Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Thông tin về hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương (CPTPP) trên báo điện tử anh ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 167 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

NGUYỄN MAI CHI

THÔNG TIN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN
VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (CPTPP)
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ANH NGỮ

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

NGUYỄN MAI CHI

THÔNG TIN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN
VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (CPTPP)
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ANH NGỮ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số 60 32 01 01

Người hướng dẫn khoa học

Chủ tịch Hội đồng



PGS. TS. Lê Thanh Bình

PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung của luận văn Thông tin về Hiệp
định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trên báo
điện tử Anh ngữ, khảo sát các báo điện tử Anh ngữ của Việt Nam, Nhật Bản
và Mỹ là những kiến thức do tôi thu nhận được trong quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài của mình, không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về những lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Mai Chi


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn các thầy, cô giáo
của Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông - Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã cung cấp cho tôi những kiến
thức, kỹ năng cần thiết trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS. TS. Lê Thanh
Bình, giảng viên hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này. Thầy đã
tận tâm chỉ bảo, định hướng cho tôi về mặt lý luận và phương pháp nghiên
cứu, đồng thời gợi mở những kiến thức khoa học mới để tôi vận dụng vào

luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng Khoa học chấm
luận văn thạc sĩ đã phản biện, góp ý để tôi hoàn thành luận văn này.
Do còn có hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, tôi nhận thấy luận văn
của mình còn những thiếu sót nhất định. Kính mong sự góp ý và sửa chữa của
các thầy, cô giáo cũng như các bạn học viên để nghiên cứu của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Mai Chi


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ..................................................... 10
7. Kết cấu luận văn........................................................................................ 10
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT, LÝ LUẬN CHUNG ......... 11
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài .................................................... 11
1.1.1. Khái niệm thông tin ............................................................................ 11
1.1.2. Khái niệm báo điện tử ........................................................................ 13
1.1.3. Hiệp định CPTPP ............................................................................... 19

1.2. Một số lý thuyết liên quan đến đề tài ................................................. 28
1.2.1. Lý thuyết về thiết lập chương trình nghị sự........................................ 28
1.2.2. Lý thuyết truyền thông quốc tế ........................................................... 32
1.3. Vai trò của báo điện tử Anh ngữ trong việc thông tin về Hiệp định
CPTPP............................................................................................................. 35
1.4. Vài nét về các tờ báo trong diện khảo sát .......................................... 35
1.4.1. Việt Nam News (vietnamnews.vn) ...................................................... 35
1.4.2. Kyodo News (english.kyodonews.net) ................................................ 38
1.4.3. The Washington Post (washingtonpost.com) ........................................ 38
Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 40
Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CHUYỂN TẢI THÔNG TIN VỀ
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH
DƢƠNG (CPTPP) TRÊN CÁC TỜ BÁO THUỘC DIỆN KHẢO SÁT ..... 41
1


2.1. Báo điện tử Anh ngữ Việt Nam News của Việt Nam .......................... 41
2.1.1. Khảo sát số lượng các tin, bài .............................................................. 41
2.1.2. Nội dung chuyển tải thông tin về CPTPP ............................................. 42
2.1.3. Hình thức chuyển tải thông tin về CPTPP ............................................ 48
2.1.4. Tính tương tác trong các tin, bài về CPTPP......................................... 53
2.2. Báo điện tử Anh ngữ Kyodo News của Nhật Bản ............................... 55
2.2.1. Khảo sát số lượng tin, bài ..................................................................... 55
2.2.2. Nội dung chuyển tải thông tin về CPTPP ............................................. 56
2.2.3. Hình thức chuyển tải thông tin về CPTPP ............................................ 60
2.2.4. Tính tương tác trong các tin, bài về CPTPP......................................... 64
2.3. Báo điện tử Anh ngữ The Washington Post của Mỹ .......................... 64
2.3.1. Khảo sát số lượng tin, bài ..................................................................... 64
2.3.2. Nội dung chuyển tải thông tin về CPTPP ............................................. 65
2.3.3. Hình thức chuyển tải thông tin về CPTPP ............................................ 66

2.3.4. Tính tương tác trong các tin, bài về CPTPP......................................... 69
*Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 70
Chương 3: ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ ......................................................... 74
3.1. Những mặt làm đƣợc ............................................................................. 74
3.2. Hạn chế .................................................................................................... 75
3.3.Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ....................................................... 76
3.4. Khuyến nghị giải pháp tăng cƣờng truyền thông quốc tế trên báo
điện tử Anh ngữ của Việt Nam .................................................................... 77
3.4.1. Giải pháp chung .................................................................................... 77
3.4.2. Giải pháp cụ thể .................................................................................... 79
* Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 98

2


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự. ....................................... 30
Sơ đồ 1.2. Tam giác nghị sự ............................................................................ 31
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ các tin, bài về CPTPP theo các chuyên mục trên báo điện
tử Anh ngữ Việt Nam News............................................................................ 42
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ tin, bài về CPTPP trên báo điện tử Anh ngữ Việt Nam
News. ............................................................................................................... 49
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ các tin, bài về CPTPP theo các chuyên mục trên báo điện
tử Anh ngữ Kyodo News. ................................................................................. 56
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ tin, bài về CPTPP trên báo điện tử Anh ngữ Kyodo News. .... 60
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ các tin, bài về CPTPP theo các chuyên mục trên báo điện
tử Anh ngữ The Washington Post.................................................................... 65

