MỤC LỤC:
DẪN NHẬP:................................................................................................................. 2
NỘI DUNG:................................................................................................................. 2
I.Cơ sở lý luận:............................................................................................................... 2
I.1.Khái niệm văn hóa và di sản văn hóa:...................................................................2
I.2.Khái niệm du lịch và ảnh hưởng của du lịch với xã hội:.......................................4
II.Mối quan hệ giữa di sản văn hóa với du lịch:.............................................................6
II.1.Di sản văn hóa là tài nguyên và nguồn lực phát triển du lịch:..............................7
II.2.Du lich góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa:......................12
III.Hiện trạng và giải pháp để phát triển mối quan hệ giữa di sản văn hóa và du lịch
trong thời kì mới:.........................................................................................................15
III.1.Hiện trạng mối quan hệ giữa di sản văn hóa và du lịch hiện nay:.....................15
III.2.Giải pháp để pháp triển trong thời kì mới:........................................................17
KẾT LUẬN:............................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO:.......................................................................................20
1
DẪN NHẬP:
Di sản văn hóa là tài sản vô giá với mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa. Nó là hiện thân
của những đặc trưng văn hóa. Du lịch hình thành và phát triển sau này, nó cũng hình
thành nên những văn hóa riêng biệt, là cách thức đem lại sự phát triển – kinh thế xã
hội vượt bậc. Di sản văn hóa và du lịch có mối quan hệ đặc biệt, tuy riêng lẽ, nhưng
lại quan hệ chặc chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Di sản văn hóa là tài nguyên và là
nguồn lực để phát triển văn hóa du lịch. Ngược lại qua du lịch người ta biết đến di sản
văn hóa, và nhờ du lịch mà di sản văn hóa được bảo tồn, quan tâm phát triển.
NỘI DUNG:
I. Cơ sở lý luận:
I.1. Khái niệm văn hóa và di sản văn hóa:
• Khái niệm văn hóa:
Văn hóa xuất hiện khi loài người xuất hiện. Dù vậy cho đến nay, khái niệm văn hóa
vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi nhiều.
Có rất nhiều cách hiểu về văn hóa của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Trong
đó, Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình”.
Theo Phan Ngọc thì: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc
một cá nhân hay một tộc người với cái thế gới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay
tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện
rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thái dễ nhận thấy nhất,
biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa
chọn của các cá nhân hay các tộc người khác”.
Trước đó, Bác Hồ và các học giả nước ngoài cũng đã đưa ra nhiều khái niệm về
văn hóa. Mỗi tác giả đều có những lập luận sắc bén riêng của mình.
Bác cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống laoif người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về măc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.
2
Văn hóa là hiện tượng bao trùm lên tất thảy các mặt của đời sống con người, khiến
bất kỳ định nghĩa nào đưa ra cũng khó có thể bao quát hết được nội dung của nó. Mỗi
định nghĩa chỉ có thể thâu tóm một phương diện nào đó của văn hóa. Bởi vậy cần coi
các định nghĩa như những trừu tượng, và cần sử dụng những trừu tượng ấy theo cách
bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hóa như một chỉnh thể.
• Khái niệm di sản văn hóa:
Di sản văn hóa là di sản của các hiện vật vật lý và các thuộc tính phi vật thể của
một nhóm hay xã hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và
dành cho các thế hệ mai sau. Di sản văn hóa bao gồm tài sản văn hóa (như các tòa
nhà, cảnh quan, di tích, sách, tác phẩm nghệ thuật, và các hiện vật), văn hóa phi vật
thể (như văn hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức) và di sản tự nhiên
(bao gồm cảnh quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học).
Theo luật di sản văn hóa: Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Ðiều 1 của luật di sản văn hóa cho rằng: “ Di sản văn hóa quy định tại Luật này bao
gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Trong luật này cho rằng di sản văn hóa bao gồm các di sản sau:
-
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,khoa
học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm
tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền
miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ
công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về
trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
-
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia.
-
Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học.
3
-
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ,
khoa học.
-
Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
-
Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa,khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
-
Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm
tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
-
Bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là sản phẩm được làm giống như bản
gốc về hình dáng, kích thước, chất liệu, mầu sắc, trang trí và những đặc điểm
khác.
