<small>Hình 1.2: Sw phat trién cia cay trong bién déi gien trén thé gidi. (Nguén: www.isaaa.org) </small>
thiện và phát triển khối lượng lớn nguồn nguyên liệu, vốn gen, các quần thể và giống thí nghiệm, cung cấp cho khoảng hơn 80 nước trên thế giới thông qua mạng lưới khảo nghiệm giống Quốc tế. Các nguồn nguyên liệu mà chương trình ngơ CIMMYT cung cấp cho các nước là cơ sở cho chương trình tạo dịng và giống lai (Ngơ Hữu Tình và cs, 1999) [16]. Năm 1985, chương trình ngô lai của CIMMYT được tiến hành với mục tiêu phát triển các vật liệu mới phục vụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">chọn tạo giống lai, tích luỹ và công bố KNKH và các nhóm ưu thế lai của các
dòng thuần. Gần đây, CIMMYT đây mạnh chương trình tạo giống ngơ chất
và cs, 1999) [16], đã trở thành cây lương thực quan trọng thứ 2 sau lúa nước. Song, với nền canh tác quảng canh và chủ yếu dùng giống ngô đá và ngô nếp địa phương, nên năng suất thấp. Năng suất ngô Việt Nam những năm 1960
MSB49, Q2, CVI,... góp phần nâng cao năng suất lên gần gấp 15 tạ/ha vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên ngành sản xuất ngô ở nước ta thực sự đã có bước tiến nhảy vọt là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc không ngừng mở rộng giống lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác theo đòi hỏi của giống mới. Các giống lai không quy
ước đã được người trồng ngô chấp nhận và nhanh chóng mở rộng diện tích. Đây cũng là bước chuyến tiếp quan trọng từ giống lai không quy ước sang
nhà nước và sự phát huy nội lực cao độ của người làm công tác chọn tạo giống
quan trọng. Một loạt giống lai có TGST khác nhau được chọn tạo bằng phương
ngày : LVN9, LVN20, LVN24, LVN25, LVN99... ngoài ra các giống của các Công ty giống cây trồng nước ngoài cũng được đưa vào trồng ở nước ta góp phần quan trọng trong việc phát triển ngô lai trong thời gian qua.
Năm 1991, diện tích trồng giống lai chưa đến 1% trong tổng số
990.400 ha, năng suất đạt 34,9 tạ/ha và sản lượng là 3,454 triệu tấn (Tổng
(Phạm Đồng Quảng và cs, 2005 ; Trung tâm khuyến nông quốc gia, 2005)
việc chọn được nguồn nguyên liệu ban đầu phù hợp cho việc tạo đòng thuần là các giống lai ưu tú của chương trình phát triển giống ngô lai ở Việt Nam (Ngơ Hữu Tình, Phan Xn Hào, 2005) [18]. Năng suất ngô
suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nước ta chỉ bằng 34% so
ngô Việt Nam vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn
tới nay : Diện tích là 1.072.800 ha, năng suất 39,6 tạ/ha, sản lượng vượt
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam từ năm1961 — 2007
thô sông Hồng là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng
vùng sinh thái rõ rệt: đồng bằng, trung du và miền núi hết sức thuận tiện cho phát triển nông - lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và du lịch - dịch vụ. Một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh xung quanh Hà
<small> </small>
<small>Số hóa bởi Trung tâm Hạc liệu - Đại học Thái Nguyên </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">thuận tiện cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp.
Trong những năm gần đây, ngoài việc phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và đô thị, Vĩnh Phúc còn là một trong những tỉnh đi đầu trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công tác giống cây trồng mới, như: Các giống lúa lai Bồi tạp sơn thanh,
2005 là năm năng suất và sản lượng đạt cao nhất ; đến năm 2007 diện tích ngơ chỉ cịn 15.241,8 ha, nang suất đạt 33,86 tạ/ha, sản lượng đạt 51.609, 1
ngô của Vĩnh Phúc gia1 đoạn 1998 - 2007 được trình bày ở bang 1.3.