Biểu đồ 2.6. Tỷ lệ tin, bài về CPTPP trên báo điện tử The Washington Post. 67

3


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Sapo trong tin của báo điện tử Anh ngữ Việt Nam News ............... 51
Hình 2.2. Ảnh minh họa cho tin “Without US, 11 Asia-Pacific states sign
trade deal”. ..................................................................................................... 52
Hình 2.3. Ảnh minh họa cho bài viết “CPTPP vital to VN economic reforms:
minister”.......................................................................................................... 52
Hình 2.4. Cách bố trí cụm tương tác mạng xã hội thứ nhất trên báo điện tử
Việt Nam News. ............................................................................................... 53
Hình 2.5. Cách bố trí cụm tương tác mạng xã hội thứ hai trên báo điện tử Việt
Nam News. ....................................................................................................... 54
Hình 2.6. Các bình luận trên báo điện tử Việt Nam News.............................. 55
Hình 2.7. Dòng Breaking News 1. .................................................................. 62
Hình 2.8. Dòng Breaking News 2. .................................................................. 62
Hình 2.9. Sapo trên báo điện tử Kyodo News. ................................................ 63
Hình 2.10. Cách bố trí cụm tương tác mạng xã hội trên báo điện tử Anh ngữ
Kyodo News. .................................................................................................... 64
Hình 2.11. Hình ảnh dòng trạng thái của Tổng thống Mỹ Donald Trump đăng
tải trên mạng xã hội Twitter. ........................................................................... 68
Hình 2.12. Cách bố trí cụm tương tác mạng xã hội trên báo điện tử Anh ngữ
The Washington Post - 1. ................................................................................ 69
Hình 2.13. Cách bố trí cụm tương tác mạng xã hội trên báo điện tử Anh ngữ
The Washington Post – 2................................................................................. 69
Hình 2.14. Đường link dẫn tới thông tin liên quan trên báo điện tử The New
York Times. ...................................................................................................... 70
Hình 3.1. Mẫu infographic về CPTPP. ........................................................... 86


4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng với những bước phát
triển vượt bậc khi đã ký kết 13 Hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang
đàm phán 3 FTA khác. Trong đó, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được coi là một FTA thế hệ mới đầy tham
vọng và tiêu chuẩn cao, kỳ vọng tạo mô hình mới về hội nhập và hợp tác khu
vực, tạo thuận lợi hơn nữa cho dòng chảy thương mại - đầu tư và trở thành hạt
nhân hình thành một khu vực thương mại tự do chung cho toàn khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Với cam kết mở cửa thị trường mạnh và tham gia sâu
của các nước thành viên, loại bỏ hoàn toàn nhiều dòng thuế nhập khẩu, mở
cửa dịch vụ và các yêu cầu cao về môi trường, lao động… CPTPP được đánh
giá là ―Hiệp định thế kỷ‖ đầy cơ hội không thể bỏ qua.
Để tận dụng cơ hội thu hút đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài
nước cần được hiểu đúng, đủ, có thông tin cụ thể, kịp thời và chính xác về nội
dung CPTPP và các cam kết của Việt Nam khi tham gia hiệp định này. Do đó,
công tác tuyên truyền về CPTPP trên các ấn phẩm báo chí càng đóng vai trò
quan trọng trong việc đưa ra thông tin mang tính định hướng, cho thấy Việt
Nam coi trọng, kỳ vọng, đánh giá cao và cam kết sâu rộng đối Hiệp định này
như thế nào.
Thực hiện chức năng thông tin tuyên truyền của mình, báo chí nói
chung đã và đang rất nỗ lực truyền tải đến công chúng các nội dung về ý
nghĩa, tác động, vai trò… của Hiệp định CPTPP đối với quốc tế và Việt Nam
một cách thường xuyên, đa khía cạnh. Trong đó, báo điện tử - loại hình báo
chí ra đời muộn nhất so với các thể loại báo in, báo phát thanh và báo truyền
hình đang rất tích cực truyền tải thông tin về Hiệp định CPTPP. Bởi nhiều ưu

thế vượt trội về khả năng tương tác; khả năng đa phương tiện; tính thời sự
cùng khả năng cập nhật thông tin nhanh nhạy và tính định hướng, kết nối
5


cộng đồng, những thông tin về CPTPP trên báo điện tử đã đến với công chúng
một cách hiệu quả và dễ dàng.
Báo điện tử Anh ngữ có những lợi thế nhất định khi giúp chuyển tải
thông tin, chủ trường, đường lối, quan điểm, chính sách của một nước đến với
quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân thế giới. Nghiên cứu
thông tin về Hiệp định CPTPP trên báo điện tử Anh ngữ là hướng nghiên cứu
cần thiết, góp thêm một tiếng nói tư vấn cho hoạt động truyền thông quốc tế
ngày càng có hiệu quả; góp phần khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của báo
điện tử Anh ngữ của Việt Nam trong việc thông tin các sự kiện được dư luận
quan tâm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài: “Media Power in
Politics” (Sức mạnh của truyền thông trong chính trị) của Doris A.Graber,
năm 2000; “The Creation of The Media: Political Origins of Modern
Communications” (Sáng tạo phương tiện truyền thông đại chúng: nguồn
gốc chính trị của các phương tiện liên lạc hiện đại) của Paul Starr, New
York, Basic Books, năm 2004; “Phương tiện truyền thông trong kỷ
nguyên công nghệ thông tin” của Sayling Wen, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2002; “Đưa tin thời toàn cầu hoá” của Anya Schifrin và Amer Bisat,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2004... Đây là những nghiên cứu mang
tính lý luận về thông tin đại chúng trong thời đại công nghệ số, có tính
chất khái quát cao.
- Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài về truyền thông quốc
tế: “International media research: A Critical survey” (Nghiên cứu truyền
thông quốc tế: Một khảo sát phản biện) của John Corner, Philip