I.2. Khái niệm du lịch và ảnh hưởng của du lịch với xã hội:
• Khái niệm du lịch:
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển với
tốc độ rất nhanh, song cho đến nay khái niệm “du lịch” được hiểu rất khác nhau tại
các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Berneker cho rằng “Đối với du
lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì cso bấy nhiêu định nghĩa”
Năm 1811, lần đầu tiên có định nghĩa về du lịch tại Anh như sau: Du lịch là sự phối
hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của cuộc hành trình với mục đính giải
trí. Ở đây, giải trí là động cơ chính.
Năm 1930, ông Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục
không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú
thường xuyên”.
Hai giáo sư, tiến sữ Hunziker và Krapf được coi là những người đặt nền móng cho
lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch là tập hợp các mối
quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những
người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và
không dính dáng đến hoạt động kiếm lời”. Đại hội lần thứ 5 của Hiệp hội quốc tế
những nhà nghiên cứu khoa học về du lịch đã chấp nhận định nghĩa này làm cơ sở cho
môn khoa học du lịch.
Khoa du lịch và khách sạn trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội có đưa ra định
nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động
tổ chưc hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh
nghiệp nhằm đạp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm
4
hiểu và nhu các khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh
tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”.
Định nghĩa này thiên về bàn luận đến khái niệm dịch vụ du lịch hơn khái niệm du
lịch.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10 thuật ngữ du lịch được hiểu như
sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm thoải mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định”. Định nghĩa này tuy có ưu điểm là ngắn gọn, dễ hiểu nhưng vì ngắn gọn
nên chưa bao quát hết nội dung cần thiết của định nghĩa.
Như vậy, du lịch là hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo
thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành
kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa xã hội. Trên cơ sở những phân xét trên,
chúng ta có thể đúc kết một khái niệm chung như sau: “Du lịch là tổng hòa những
hoạt động và quan hệ của người lữ hành ngoài nơi cư trú thường xuyên, trong một
khoảng thời gian nhất định nhằm thoải mãn nhu cầu của mình”
• Ảnh hưởng của du lịch đối với xã hội:
- Ảnh hưởng tích cực:
Du lịch là hoạt động ngoại giao nhân dân tích cực: Phát triển du lịch sẽ hỗ trợ
cho hiểu biết giữa quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế, có lợi cho hòa bình thế giới. Du
lịch là hoạt động trong không gian của con người, du lịch quốc tế tạo cơ hội cho việc
tiếp xúc trực tiếp của những người khác nhau về quốc tịch, dân tộc và lối sống. Du
lịch là một hoạt động giao lưu xã hội phổ biến giữa nhân dân với nhau, không những
hỗ trợ cho việc hòa nhập và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân các nước mà còn có lợi
cho hòa bình thế giới. Có người gọi du lịch là “Động lực của hòa bình” và gọi ngành
du lịch là “Công nghiệp hòa bình”
Phát triển du lịch có thể thúc đẩy xây dựng văn minh tinh thần: Du lịch là lối sống
đặc biệt ngày càng trở thành một loại hành vi xã hội phổ biến. Thông qua khai thác
hoạt động du lịch bằng nhiều hình thức, moi người có thể mở rộng tầm mắt, tăng
cường hiểu biết, thoải mái tin thần, tôi luyện tình cảm. Vì thế hoạt động du lịch có thể
nâng cao văn hóa tinh thần và tu dưỡng đạo đức của quốc dân.
Du lịch có ý nghĩa nhân sinh và xã hội rất tích cực, thúc đẩy du lịch quốc dân là yếu tố
cơ bản của phồn vinh xã hội.
Đồng thời thông qua tham gia hoạt động du lịch còn có thể làm tăng sự hiểu biết của
mọi người đối với non sông gấm vóc, lịch sử và văn hóa dân tộc của tố quốc.
5
Phát triển du lịch có lợi cho việc cải thiện môi trường đầu tư, xúc tiến mở cửa với
bên ngoài: Ngành du lịch thúc đẩy sự lưu thông của con người, do sự lưu động dày
đặc của con người sẽ thúc đẩy sự lưu động của thông tin, kĩ thuật, vố và đổi mới về
quan niệm. Sự phát triển của du lịch có thể cải thiện từ nhiều mặt của môi trường đầu
tư, tăng cường hợp tác giao lưu kinh tế đối ngoại.