Bảng 1.3: Sản xuất ngô của Vĩnh Phúc giai đoạn 1998 — 2007
<small>700.0 600.0 500.0 </small>
<small>@ San lwong (1000 tan) </small>
Hình 1.4 : Diện tích, năng suất, sản lượng ngô Vĩnh Phúc 1998-2007
Ngơ nếp (Zea mays L.subsp. Ceratina Kulesh), là một trong những loài phụ chính của lồi Zea mays L. Hạt ngô nếp nhìn bề ngồi tương tự
sáp. Do vậy, ngô nếp cịn có tên gọi khác là ngô sáp (Tomob, 1984) [40].
nếp chứa gần như 100% amylopectin, trong khi ngô thường chỉ chứa 75%
trúc phân tử gluco phân nhánh dựa trên liên kết ơ.1-4 và ơ.1-6, ngược lại amyloza có cấu trúc phân tử gluco không phân nhánh trọng lượng phân tử của chúng từ 1 đến 3 triệu. Khi cho tinh bột ngô nếp vảo dung dịch KĨ thì nó chuyến thành màu cà phê đỏ, trong khi tinh bột của ngô thường thì
gen lặn đó là gen wx. Gen wx là gen lấn át gen khác để tạo tính bột dạng nho (Peter Thompson, 2005) [34]. Theo Fergason, 1994; Garwood va Creech, 1972 ; Hallauer, 1994 [27], [29], [30], thi gen wx nam 6 locus 5S-
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">triptophan va protein.
Có giả thuyết cho rằng, ngơ nếp có nguồn gốc ở Đông Nam Á mà Trung Quốc, Miến Điện, Philippin là quê hương đầu tiên của nó. Nhưng sau đó người ta thấy rằng đó là kết quả của một đột biến thông thường của các giống ngô răng ngựa biểu hiện gen Wx và gắn liền với các điều kiện trồng trọt khơng bình thường đột biến thành gen lặn wx, chúng có thể xuất hiện ở các vùng khác nhau của trái đất (Grebensc 1954, dẫn theo Nguyễn Thị Lâm,
Theo James L. Brewbaker (Brewbaker, 1998) [31], qua trình chọn lọc tự nhiên đã tạo ra những đột bién nhu Sugaryl (véi phytoglycogen cao) 6 day
cầu tạo bởi amylopectin) ở châu Á với các giống được chọn lọc có vỏ mềm.
rất thông dụng ở châu Á như : Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khac (US. Grains Council, 2001) [38].
Theo Tomob, để chọn giống ngô nếp người ta dùng vật liệu ban đầu từ các giống ngô nếp địa phương của Trung Quốc, ngô nếp Cracnoda hoặc nguồn ngô nếp đột biến tự nhiên hay đột biến nhân tạo như là donor. Từ nguồn vật liệu chọn lọc ban đầu, thông qua tự phối và chọn lọc cá thể dựa
tạo các đồng đẳng ngô nếp từ nguồn ngơ thường thì người ta cho lai ngô nếp và ngô thường với nhau sau đó tiễn hành hi lại và kiếm tra bằng phân tích hạt phân qua phản ứng với dung kịch KI. Bằng cách này người ta đã tạo ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">khá nhiều dòng và giống nếp lai mới, chúng được trồng cách ly với các loại ngô khác (Tomob, 1984) [40].