Schlesinger và Roger Silverstone năm 1998, trên cơ sở khảo sát chính sách
truyền thông của châu Âu, Bắc Mỹ và khu vực Mỹ Latinh, các tác giả chỉ

6


ra rằng truyền thông quốc tế cần được xây dựng mềm dẻo trên cở sở đặc
trưng văn hóa, bản sắc riêng của từng quốc gia, dân tộc.
- Nghiên cứu về thông tin về các hiệp định thương mại (CPTPP, WTO…) trên
một số phương tiện thông tin đại chúng không phải là mới, đã có một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu và được công bố như sau:
+ Công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài: “TPP Objectively:
Legal, Economic, and National Security Dimensions of CPTPP” (Khách
quan về TPP: Các khía cạnh Luật pháp, Kinh tế và An ninh quốc gia) của
Giáo sư Raj Bhala thuộc Đại học Kansas (Mỹ) năm 2019, cập nhật những
thay đổi kể từ quyết định gây tranh cãi của Mỹ năm 2017 là rút khỏi TPP,
so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa TPP và CPTPP; “Trade
Implications of the Trans-Pacific Partnership for ASEAN and Other Asian
Countries” (Ý nghĩa thương mại của quan hệ đối tác xuyên Thái Bình
Dương đối với ASEAN và các nước châu Á khác), 2014, của Deardorff,
Alan, V, xem xét các tác động của TPP đối với thương mại, trên cơ sở
thông tin từ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các số liệu tăng
trưởng của các nước thành viên hiệp định.
+ Công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước: Tài liệu giới thiệu
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và các văn
kiện có liên quan của Bộ Tư pháp…. trong đó nêu ra lịch sử hình thành,
nội dung cam kết chính của hiệp định, đánh giá tác động của hiệp định đối
với Việt Nam trên các mặt chính trị, đối ngoại, an ninh, kinh tế; Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và việc tham gia của Mỹ và Việt
Nam, Hà Hồng Hải, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 4(95), tháng 12/2012,

tr43-68, đánh giá sự tham gia của hai nền kinh tế có sự khác biệt nổi bật là
Mỹ và Việt Nam từ góc độ kinh tế - chính trị, nêu bật mục tiêu và lợi ích
của Mỹ và cơ hội và thách thức mà hiệp định này đặt ra cho Việt Nam.
- Các đề tài, luận văn nghiên cứu có liên quan đã được công bố:
7


+ Các công trình nghiên cứu về CPTPP: “Thông tin về Hiệp định TPP trên
báo điện tử ở Việt Nam” của Phạm Đức Tiến, luận văn thạc sĩ, năm 2017.
Luận văn rút ra một số vấn đề cơ bản trong hoạt động thông tin về hiệp định
này (lý luận về quản lý, thông tin…) qua khảo sát thực trạng thông tin về TPP
trên 3 tờ báo điện tử là Thời báo Tài chính Việt Nam, Thời báo Ngân hàng và
Diễn đàn doanh nghiệp, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.
+ Công trình nghiên cứu về thông tin trên báo điện tử Anh ngữ: “Sự kiện
Giàn khoan Hải dương 981 dưới góc nhìn của báo điện tử đối ngoại bằng
tiếng Anh của Việt Nam và Trung Quốc” của Nguyễn Tuấn Anh, luận văn
thạc sĩ, năm 2015. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn hoạt
động thông tin đối ngoại; khảo sát, phân tích hoạt động thông tin về sự kiện
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên một số tờ báo điện tử đối
ngoại bằng tiếng Anh của Việt Nam và Trung Quốc, luận văn nêu bật thực
trạng về nội dung và hình thức thông tin của báo điện tử bằng tiếng Anh của
Việt Nam và Trung Quốc đối với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, từ đó,
chỉ ra những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại và đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo điện tử bằng tiếng nước ngoài
của Việt Nam nói chung, báo điện tử Anh ngữ nói riêng.
- Ngoài ra, còn nhiều luận văn, luận án, công trình nghiên cứu khác về TPP,
tựu chung dưới góc độ kinh tế: vấn đề chuyển giao công nghệ, năng lực cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại, cơ hội và thách thức với xuất khẩu
gạo… hay dưới góc độ luật pháp. Trong đó, phần lớn các công trình tập trung

vào lợi ích kinh tế mà hiệp định này mang lại, đánh gía triển vọng mà chưa đề
cập nhiều đến vai trò của công tác tuyên truyền, đặc biệt là trên các ấn phẩm
báo mạng điện tử Anh ngữ.