Mở cửa với bên ngoài đã trở thành trào lưu quốc tế. Một quốc gia và khu vực mở cửa
với bên ngoài thu hút đầu tư nước ngoài, trước tiên phải để người nước ngoài hiểu và
biết về mình.
Trên thực tế, để tạo môi trường du lịch tốt, thu hút du khách đến thăm, nhưng nơi
ngành du lịch phát triển đều coi trọng cải tiến tình hình giao thông, thông tin, hoàn
thiện cơ sở hạ tầng đời sống và văn phòng.
Phát triển du lịch có lợi cho việc giao lưu và phát triển khoa học kĩ thuật: Du lịch
là hình thức quan trọng của việc truyền bá kĩ thuật và giao lưu nghiên cứu khoa học.
Trong du khách có rất nhiều nhà khoa học, học giả, nhà kinh doanh, thông tin khoa
học kĩ thuật mới nhất và kinh nghiệm quản lý tiên tiến do khoa học đưa đến, thông
qua giao lưu với đồng nghiệp khiến chúng ta hiểu thế giới nhanh hơn, toàn diện hơn.
Phát triển du lịch có lợi cho việc bảo vệ và phát triển văn hóa dân gian: Hoạt động
du lịch có liên quan mật thiết với sự phát triển của văn hóa xã hội. Ngày nay ngành du
lịch không ngừng phát triển, chức năng văn hóa của du lịch lại có thêm nội dung mới,
ngoài việc cung cấp các hoạt đông tham quan di tích văn hóa, du ngoạn phong cảnh
thiên nhiên còn có tác dụng bảo vệ văn hóa, làm đẹp môi trường và thúc đẩy sự phát
triển văn hóa dân tộc.
- Ảnh hưởng tiêu cực:
Hàng hóa hóa, tầm thường hóa văn hóa dân tộc: Gọi hành hóa hóa văn hóa dân tộc
để chỉ việc chạy theo nhu cầu của du khách mà vứt bỏ “nội dung chứa đựng” của tinh
thần văn hóa dân tôc, chỉ giữ lại cái “vỏ ngoài” của nó và ra sức phục chế thỏa mãn
hứng thú của du khách bất cứ ở đâu, bất cứ nơi nào. Tầm thường hóa văn hóa của dân
tộc là kết quả tất yếu của việc hàng hóa hóa.
Ảnh hưởng tới đời sống xã hội: Trào lưu “a dua” nước ngoài tràn lan. Sa sút của
quan niệm đạo đức truyền thống. Chịu ảnh hưởng tư tưởng phóng khoáng của Phương
Tây.
II. Mối quan hệ giữa di sản văn hóa với du lịch:
DU LỊCH
6
DI SẢN VĂN HÓA
II.1.
Di sản văn hóa là tài nguyên và nguồn lực phát triển du lịch:
Văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch. Nguồn nguyên liệu văn hoá có
hai loại cơ bản: Văn hoá vật thể, văn hoá phi … Theo quan niệm của ngành du lịch,
người ta xếp các thành tố văn hoá vào tài nguyên nhân văn cụ thể là: các di tích lịch
sử - văn hoá; hàng lưu niệm; ẩm thực; lễ hội; các trò chơi giải trí; phong tục, tập quán,
cách ứng xử, giao tiếp; tín ngưỡng, tôn giáo; văn học - nghệ thuật.
Vì vậy mà văn hoá là điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh và phát triển.
Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá là một trong những điều kiện đặc
trưng cho việc phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương.
Chúng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vị trí đặc biệt quan trọng của văn hoá
Việt Nam đối với sự phát triển toàn diện đất nước về kinh tế, chính trị, xã hội trong đó
có du lịch, một ngành kinh tế đang trở thành mũi nhọn trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nước ta trong thế kỷ XXI.
Nhiều người đã khẳng định rằng nếu không có truyền thống, vẻ đẹp độc đáo, những
giá trị và công trình văn hoá thì du lịch Việt Nam sẽ không phát triển mạnh được, sẽ
mất đi sự hấp dẫn riêng của nó. Trong Luật Du lịch được ban hành năm 2005 thì tài
nguyên du lịch được xác định là “cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch
sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác
có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các
khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch” [42, tr.9].