Ngô nếp được trồng nhiều nhất ở Mỹ, nhưng phần lớn diện tích được trong ở miền trung Iilinois và Indian, phía bắc của Iowa, phia nam cua Minnesota va Nebraska (US. Grains Council, 2001) [37].Dién tích ngơ nép
nếp vàng, nhưng gần đây có một số diện tích nhỏ được trồng bằng nếp trắng. Theo Alexander and Creech, mặc dầu đã trải qua một thời gian khá dai nhưng vẫn gặp rất nhiều vấn đề trong việc tạo các dịng ngơ nếp thương mai (Sprague, G.F. et al, 1988) [35]. Ở bang Ohio việc chọn lọc giống lai của những dạng ngô đặc biệt rất phức tạp vì thiếu những dạng ngô làm đối chứng. Cả 2 dạng giống lai có hàm lượng lizin cao và ngô nếp đã được đưa ra những năm qua nhưng khơng có số liệu về amyloza cao và dầu cao. Tiềm năng năng suất hạt của những giống lai đặc biệt này nhìn chung là thấp hơn so với ngô tẻ. Những giống nếp lai mới đã được báo cáo là có khả năng cạnh tranh hơn với giống răng ngựa về năng suất. Theo Thompson, năng suất của ngô có hàm lượng amyloza cao biến động tuỳ thuộc vào đất trồng, nhưng trung bình cũng đạt từ 65 — 75% so với ngô tẻ thường (Peter Thompson, 2005) [34]. Ngô nếp có thê cho năng suất thấp hơn ở điều kiện thời tiết bất thuận. Theo thông báo của trường Dai hoc Illinois, gần đây đã có một SỐ giống nếp lai điển hình cho năng suất cao hơn những giống ngô lai thông thuong (College of Agriculture of Illinois, 2003) [26].
T9/2005, Trung Quốc đã tạo ra khá nhiều giống ngô nếp hi cho năng suất cao và chất lượng tốt. Ví dụ : Giống nếp lai đơn màu trắng JYF 101, cho năng suất trung bình 150 tạ bắp tươiha; giống nếp lai đơn màu tím Jingkenou 218, năng suất khoảng 120 tạ bắp tươi/ha ; giống ngô nếp trắng
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Jingkenou 2000 năng suất trung bình trên 130 tạ bắp tươi/ha ; giống ngô nếp
2006, cho năng suất tới 200 tạ bắp tươi/ha...(Beijing Maize Reseach Center,
Theo Kyung — Joo Park (Kyung — Joo Park, 2001) [32], ở Hàn Quéc
sau đó trồng bắp cải, tổng thu nhập trên 16.228 USD/ha. Nếu thu hoạch vào
ngơ nếp lai Dachakchal do đại học Choongram cung cấp có giá 45,01 USD/Kg. Citing theo Kyung — Joo Park tại tính Chonbuk có hợp tác xã đã xây dựng một kho lạnh bảo quản được 1,5 triệu bắp ngô tươi 1 năm.
Ngô nếp được sử dụng làm lương thực và thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm. Khi nấu chín có độ đẻo, mùi vị thơm ngon. Nó có giá trị dinh dưỡng cao, bởi tỉnh bột của nó có cấu trúc đặc biệt, dễ hấp thụ hơn so với tỉnh bột của ngơ tẻ. Có khá nhiều báo cáo về những kết quả đạt được trong chăn nuôi cho cả động vật thường và động vật nhai lại (Fergason, 1994) [27]. Một số thử nghiệm ở Mỹ đã chỉ ra rằng, bò đực non lớn nhanh hơn khi được nuôi bằng ngô nếp (US.Grains Council) [37]. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả trên là do trong ngơ nếp có hàm lượng các axitamin không thay thế như lyzin và triptophan cao (Grawood, 1972; Jemes L. Brewbaker,
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">nếp được dùng đề chế biến tỉnh bột. Người ta chế biến tinh bột ngô nếp bằng cách xay ướt để đùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm, keo đán, chat hồ dính, cơng nghiệp dệt, cơng nghiệp giấy, lên men sản xuất cồn và chuyển thành đường Fructo, chế sirô v.v... Tỉnh bột ngơ nếp cịn được sử dụng như một dạng sữa ngô làm đồ gia vị cho món salad. Phạm vi sử dụng tỉnh bột ngô
Brewbaker, 1998) [31].
Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương ở Việt Nam từ những năm 1960 cho thấy, ngô Việt Nam tập trung chủ yếu vào 2 loại phụ
ở khắp các vùng, miền trong cả nước, với nhiều đạng mày hạt khác nhau : Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ...Hiện nay ở Viện nghiên cứu Ngô, đã thu thập và lưu giữ 148 mẫu ngô nếp địa phương, trong đó có : 111 nguồn nếp
Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng Trung ương trong 2 năm
trồng ngơ (Phạm Đồng Quảng và cs, 2005) [11]. Diện tích trồng ngơ nếp
ven đơ thị Ngun nhân chính trước hết do các giống ngô nếp đáp ứng
quan trọng hơn là đo nhu cầu của xã hội ngày một tăng đối với sản phẩm này.
Ở các vùng núi cao và vùng sâu, ngô nếp được người dân sử dụng
nướng, luộc, còn ở hầu hết các địa phương khác trong nước thì ngô nếp
Những năm gần đây, đời sống kinh tế của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân đang được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng trở nên đa dạng hơn. Các loại ngô thực phẩm được sử đụng ngày một nhiều, không những được dùng làm lương thực, làm quà ăn tươi (nướng, luộc), mà còn được chế biến thành các món ăn được nhiều người ưa chuộng như
Cũng như tình trạng chung trên thế giới, các nghiên cứu về ngô ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào ngơ tẻ. Cịn với ngơ nếp thì đến nay chỉ có một số cơng trình được cơng bố.
về 3 biến chủng : nếp trăng 48 mẫu, nếp vàng 8 mẫu, nếp tím 16 mẫu. Kết quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả.
Tác giả Ngô Hữu Tình và Nguyễn Thị Lưu [14] đã chọn tạo thành
lọc bằng phương pháp bắp trên hàng cải tiến. Kết quả việc đưa thêm nguyên liệu mới vào nguồn nền nhằm làm tăng độ thích ứng nhưng không làm giảm năng suất của vốn gen. Nếp Tổng hợp là giống nếp ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng vụ Xuân 110 - 120 ngày, vụ Hè Thu 95 - 100 ngày, Đông 105 - 115 ngày, năng suất trung bình 25 - 30 tạ/ha, có khả
Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phương pháp chọn lọc chu kỳ từ tô hợp lai giữa giống ngô nếp tổng hợp Giut - 22 và Giut - 41 nhập nội từ Philppin để tạo ra giống nếp trắng S-2.. Đây là giống nếp ngắn ngày, vụ Xuân 90 - 95 ngày, vụ Hè Thu 80 - 90 ngày, vụ Đông 95 - 100 ngày, năng suất trung bình 20 - 25 tạ/ha, được công nhận
Từ các giống ngô nếp trắng ngắn ngày, năng suất khá, chất lượng
giống quốc gia năm 1997. Đây là giống nếp trắng ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng vụ Xuân 100 - 105 ngày, vụ Hè 80 - 85 ngày. Năng suất bình
đó có 24 giống ngơ nếp tại Viện Công nghệ sau thu hoạch cho thấy, VN2 cố hàm lượng protein rất cao, trên 10%, đặc biệt là hàm lượng lyzm đến
xuân Hào và cs, 1997) [4]. VN2 là một trong những giống có khả năng thích ứng rộng, trồng được nhiều vùng trong cả nước (Phạm Đồng Quảng
Pham Thi Rinh va cộng sự (Phạm Thị Rinh va cs, 2004) [13] 6 Phòng nghiên cứu Ngô Viện KHKTNN miền Nam đã tạo được giống ngô nếp dạng nù TPTD cải tiến N-1 từ 2 quần thể ngô nếp nủ địa phương ở Đồng Nai và An Giang, bằng phương pháp chọn lọc bắp trên hàng cải tiến. N-1 đã được công nhận giống quốc gia năm 2004. Đây là giống ngô
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">nếp ngắn ngày, ở phía Nam từ gieo đến thu bắp tươi là 60 đến 65 ngảy còn thu hạt khô là 83 - 85 ngày. N-1 có tiềm năng năng suất khá cao 40 — 50 tạ hạt khô/ha. Cùng với giống N-I1, hiện nay các giống nếp dạng nv dang được trồng phô biến không chỉ ở các tỉnh phía Nam mà cả ở các tỉnh phía
Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam đã bắt đầu chuyển sang hướng tạo giống nếp lai và đã tạo được một vài giống nếp lai khơng quy ước có triển vọng như các giống lai MX2, MX4 của Công ty cô phần giống cây trồng Miền Nam, Bạch ngọc của công ty Lương Nông. Từ vài năm nay, một số giống ngô nếp lai quy ước từ các công ty giống nước
giống nếp này phần lớn là các giống lai từ Đài Loan, Thái Lan thông qua một số công ty giống như Nông Hữu, Thần Nông, Lương Nông, Trang
này bán ra với giá rất cao, chắng hạn giống lai đơn của cơng ty Đơng Tây có giá bán là 140.000đ/kg, giống Wax - 44 của Syngenta Thái Lan là
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu gồm 9 giống ngơ nếp bi có triển vọng thu thập từ các cơ quan đơn vị khác nhau ở Việt nam :
<small> </small>
1 VN2 (d/c) Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày
3 NL-1 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày 4 NL-2 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày 5 NL-4 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày 6 NL-6 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày 7 NL-7 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày 8 NL-8 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày 9 LSB4 Viện nghiên cứu ngô Ngắn ngày
<small> </small>
Giống đối chứng của thí nghiệm là giống VN2 hiện nay đang được
- Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, khả năng chống chịu, năng suất và chất lượng của các giống ngô nếp.
- Xây dựng mơ hình trình diễn giống ngơ có triển vọng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">xuất giống cây trồng Mai Nham thuộc Trung tâm giống cây trồng Vĩnh Phúc . Địa chỉ : Xã Duy Phiên - huyện Tam Duong - tinh Vinh Phic. - Mơ hình trình điển giống ngơ có triển vọng được thực hiện tại xã Hợp Thịnh huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc.
2.3.2. Thai gian thực hiện -
- Thí nghiệm so sánh giống thực hiện trong 02 vụ: Vụ xuân : Gieo ngay 27/01/2007.
Vụ đông : Gieo ngày 24/9/2007.
24. Quy trình kỹ thuật áp dụng trong thí nghiệm (Áp dụng Quy phạm khảo
- Thí nghiệm được thực hiện trên đất trồng màu, đại diện cho vùng sinh thái, có độ phì đồng đều, bằng phẳng và chủ động tưới tiêu.
- Đất được cày xới, làm sạch cỏ, san bằng phẳng, độ âm đất khi gieo 75-80% độ âm tối đa đồng ruộng.
- Mật độ và khoảng cách :
+ Khoảng cách : 70cm x20 cm ( 100 cây/ơ thí nghiệm) - Phân bón :+ 8 tấn phân chuồng/1ha
+ Phân v6 co: N (kg): P,O;(kg) : K,O (kg); 120: 90: 90.
- Lân Supe: 500 kg/ha. - Kaliclorua: 150 kg/ha
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">- Thu hoạch
2.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm.
(RCBD - Randomized Complete Block Design), 3 lần nhắc lại, mỗi công
Sơ đồ thí nghiệm
<small> </small>
<small> </small>
2.5.2.1. Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và chống chịu của các giống ngơ thí nghiệm.
- Mọc: Trên 50% số cây có bao lá mầm lên khỏi mặt đất ( Mũi chông)
- Ngày chín sữa : Khi ngô phun râu khoảng 18-20 ngày
cùng (bắp thứ nhất) của 10 cây mẫu/ô vào giai đoạn chín sữa.
cuối cùng.
- Hệ số điện tích lá: Đo toàn bộ số lá xanh trên cây ở thời kỳ trổ cờ.
giai đoạn tro cờ sau đó áp dụng công thức của Montgenery (1960)
- Trạng thái cây: Đánh giá sự sinh trưởng, mức độ đồng đều về chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, kích thước bắp, sâu bệnh, các cây trong ô vào
- Độ che kín bắp: Quan sát các cây trong ô ở giai đoạn chín sáp và cho điểm theo thang điểm 1-5.