8


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là khảo sát, phân tích, nghiên cứu, đánh giá thực
trạng thông tin về CPTPP trên 3 tờ báo điện tử Anh ngữ của Mỹ, Nhật Bản và
Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp để cải thiện và nâng cao chất lượng của
thông tin và nâng cao vai trò của báo điện tử Anh ngữ về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, luận văn tiến hành thực hiện các
nhiệm vụ chính sau đây:
Thứ nhất, khái quát hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về báo điện
tử, chức năng thông tin trên báo điện tử; kiến thức về Hiệp định CPTPP và
những thông tin cơ bản về 3 tờ báo điện tử Anh ngữ được khảo sát.
Thứ hai, đánh giá chất lượng nội dung, hình thức bài viết về Hiệp định
CPTPP trên báo điện tử dựa trên 3 tờ báo khảo sát. Từ đó tiến hành phân tích
những thành công, hạn chế của việc thông tin về CPTPP trên báo điện tử Anh ngữ.
Thứ ba, phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị
để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin trên báo điện tử Anh ngữ khi
thông tin về Hiệp định CPTPP.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là CPTPP dưới góc nhìn của báo
điện tử Anh ngữ của Việt Nam, Nhật Bản và Mỹ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Khảo sát 3 báo điện tử Anh ngữ, cụ thể là báo điện tử Anh ngữ của Việt
Nam là Việt Nam News; báo điện tử Anh ngữ của Nhật Bản là Kyodo News
và báo điện tử của Mỹ là The Washington Post; tập trung vào giai đoạn từ
tháng 11/2017 (11 nước còn lại sau khi Mỹ rút khỏi TPP nhất trí duy trì cam
kết và đổi tên Hiệp định thành CPTPP) tới nay.
9


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích nội dung: Phân tích thông điệp truyền
thông về Hiệp định CPTPP trên báo điện tử Anh ngữ của Việt Nam, Nhật Bản
và Mỹ.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn các đối tượng gồm nhà
quản lý, phóng viên, biên tập viên, độc giả là người nước ngoài… để tìm hiểu
ý kiến đánh giá của các nhóm đối tượng này đối với việc thông tin về Hiệp
định CPTPP trên báo điện tử Anh ngữ.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Tập hợp, hệ thống hóa
các tài liệu, tư liệu, văn bản liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn có những nghiên cứu tổng thể về hoạt động thông tin tuyên
truyền của báo điện tử Anh ngữ với CPTPP, từ đó rút ra một số vấn đề lý luận
cơ bản trong hoạt động thông tin về Hiệp định này. Ví dụ, lý thuyết thông tin,
truyền thông quốc tế, báo điện tử, chuẩn hóa các khái niệm…
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ những thành công, hạn chế, nguyên nhân
và bài học kinh nghiệm của báo điện tử Anh ngữ trong việc thông tin về
Hiệp định CPTPP, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thông tin trên
báo điện tử bằng tiếng nước ngoài, đạt hiệu quả tốt nhất với những đối tượng
đặc thù hướng đến.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý thuyết, lý luận chung
Chƣơng 2. Nội dung và hình thức chuyển tải thông tin về Hiệp định
CPTPP trên các tờ báo thuộc diện khảo sát
Chƣơng 3. Khuyến nghị, giải pháp
10


Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT, LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm thông tin
Có rất nhiều cách hiểu về thông tin, và các từ điển cũng không thể đưa
ra một định nghĩa thống nhất. Ví dụ: Từ điển Oxford EnglishDictionary cho
rằng, thông tin là “điều mà người ta đánh giá hoặc nói đến”, là “tri thức, tin
tức”. Một vài từ điển khác đồng nhất thông tin với kiến thức, “thông tin là
điều mà người ta biết” hoặc “thông tin là sự chuyển giao tri thức làm tăng
thêm sự hiểu biết của con người”... Nguyên nhân của sự khác nhau trong việc
sử dụng thuật ngữ này chính là do thông tin chỉ được bắt gặp và tiếp cận trong
quá trình hoạt động, thông qua tác động trừu tượng của nó.
Từ Latin Informatio, gốc của từ hiện đại information (thông tin) có hai
nghĩa. Một là chỉ hành động rất cụ thể tạo ra một hình dạng. Hai là sự truyền
đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng tuỳ vào tình huống. Cùng
với sự phát triển của xã hội, khái niệm thông tin cũng phát triển theo. Với
nghĩa thông thường, thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán
đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin hình thành trong
quá trình giao tiếp: Một nguời có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc
từ các hiện tượng quan sát được trong môi trường xung quanh [41].

Trên quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã
hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh, nói rộng hơn là bằng
tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người [41]. Nhu cầu
thông tin là một nhu cầu rất cơ bản và không ngừng tăng lên cùng với sự gia
tăng các mối quan hệ trong xã hội. Mỗi người sử dụng thông tin lại tạo ra
thông tin mới. Các thông tin đó lại được truyền cho người khác trong quá
trình thảo luận, truyền đạt mệnh lệnh, trong thư từ và tài liệu hoặc qua các
11