Với nhận định trên, có thể khẳng định rằng phần lớn tài nguyên du lịch là các giá
trị, các thành tựu, các công trình văn hoá của dân tộc trong sự gắn bó với môi trường
tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, tài nguyên du lịch còn gắn trực tiếp với tiến trình lịch
sử của đất nước, với truyền thống văn hoá của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau. Như vậy, đối với du lịch, đặc biệt đối với du lịch bền vững, văn hoá trở thành tài
nguyên tạo nên sự hấp dẫn có chiều sâu nhất đối với du lịch. Và sở dĩ du lịch là một
ngành kinh tế có sức thu hút mạnh mẽ bởi vì trong nó có hàm chứa nội dung văn hoá
sâu sắc và phong phú. Để du lịch phát triển bền vững thì nó phải tuân thủ một yêu cầu
khách quan hết sức nghiêm ngặt là phải đảm bảo sự bền vững về văn hoá. Việc khai
thác các giá trị văn hoá nhằm phục vụ nhu cầu du lịch hiện tại song không được làm
tổn hại đến các giá trị văn hoá, phải bảo tồn các di sản văn hoá cho các thế hệ mai sau.
7
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hoá: - Thông tin đến năm 2001, Việt Nam có tổng
số di tích văn hoá đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng là 2.597, trong đó:
o Di tích lịch sử là 1266.
o Di tích kiến trúc nghệ thuật là 1205.
o Di tích khảo cổ là 38.
o Danh lam thắng cảnh là 88.
(Đặc biệt trong số này có 6 di sản văn hoá được thế giới công nhận là di sản thế giới
đó là: Cố Đô Huế (Thừa Thiên - Huế); Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Khu phố cổ Hội
An (Quảng Nam); Khu di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam); Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng (Quảng Bình); Nhã nhạc cung đình Huế (Thừa Thiên - Huế).) Đó là những di
sản văn hoá độc đáo ở mọi vùng, miền của đất nước nơi lưu giữ bao chiến công, hào
hùng của dân tộc Việt Nam, nơi ẩn chứa với những giá trị nhân bản sâu sắc, độc đáo
của dân tộc Việt Nam trong suốt trường kỳ dựng nước và giữ nước, tất cả hợp thành
bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc.
( Cố đô Huế )
Các di sản văn hoá có mặt ở hầu hết ở các địa phương trên cả nước từ miền ngược
đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, đó là lợi thế để ngành du lịch phát huy các
di sản văn hoá trong tổ chức hoạt động du lịch. Có thể khẳng định rằng tiềm năng to
lớn của du lịch Việt Nam nằm trong văn hoá dân tộc. Chẳng hạn, Chùa Việt Nam là
điểm hẹn rất hấp dẫn của khách du lịch quốc tế và nội địa. Đây vừa được coi là nơi
linh thiêng thu giữ khí trời đất, vừa luôn gắn liền với xóm làng, vừa là nơi giải toả và
thanh lọc tâm hồn con người. Vì vậy nó có sức hẫp dẫn lôi cuốn mạnh mẽ du khách,
trở thành yếu tố không thể thiếu được trong tổ chức các loại hình du lịch, các cuộc
hành hương của du khách trong và ngoài nước.