Kín: Lá bi bao kín đầu bắp điểm 2
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Hở: Lá bi không che kín bắp để hở đầu bắp điểm 4
- S4u duc bap Heliothis zea va H. Armigera (Diém 1 nhiễm nhẹ,
< 5% số cây, số bắp bị sâu điểm 1 5-<15% số cây, bắp bị sâu điểm 2
25-<35% số cây, bắp bị sâu. điểm 4 35-<50% số cây, bắp bị sâu. điểm 5 - Rệp cờ Rhopalosiphum maidis (Điểm) :
Rất nhẹ, có từ một - một quần ty rép diém 2 trên lá, cờ.
Nhẹ, xuất hiện một vài quần ty rép diém 3
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">so với chiều thắng đứng của cây.
Tốt: <5 % cây gấy điểm 1
d. Chỉ tiêu về các yếu tố cấu thành năng suất
- Số bắp/cây : Tổng số bắp/tông số cây trên ô. Đếm số bắp và số cây trong ô lúc thu hoạch.
- Số hàng hạt/bắp : Đếm số hàng hạt ở giữa bắp của 10 cây mẫu/ô lúc thu hoạch. Chỉ đếm bắp thứ nhất của cây mẫu ( Một hàng được tính khi có 50 % số hạt so với hàng dài nhất).
- Số hạt/hàng: Đếm số hạt của hàng có chiều dài trung bình của bắp
1 chữ số sau dấu phây.
hạt, nếu hiệu số giữa 2 lần cân (mẫu nặng/mẫu nhẹ) không chênh lệch quá
100 - 14 A° Độ âm hạt lúc thu hoạch
- NSLT (tạ/ha) = Số cây /m” x số bắp/cây x số hàng/bắp x hạt/hàng x M1000
A°: Độ âm khi thu hoạch
- Năng suất bắp tươi (tạ/ha):Thu và cân toàn bộ số bắp của 2 hàng
ra ha.
- Phân tích hàm lượng Prôtêm theo phương pháp KJeldahl
+ Địa điểm : Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Miền núi phía Bắc
Chất lượng thử nếm: Độ dẻo, hương thơm, vị đậm (đối VỚI Các giống
phương pháp khảo nghiệm sản xuất, quy phạm khảo nghiệm giống cây trắng
- Thời gian: Vụ xuân 2008 gieo ngày 15/02. - Đất trình diễn: Trên nền đất thịt nhẹ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">- Bố trí thí nghiệm trình diễn: + Mỗi giống gieo 1 lần nhắc lại + Mật độ, khoảng cách trồng : 6,5 vạn cây/ha, khoảng cách 70 x23 cm. + Lượng phân và quy trình bón phân áp dụng như trong thí nghiệm:
điểm thu hoạch).
BVTV, công lao động, các khoản đóng gớp khác (tại thời điểm chi phí).
- Số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê trên máy vi tính theo chương
Tháng Nhiệt độ , Lượng mưa Độ âm Số giờ nắng
Thang 1 16,7 89,0 75,0 65,7 Thang 2 22,0 35,4 72,0 90,6 Thang 3 21,4 56,2 87,0 32,7 Thang 4 23,3 101,1 79,0 82,7 Thang 5 27,0 76,8 73,0 167,3 Thang 6 29,9 153,8 76,0 214,8 Tháng 7 30,2 198,4 77,0 216,2 Thang 8 29,0 236,0 80,0 171,2 Thang 9 27,4 220,0 78,0 140,0 Thang 10 25,8 61,5 76,0 123,4 Thang 11 21,0 90 76,0 189,9
Thang 2 13,7 27,0 77,0 29 Tháng 3 21.4 43,6 82,0 77
<small> </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small> </small>
Thang 5 27,2 348,0 81,0 146 Thang 6 28,5 265,1 82,0 125
Đây hà yếu tố ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, yêu cầu về nhiệt độ của mỗi loại cây trồng là khác nhau. Cây ngô là cây ưa nóng, yêu cầu về tổng nhiệt độ cao hơn nhiều loài cây trồng khác để hoàn thành chu kỳ sống. Cây ngô cần tổng nhiệt độ từ 1.700 - 3.700°C tuy nhiên nhu cầu nhiệt độ còn tuỳ thuộc vào từng giống, từng giai đoạn sinh trưởng. Giai đoạn mọc mam yêu cầu nhiệt độ tối thích là từ 28 -