phương tiện truyền thông khác. Thông tin được tổ chức tuân theo một số quan
hệ logic nhất định, trở thành một bộ phận của tri thức, đòi hỏi phải được khai
thác và nghiên cứu một cách hệ thống.
Trong hoạt động của con người, thông tin được thể hiện qua nhiều hình
thức đa dạng và phong phú như con số, chữ viết, âm thanh, hình ảnh... Thuật
ngữ ―thông tin‖ dùng ở đây không loại trừ các thông tin được truyền bằng
ngôn ngữ tự nhiên. Thông tin cũng có thể được ghi và truyền thông qua nghệ
thuật, bằng nét mặt và động tác, cử chỉ. Hơn nữa con người còn được cung
cấp thông tin dưới dạng mã di truyền. Những hiện tượng này của thông tin
thấm vào thế giới vật chất và tinh thần của con người, tạo ra sự đa dạng phong
phú về thông tin, dẫn tới những mức độ chất lượng khác nhau của thông tin.
Chẳng hạn như các số liệu, dữ kiện ban đầu thu thập được qua điều tra,
khảo sát là các thông tin nguyên liệu, còn gọi là dữ liệu. Từ các dữ liệu đó qua
xử lý, phân tích, tổng hợp sẽ thu được những thông tin có giá trị cao hơn, gọi
là thông tin có giá trị gia tăng. Ở mức độ cao hơn nữa là các thông tin quyết
định trong quản lý và lãnh đạo - kết quả xử lý của những nhà quản lý có năng
lực và kinh nghiệm, các thông tin chứa đựng trong các quy luật khoa học - kết
quả của những công trình nghiên cứu, thử nghiệm của các nhà khoa học và
chuyên môn.
Đối chiếu theo Từ điển tiếng Việt, thông tin được hiểu với nghĩa động

từ là truyền tin cho nhau để biết, và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi
cho biết, tin truyền đi. Như vậy, khái niệm thông tin được hiểu theo hai nghĩa
là nội dung thông tin và phương tiện thông báo, báo tin.
Trong cuốn Global Information and World Communication, Hamid
Mowlana cho rằng thông tin và một hiện tượng luôn có nhiều tranh cãi về nó.
Chính từ việc sử dụng hằng ngày, thông tin đã liên quan đến con người, đến
phương tiện truyền thông, với những gì có thể thêm vào, bổ sung cho những
điều thực tế, giá trị, hữu dụng, vô dụng hoặc kiến thức. Bởi vậy mà người ta
12


cho rằng thông tin là tốt, và càng có nhiều thông tin càng tốt; và rằng thông
tin là quyền lực, phức tạp, khó hiểu; rằng mỗi quyển sách, từ báo, lá thư hay
hội nghị đều chứa thông tin [2].
Mowlana cũng cho rằng khái niệm thông tin sử dụng trong nghiên cứu
về truyền thông nên được đặt trong bối cảnh ngữ nghĩa và thực tế của nó.
Thông tin ở đây được hiểu là một sự đóng góp mẫu hoặc một mối quan hệ
mẫu giữa các sự vật, hiện tượng [2].
Thông điệp là bất cứ thứ gì nguồn cố gắng chia sẻ với người khác.
Thông điệp bắt nguồn từ ý tưởng được mã hòa vào trong những biểu tượng sẽ
được sử dụng để diễn đạt ý tưởng đó. Những biểu tượng có thể là từ ngữ, hình
ảnh hoặc sự vật mà nguồn sử dụng để khơi gợi ý nghĩa trong suy nghĩ của
người nhận thông điệp. Việc lựa chọn biểu tượng để diễn đạt một ý tưởng hay
một sự vật là một bước rất quan trọng trong quy trình truyền thông vì chọn
lựa không tốt sẽ dẫn tới sự mơ hồ hoặc hiểu sai thông điệp cần truyền tải.
1.1.2. Khái niệm báo điện tử
1.1.2.1. Báo điện tử là gì
Báo điện tử hay báo mạng là loại hình báo chí được xây dựng dưới hình
thức một trang web và phát hành dựa trên nền tảng Internet. Báo điện tử được
xuất bản bởi Tòa soạn báo điện tử. Người đọc báo điện tử dựa trên máy tính,

điện thoại di động, máy tính bảng... có kết nối Internet để thu thập thông tin.
Khái niệm báo điện tử bắt đầu xuất hiện vào năm 1992 cùng với sự ra
đời của tờ báo Online Journal. Trên thế giới và ở Việt Nam đang tồn tại nhiều
cách gọi và cách hiểu khác nhau đối với loại hình báo chí này như: báo điện
tử (Electronic Journal), báo trực tuyến (Online Newspaper), báo mạng (Cyber
Newspaper), báo chí Internet (Internet Newspaper)... Trong đó, báo điện tử là
khái niệm thông dụng nhất ở Việt Nam. Ngoài ra, trong các công trình nghiên
cứu báo chí học, nhất là trong lĩnh vực truyền thông mới cũng xuất hiện các
khái niệm với cùng đặc tính như: xuất bản trực tuyến (Online publishing),
13


phương tiện truyền thông trực tuyến (Online media), nhà báo trực tuyến
(Online journalist), phát thanh trực tuyến (Online radio), truyền hình trực
tuyến (Online television).
Theo Điều 3, Luật Báo chí năm 1989 được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp
thứ 5 Quốc hội khóa X quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí được thực
hiện trên mạng thông tin máy tính”. Cách hiểu này đã dẫn đến sự xuất hiện
các ―báo điện tử‖ đối với các tờ báo in đưa thông tin lên mạng Internet như
Nhân dân, Lao động, Tuổi trẻ…
Luật báo chí sửa đổi, bổ sung số 103/2016/QH13 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 5/4/2016 (gọi tắt là
Luật báo chí 2016, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2017) định nghĩa: “Báo
điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền
dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử”; Tạp chí điện
tử là “sản phẩm báo chí xuất bản định kỳ, đăng tin, bài có tính chất chuyên
ngành, được truyền dẫn trên môi trường mạng”.
Năm 1993, Việt Nam bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng Internet. Ngày
5/3/1997, Chính phủ ban hành Nghị định 21/CP về Quy chế tạm thời quản lý,
thiết lập và sử dụng mạng Internet ở Việt Nam. Internet quốc gia Việt Nam