8
Cùng với các di tích lịch sử văn hoá như là những tài nguyên tĩnh thì các loại hình văn
hoá phi vật thể là tài nguyên động của du lịch Việt Nam. Tính chất động của nó đặc
biệt do gắn liền với hoạt động của con người, tái hiện, tái tạo của bản thân con người
trong quá khứ và hiện tại làm sống lại lịch sử trong tính toàn vẹn, tính hình tượng cụ
thể cảm tính, sinh động của nó, tạo nên môi trường du lịch độc đáo và sức hấp dẫn kỳ
lạ đối với khách du lịch từ nơi xa đến (những lễ hội dân gian, những chương trình
nghệ thuật cổ truyền, những làn điệu dân ca…) chẳng hạn như Ca Huế và Hò Huế là
loại hình ca hát được mọi người ưa chuộng thường được biểu diễn trên một con đò
lững lờ trôi giữa dòng Hương Giang. Du khách đến Huế sau những ngày tham quan
các di tích - lịch sử văn hoá, thắng cảnh được thả mình trên dòng Hương Giang nghe
hò thả tâm hồn mình vào những câu “nam ai nam bằng" trải dài như bất tận, lửng lơ
trong không gian, một phần như chùng chình, giăng túi trên mặt nước nghe lưu luyến,
nỉ non, xốn xang lòng người. Cùng với nó là những điệu múa cung đình Huế, những
tiết mục múa rối nước Thăng Long- Hà Nội, những làn điệu dân ca mượt mà sâu lắng
của người dân quan họ Bắc Ninh. Điều đáng quí và độc đáo hơn cả, tạo nên sức hấp
dẫn của du lịch là nguồn di sản văn hoá phi vật thể được truyền bá từ ngàn năm lịch
sử. Yêu nước là truyền thống quí báu của dân tộc. Lòng yêu nước của dân tộc đã tô
thắm lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó đã được giáo
dục và lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Phát huy tinh thần yêu nước chính là khẳng
định bản lĩnh của con người và Tổ quốc Việt Nam trên trường quốc tế nhất là trong
hoạt động du lịch.
( Quan họ Bắc Ninh )
oài các di tích, các lễ hội và truyền thống ngàn năm của dân tộc, chúng ta còn có rất
nhiều di sản lễ hội của đồng bào các dân tộc như các lễ hội của đồng bào dân tộc Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ luôn có sức hẫp dẫn kỳ lạ đối với du khách. Nếu
9
chúng ta biết cách khai thác, tổ chức tốt kết hợp với các tua du lịch, chúng ta có thể
vừa bảo tồn các lễ hội, vừa coi lễ hội đó như là một hoạt động du lịch. Theo ý kiến
của một số nhà nghiên cứu văn hoá thì một số tỉnh, thành như ở Bắc Ninh, Lạng Sơn,
Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Bắc Giang, Thái Bình hàng năm có rất
nhiều lễ hội. Dĩ nhiên, không phải tất cả các lễ hội đều trở thành nội dung hoạt động
du lịch, nhưng chứng tỏ rằng di sản văn hoá của chúng ta là một tài nguyên độc đáo,
quí giá của du lịch. Nguồn lực văn hoá đa dạng và phong phú của 54 dân tộc anh em
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được kết tinh từ tài năng, trí tuệ, tâm hồn con
người Việt từ ngàn đời, đồng thời là kết tinh của quá trình giao lưu, tiếp thu tinh hoa
văn hoá của các dân tộc trên thế giới, đã tạo nên sự đa dạng về văn hoá, sự phong phú
của các lễ hội, các phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Có thể nói, văn hoá
là nguồn tài nguyên chủ yếu của du lịch. Môi trường thiên nhiên và môi trường văn
hoá, nhân văn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với du lịch vì chúng chính là nguồn
tài nguyên, là yếu tố cơ sở cho phát triển du lịch. Ngày nay, xu hướng du lịch sinh
thái, du lịch cảnh quan và du lịch văn hoá đang trở thành những loại hình du lịch chủ
yếu trong xu thế phát triển của ngành du lịch. ở nhiều nước trên thế giới kinh nghiệm
cho thấy rằng nếu quốc gia nào có truyền thống văn hoá lâu đời, có nhiều danh lam
thắng cảnh thì quốc gia đó sẽ có thị trường du lịch hấp dẫn.
Văn hoá còn góp phần cấu thành nên môi trường văn hoá cho du lịch. Văn hoá làm
cho du khách sung sướng, vừa lòng, những tình cảm tốt lành, những kỷ niệm đẹp cho
du khách sau những chuyến đi. Văn hoá cung cấp tri thức, các phép ứng xử văn minh
lịch sự cho hoạt động du lịch.