tháng (sau gieo ngô) đã ảnh hưởng đến sự mọc mầm của hạt ngô, giai đoạn trỗ cờ nhiệt độ trung bình là 23,3°C (thang 4), giai doan vao chắc nhiệt độ
27,4°C rất thuận lợi cho hạt mọc mầm, giai đoạn trỗ cờ - phun râu - tung
thụ tỉnh của cây ngô. Giai đoạn vào chắc và chín nhiệt độ trung bình là
thấp (từ 14,7-16,6°C) quá trình tích luỹ vật chất khơ của các giống chậm lại, nên thời gian sinh trưởng của các giống so với vụ xuân kéo đài hơn. Vụ xuân
Những tháng tiếp theo nhiệt độ tăng dần và tương đối thuận lợi cho cây sinh
Âm độ khơng khí và ẩm độ đất có ý nghĩa rất quan trọng tới đời sống của cây ngô, tuy nhiên ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau thì yêu cầu về độ âm khác nhau. Giai đoạn mọc mầm đến 3 lá cây ngô yêu cầu độ ẩm là 60
nhất về nước, các giai đoạn khác yêu cầu thấp hơn. Số liệu theo dõi ở bảng 3.1 cho thấy âm độ ở vụ xuân ở các giai đoạn là tương đối thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của các giống ngơ thí nghiệm. Ở vụ đông am dé 6 các giai đoạn cũng tương đối thuận lợi cho cây sinh trưởng, tuy nhiên giai đoạn trỗ cờ, tung phần âm độ trung bình thấp (TB 76 %) phần nào đã ảnh hưởng tới quá trình thy phan thụ tỉnh của các giống thí nghiệm.
Lượng mưa có liên quan mật thiết tới năng suất, chất lượng sản phẩm.
vào chắc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng suất, chất lượng sản phẩm.
nhiều cũng ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất đặc biệt ở giai đoạn trỗ cờ,
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">tung phấn. Số liệu bảng 3.1 cho thấy lượng mưa ở các tháng phân bố không đều, giai đoạn đầu gico trồng (tháng1, 2) lượng mưa rất nhỏ từ 8,4 - 35,4mm đã làm ảnh hưởng tới giai đoạn nảy mầm và sinh trưởng của cây con. Giai đoạn trước trô và sau trễ (tháng 4, 5) lượng mưa giai đoạn này từ 101,Imm — 76,8 mm nên rất thuận lợi cho cây ngô thụ phấn và tích luỹ vật chất khơ. Ở vụ đông lượng mưa phân bố chủ yếu ở giai đoạn đầu sau gieo (tháng 9, 10), giai đoạn trỗ cờ, tung phần lượng mưa rất ft (tháng 11, 12) 9,0 - 9,4 mm đã
vật chất khô của các giống ngơ tham gia thí nghiệm. Vụ xuân 2008 tuy nhiệt độ xuống rất thấp nhưng thỉnh thoảng vẫn có trận mưa rào xen kẽ lượng mưa không nhiều nhưng cũng đủ để cây không bị hạn. Vào cuối vụ giai đoạn trỗ
ảnh hưởng tới quá trình tích lũy chất khơ của cây ngô, nên ảnh hưởng đến đến năng suất của các giống ngô.
Sinh trưởng và phát triển là 2 q trình có quan hệ mật thiết không tách rời nhau, đan xen lẫn nhau trong một chu kỳ sống của sinh vat.
Sinh trưởng, theo Sabinin là quá trình tạo mới các yếu tố cấu trúc của
thường dẫn tới tăng kích thước của cây.
Phát triển là quá trình biến đơi về chất trong quá trình tạo mới các yếu tô câu trúc làm cho nó có thê trải qua chu kỳ sông của mình.
</div>