chính thức hòa mạng Internet toàn cầu ngày 19/11/1997. Từ đây, báo chí điện
tử nước ta và việc khai thác mạng Internet chính thức được đưa vào hoạt
động. Trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế
tri thức trên cơ sở sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ
thông tin, việc phát triển nhanh Internet để khắc phục sự tụt hậu xa hơn các
nước trên thế giới về công nghệ thông tin là yêu cầu rất bức thiết đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Ngày 2/2/1997, Tạp chí Quê
hương điện tử thuộc Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài trực
thuộc Bộ Ngoại giao ra đời, đánh dấu bước phát triển đầu tiên của báo điện tử
Việt Nam. Quá trình phát triển, báo điện tử Việt Nam đã đóng một vai trò
14


quan trọng trong các hoạt động tuyên truyền nói chung và hoạt động tuyên
truyền đối ngoại nói riêng.
Cùng với sự phát triển chóng mặt của các công nghệ truyền dẫn, giúp
đẩy nhanh tốc độ truy tải, số lượng các tờ báo điện tử cũng nở rộ khắp nơi
trên thế giới. Báo điện tử có tác dụng và tiện ích hơn hẳn các loại hình báo chí
truyền thống, dung lượng thông tin rất lớn, tương tác thông tin nhanh, phát
hành không bị trở ngại về không gian, thời gian, biên giới quốc gia.
Báo điện tử có sự tích hợp của công nghệ đa phương tiện, nghĩa là
không chỉ văn bản, hình ảnh mà còn cả âm thanh, video và các chương trình
tương tác khác. Có thể coi báo điện tử ngày nay là sự hội tụ của cả báo giấy
(text), báo tiếng (audio) và báo hình (video). Không bị giới hạn bởi khuôn
khổ, số trang, không bị phụ thuộc vào khoảng cách địa lý nên báo điện tử có
khả năng truyền tải thông tin đi khắp toàn cầu với số lượng người đọc không
giới hạn. Thông tin từ khi thu thập đến khi phát hành đều được diễn ra rất
nhanh chóng, với những thao tác hết sức đơn giản nên báo điện tử có thể tức
thời và phi định kỳ, luôn sống 24/24h. Báo điện tử chiếm ưu thế tuyệt đối
trong việc thiết lập các diễn đàn, các cuộc giao lưu, bàn tròn, phỏng vấn trực

tuyến... nhằm tăng mối quan hệ giữa tòa soạn với độc giả, giữa độc giả với
nhau, tạo cơ hội cho độc giả có thể giao lưu, trao đổi với nhân vật mình quan
tâm, yêu thích. Báo điện tử là một thư viện đúng nghĩa, người đọc không chỉ
xem các tin, bài hiện tại, mà còn đọc được những tin, bài trong quá khứ.
Ngoài ra, nó còn cung cấp cho người đọc một công cụ tìm kiếm thông tin
khoa học và hiệu quả. Với những ưu thế không thể phủ nhận, báo điện tử
đang trở thành kênh truyền thông được nhiều người lựa chọn.
1.1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của báo điện tử
- Khả năng đa phương tiện: Với việc phát triển vượt bậc của công nghệ
mạng, phần cứng và phần mềm, các sản phẩm báo điện tử đang ngày càng
tích hợp thêm nhiều phương tiện mới với những cách thức thể hiện khác nhau.
15


Một sản phẩm báo chí đa phương tiện phải bao gồm các thành phần văn bản
(text), hình ảnh tĩnh và đồ họa (still image & graphic), âm thanh (audio), hình
ảnh động (video & animation) và các chương trình tương tác (interative
program). Nhờ đó, khi độc giả đọc báo điện tử vẫn có thể chủ động xem
những tác phẩm mình quan tâm ở bất kì trang nào giống như báo in; tiếp nhận
trực quan những hình ảnh, video, lắng nghe những âm thanh mà không hề bị
phụ thuộc vào các yếu tố thời gian, không gian.
- Tính tức thời và phi định kỳ: Vượt qua những rào cản mà các loại hình
báo chí khác gặp phải, nội dung thông tin trên báo điện tử không bị giới hạn
bởi khuôn khổ của trang báo, thời lượng phát sóng hay thời gian tuyến tính,
quy trình sản xuất thông tin lại đơn giản, dễ dàng có thể cập nhật, bổ sung bất
kỳ khi nào, số lượng bao nhiêu. Với tốc độ đường truyền nhanh, báo điện tử
được gọi là báo giờ, bởi các nhà báo có thể đưa tin cùng lúc sự kiện đang diễn ra
một cách sống động, nóng hổi đến từng giờ, từng phút, thậm chí là từng giây, ví
dụ như khi tường thuật một trận bóng đá hay một cuộc họp báo, xét xử…
- Tính tương tác cao: Khi điều kiện của con người được nâng cao, nhu