Một trong những lĩnh vực góp phần phát triển tốt cho lễ hội là du lịch. Mặt khác du
lịch cũng tìm thấy ở lễ hội một chỗ dựa vững chắc, một kho tàng phong phú để khai
thác nhằm phát triển sự nghiệp của mình. Trong các cuộc hội nghị bàn về chiến lược
phát triển văn hoá Việt Nam đến năm 2010, nhiều ý kiến cho rằng không có yếu tố
truyền thống, vẻ đẹp độc đáo, những giá trị và công trình văn hoá, du lịch Việt Nam sẽ
không phát triển mạnh được, sẽ mất đi sự hấp dẫn riêng của nó. Vì du lịch chính là để
hiểu hơn văn hoá Việt Nam đặc biệt là văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam với 54
dân tộc anh em mang sắc thái khác nhau, song cùng hoà quyện với sắc thái thiên
nhiên tạo thành bức tranh văn hoá hết sức độc đáo giàu truyền thống được lưu truyền
trong các bảo tàng, sự khéo léo của các làng nghề truyền thống, cách xử sự nồng nhiệt
đậm đà thú vị qua các món ăn ẩm thực, phong tục tập quán riêng qua các lễ hội…
Việc tổ chức lễ hội văn hoá du lịch đã trở thành hoạt động quảng bá tiềm năng thúc
đẩy hợp tác du lịch, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo thu hút khách khắp mọi
10
nơi. Sự thành công của các sự kiện văn hoá du lịch không chỉ được thể hiện bằng số
lượng khách đến tham dự mà còn ở chỗ sự tham gia phối hợp tổ chức của nhiều cấp,
nhiều ngành trong khoảng thời gian dài trên các mặt: hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo ra
sản phẩm mới, chỉnh trang môi trường, cảnh quan, giáo dục tuyên truyền cộng đồng
địa phương đến công tác xúc tiến quảng bá... Vấn đề này cũng khẳng định ngành du
lịch đang dần dần có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế - xã hội của nhiều địa
phương. Ngoài ra, hiệu quả của các sự kiện văn hoá lễ hội du lịch còn được đánh giá
qua những lợi ích mang lại cho cộng đồng dân cư. Khi cộng đồng dân cư được chia xẻ
lợi ích, họ sẽ tự biết bảo vệ nguồn tài nguyên phục vụ phát triển du lịch bền vững.
Nhìn chung, văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch (nguồn nguyên liệu để
hình thành lên hoạt động du lịch). Khi nói văn hoá là nguồn nguyên liệu để hình thành
lên hoạt động du lịch, tức là chúng ta nói đến vật hút / đối tượng hưởng thụ của du
khách. Nguồn nguyên liệu văn hoá có hai loại cơ bản: Văn hoá vật thể là những sáng
tạo của con người tồn tại, hiện hữu trong không gian mà có thể cảm nhận bằng thị
giác, xúc giác, chẳng hạn những di tích lịch sử văn hoá, những mặt hàng thủ công, các
công cụ trong sinh hạt, sản xuất, các món ăn dân tộc… Văn hoá phi vật thể như lễ hội,
các loại hình nghệ thuật, cách ứng xử, giao tiếp… Theo quan niệm của ngành du lịch,
người ta xếp các thành tố văn hoá vào tài nguyên nhân văn (đối lập với tài nguyên tự
nhiên như biển, sông hồ, núi rừng, hang động…) cụ thể là: Các di tích lịch sử - văn
hoá; hàng lưu niệm mang tính đặc thù dân tộc; ẩm thực; lễ hội; các trò chơi giải trí;
phong tục, tập quán, cách ứng xử, giao tiếp; tín ngưỡng, tôn giáo; văn học - nghệ
thuật.
Vì vậy mà văn hoá là điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh và phát triển.
Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá là một trong những điều kiện đặc
trưng cho việc phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Giá trị
của những di sản văn hoá: di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các hình thức nghệ
thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống… cùng với các thành tựu kinh tế,
chính trị, xã hội, các cơ sở văn hoá nghệ thuật, các bảo tàng… là những đối tượng cho
du khách khám phá, thưởng thức, cho du lịch khai thác và sử dụng. Sự khai thác và
thu lợi nhuận từ tài nguyên, việc xây dựng các khu điểm du lịch đều phản ánh trí tuệ
và sức sáng tạo của loài người. Chính những tài nguyên này không chỉ tạo ra môi
trường và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát triển mà còn quyết định quy mô, thể
loại, chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng, một
địa phương.