cầu được đáp ứng về thông tin cũng như sự tương tác với báo chí của độc giả
càng được coi trọng. Ở bất kì loại hình báo chí nào, tính chất này đều được
những người làm báo lưu tâm. Đối với báo điện tử, nhờ có những đặc trưng
nổi trội về công nghệ mà tính tương tác thường cao hơn so với các loại hình
còn lại. Hằng ngày, mỗi tòa soạn báo điện tử có thể nhận được hàng trăm thư
các loại từ bạn đọc.
Không dừng lại ở sự tương tác giữa độc giả với toà soạn, ở báo điện tử,
chúng ta còn có thể thấy sự tương tác nhiều chiều giữa độc giả với nhà báo,
độc giả với độc giả hay độc giả với nhân vật trong tác phẩm báo chí. Ngày
nay các phương tiện tương tác trên các tờ báo điện tử đã được tăng cường
bằng việc lắng nghe, lôi cuốn sự tham gia của độc giả vào việc thu thập và
cung cấp thông tin. Các tờ báo chú ý nhiều hơn đến việc kéo độc giả vào
16


những hành vi mang tính cộng tác, làm họ trở nên chủ động và tích cực hơn
trong quá trình tìm kiếm, khai thác thông tin hơn là chỉ đơn thuần cung cấp
nhiều thông tin. Ngay sau mỗi tác phẩm báo chí đăng trên trang báo điện tử
đều có mục phản hồi, ngoài ra còn có rất nhiều kênh tương tác khác như
comment, feedback, vote, email… tiện lợi cho độc giả dễ dàng đóng góp ý
kiến của mình.
- Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thông tin: Báo điện tử không bị giới hạn
bởi số trang, khuôn khổ hay thời lượng chương trình như các loại hình báo chí
khác. Điều này tạo cho báo điện tử thực sự là một kho thông tin khổng lồ và
kho thông tin đó bảo đảm được các yếu tố: Thông tin cực kỳ phong phú, đa
dạng cả về số lượng và nội dung; Thông tin khách quan và được kiểm chứng;
Thông tin được lưu trữ lâu dài và có hệ thống: Mỗi tờ báo điện tử đều có khả
năng lưu trữ, sắp xếp toàn bộ tin, bài đã đăng tải theo trật tự thời gian (giờ,
ngày, tháng, năm) và theo từng chuyên mục, dòng sự kiện hoặc vấn đề được
dư luận quan tâm. Điều này thực sự đem lại những thuận tiện, hữu ích cho

người tìm kiếm.
1.1.2.3. Xu hướng phát triển của báo điện tử Việt Nam
Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, báo điện tử tuy ra đời sau
những loại hình báo chí khác nhưng đã nhanh chóng phát triển về số lượng,
chất lượng và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong đời sống báo
chí, đời sống kinh tế-xã hội của đất nước. Đồng thời, báo điện tử không
ngừng tăng tốc để bắt kịp và là cánh tay nối dài của báo in, phát thanh và
truyền hình.
Chính bởi tính mới, nhanh nhạy và hiện đại của mình, báo điện tử đang
đáp ứng nhu cầu tìm kiếm thông tin ngày càng cao của công chúng. Ngược
lại, vì công chúng ngày càng có xu hướng và có điều kiện tiếp cận với nguồn
thông tin hiện đại từ báo điện tử nhiều hơn, báo điện tử đã trở thành một trong
những món ăn tinh thần thiết yếu của độc giả.
17


Khả năng cạnh tranh thông tin một cách chóng mặt sẽ là ưu thế để báo
điện tử phát triển xa hơn và mạnh mẽ hơn trong tương lai. Cơ sở rõ ràng nhất
để khẳng định điều này xuất phát từ thông tin về Quy hoạch báo chí đến năm
2020, được lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông chia sẻ tại Hội nghị báo
chí toàn quốc năm 2016: Đến năm 2020, triển vọng của báo điện tử là trở
thành loại hình báo chí chủ lực của cơ quan truyền thông. Riêng các Đài phát
thanh, truyền hình sẽ bảo đảm chương trình tự sản xuất đạt 60%, tỷ lệ chương
trình khai thác trên một kênh truyền hình không vượt quá 30%.
Theo đó, có những xu hướng về báo điện tử Việt Nam đang và sẽ tiếp
tục trong tương lai:
- Nhanh hơn: Tính tức thời và phi định kỳ tiếp tục được các tờ báo điện
tử khai thác tối đa nhằm thoả mãn nhu cầu cập nhật thông tin của công chúng.
Điều này không chỉ những tờ báo điện tử độc lập mà các tờ báo điện tử thuộc
cơ quan báo in, đài phát thanh, truyền hình cũng ngày càng quan tâm đến tốc

độ cập nhật thông tin.
- Đa dạng hơn: Các tờ báo điện tử của Việt Nam sẽ chú ý nhiều hơn tới
khả năng đa phương tiện. Đó không phải là sự xuất hiện rời rạc mà phải là sự
kết hợp hài hoà giữa các yếu tố văn bản, hình ảnh (động, tĩnh), âm thanh, đồ
hoạ… trong một sản phẩm báo chí.
- Tương tác nhiều hơn: Tờ báo lúc này không đơn thuần làm nhiệm vụ
cung cấp thông tin mà còn tạo điều kiện giúp độc giả chủ động trong việc tận
hưởng thông tin, chú ý nhiều hơn đến việc kéo độc giả vào những hành vi mang
tính cộng tác, tham gia phản hồi và tái phản hồi thông tin một cách tích cực.
- Chuyên sâu hơn: Hiện nay hầu hết các tờ báo điện tử của Việt Nam
đều là những tờ báo đưa thông tin tổng hợp, đề cập đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong tương lai, sự ra đời của các tờ báo chuyên ngành, khai
thác chuyên sâu một lĩnh vực, phục vụ cho một đối tượng bạn đọc ở một
ngành nghề nhất định sẽ có thể là hướng đi mới.
18


- Uy tín hơn: Trong thế giới thông tin của Internet, đôi khi bạn đọc bị
lạc lối, sai đường. Vì vậy, sự định hướng và tính chính xác của thông tin sẽ là
những yếu tố níu giữ bạn đọc. Những tờ báo điện tử thuộc cơ quan báo in, đài
phát thanh, đài truyền hình lớn đang dần khẳng định vị thế của mình, có triển
vọng trở thành những tờ báo điện tử hàng đầu Việt Nam.
- Rộng hơn: Nếu muốn vươn ra thế giới và trở thành những tờ báo
không chỉ của người Việt, những tờ báo điện tử của Việt Nam phải nhanh
chóng tính đến phương án cho ra đời phiên bản bằng tiếng nước ngoài…
- Gắn kết với mạng xã hội: Mạng xã hội tiếp tục là cuộc chơi mà các tờ
báo điện tử phải gia nhập nếu muốn tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
- Cuộc đua về công cụ tìm kiếm: Sự phát triển của các công cụ tìm kiếm
đòi hỏi các trang báo mạng phải phát triển công cụ tìm kiếm trong chính trang
báo của mình, xây dựng các từ khóa, các nội dung sao cho tương thích nhất

với yêu cầu tìm kiếm của độc giả.
1.1.3. Hiệp định CPTPP
1.1.3.1. Quá trình hình thành
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt
là Hiệp định CPTPP, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới,
gồm 11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.
Hiệp định đã được ký kết ngày 8/3/2018 tại thành phố Santiago (Chile),
và chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên
hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New
Zealand, Canada và Australia. Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ
ngày 14/1/2019.
Khởi đầu, Hiệp định TPP có 4 nước tham gia là Brunei, Chile, New
Zealand, Singapore và vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4.

19


Ngày 22/9/2008, Mỹ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng đề nghị không
phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp
định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Ngay sau đó, các nước Australia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP.
Năm 2009, Việt Nam tham gia TPP với tư cách là quan sát viên đặc
biệt. Sau 3 phiên đàm phán, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định này
nhân Hội nghị Cấp cao APEC tổ chức từ ngày 13 đến ngày 14/11/2010 tại
thành phố Yokohama (Nhật Bản).
Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên
mới là Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia
lên thành 12.
Trải qua hơn 30 phiên đàm phán ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm

phán ở cấp Bộ trưởng, các nước TPP đã kết thúc cơ bản toàn bộ các nội dung
đàm phán tại Hội nghị Bộ trưởng tổ chức tại Atlanta (Mỹ) vào tháng 10/2015.
Ngày 4/2/2016, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định TPP đã tham dự
Lễ ký để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại thành phố Auckland (New
Zealand).
Tuy nhiên, vào ngày 30/1/2017, Mỹ đã chính thức tuyên bố rút khỏi
Hiệp định TPP. Trước sự kiện này, các nước TPP còn lại đã tích cực nghiên
cứu, trao đổi nhằm thống nhất được hướng xử lý đối với Hiệp định TPP trong
bối cảnh mới.
Với việc Tổng thống Mỹ Donald Trump chính thức rút nước này khỏi
TPP, Hiệp định sẽ chỉ còn chiếm 16% GDP và 14% thương mại toàn cầu thay
vì 40% tổng GDP và 30% kim ngạch thương mại toàn cầu như dự tính ban
đầu. Điều này đương nhiên sẽ làm cho TPP không còn nguyên vẹn ý nghĩa cả
về quy mô, vị thế và vai trò của bản thân như kỳ vọng. Tuy nhiên, một số
nước thành viên của TPP với vai trò dẫn đầu của Nhật Bản vẫn nỗ lực theo
đuổi Hiệp định đến cùng và tin tưởng vào ―giấc mơ‖ TPP.
20


Tháng 11/2017, tại thành phố Đà Nẵng (Việt Nam), 11 nước còn lại đã
thống nhất đổi tên Hiệp định TPP thành Hiệp định CPTPP với những nội
dung cốt lõi.
Ngày 8/3/2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp định CPTPP
đã chính thức ký kết Hiệp định CPTPP tại thành phố Santiago (Chile).
1.1.3.2. Nội dung chính
Hiệp định CPTPP gồm 7 Điều và 1 Phụ lục quy định về mối quan hệ
với Hiệp định TPP đã được 12 nước gồm Australia, Brunei, Canada, Chile,
Mỹ, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt
Nam ký ngày 6/2/2016 tại New Zealand; cũng như xử lý các vấn đề khác liên
quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp định CPTPP.

Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP
(gồm 30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn
20 nhóm nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các
nước thành viên trong bối cảnh Mỹ rút khỏi Hiệp định TPP. 20 nhóm nghĩa
vụ tạm hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2
nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại
liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại,
Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông,
Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng. Tuy nhiên, toàn bộ các
cam kết về mở cửa thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được giữ nguyên
trong Hiệp định CPTPP.
* Sự khác nhau giữa CPTPP và TPP
- Về nội dung: Hiệp định CPTPP cơ bản giữ nguyên các cam kết chính
của Hiệp định TPP, đặc biệt là các cam kết mở cửa thị trường nhưng cho phép
các nước tạm hoãn thực thi khoảng 20 nghĩa vụ trong các lĩnh vực quan trọng
như sở hữu trí tuệ, đầu tư, mua sắm chính phủ, dịch vụ tài chính…

21


×