11
Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá còn được biểu hiện qua hành vi ứng xử, đạo đức
trong phục vụ, hay trong giao dịch kinh doanh du lịch. Thực chất của mối quan hệ
giữa văn hoá với kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng (hay vai trò
của văn hoá trong phát triển kinh tế) đã được khẳng định. Nói cách khác, hành vi kinh
doanh muốn có được thành công phải được thực hiện một cách văn hoá. Có thể gọi
chung là nghệ thuật kinh doanh hay văn hoá kinh doanh.
Xét ở một khía cạnh khác, mối quan hệ mật thiết này được thể hiện: nếu muốn phát
triển du lịch cần phải có một môi trường du lịch tốt (bao gồm cả môi trường tự nhiên
và môi trường nhân văn - hai yếu tố này không tách rời). Môi trường tự nhiên như
không có rác bẩn, nguồn nước sạch, không viết vẽ lên đá…môi trường nhân văn đó là
di tích được giữ gìn, cư dân, nhân viên làm việc ở nơi du lịch phải có văn hoá, tố chất
văn hoá, cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh…
Tri thức, thông tin xã hội, cách ứng xử, hiểu biết tâm lý du khách…là những động lực
hữu hiệu thúc đẩy sự phát triển du lịch.
II.2.
Du lich góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa:
Du lịch cũng thể hiện một vai trò hết sức quan trọng trong mối quan hệ này. Du lịch
trở thành phương tiện để truyền tải và trình diễn các giá trị văn hoá của một địa
phương, một dân tộc để mọi khách du lịch trong nước và quốc tế khám phá, chiêm
ngưỡng, học tập và thưởng thức.
Nhờ có du lịch mà sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, các quốc gia được tăng
cường và mở rộng.
Du lịch còn là phương tiện để đánh thức và làm trỗi dậy các giá trị văn hoá dân tộc
đang bị chìm lắng hoặc mai một dần theo thời gian trước những biến cố của lịch sử.
Đấy có thể là các công trình kiến trúc cổ, một tập quán sinh hoạt, một làn điệu dân ca,
một món ăn dân tộc... thể hiện trình độ mỹ thuật văn hoá, kỹ thuật của các thời đại đã
qua. Nhờ có du lịch mà các tài sản văn hoá đó được khôi phục, khai thác và tôn tạo,
phục vụ cho nhu cầu được thẩm nhận những giá trị của những di sản đó.
Xét ở góc độ kinh tế, nhờ có du lịch đã tạo ra một nguồn thu nhập cho phép các địa
phương tích luỹ và phát triển kinh tế – xã hội; trong đó có văn hoá. Nhờ đó các tài sản
văn hoá được bảo vệ, tu sửa, tôn tạo đồng thời với việc xây dựng mới các cơ sở văn
hoá và làm phong phú thêm các giá trị văn hoá đương đại. Chính vì văn hoá và du lịch
có mối quan hệ tương tác/lẫn vào nhau như vậy nên văn hoá và du lịch không thể tách
rời nhau và càng không thể đối lập nhau.
12
Không phải bất cứ sản phẩm du lịch nào được khai thác từ văn hoá dân tộc cũng
đều mang sẵn tính độc đáo, mặc dù văn hoá bản thân nó đã mang tính đặc thù cho mỗi
quốc gia. Khai thác những yếu tố mang tính bản sắc, đặc trưng của văn hoá dân tộc để
hình thành các sản phẩm du lịch chính là tạo nên những sản phẩm văn hoá đặc sắc,
riêng biệt.
Được “xây” trên nền văn hóa, phát triển phải dựa trên nền tảng văn hóa, nhưng du
lịch không thụ động mà có những tác động trở lại văn hóa, phát triển vì mục tiêu văn
hóa, góp phần bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa. Trong sự phát triển của
lịch sử nhân loại, văn hoá xã hội của các vùng, miền, các dân tộc, các khu vực có sự
giao lưu, thâm nhập, giao thoa với nhau. Bên cạnh sự giao lưu ngày càng tăng giữa
các nền văn hoá trên thế giới nhờ vào sự phát triển của giao thông, thông tin liên lạc,
ngoại giao và thương mại, thì hoạt động du lịch thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hoá
một cách trực tiếp và nhanh nhất. Bởi lẽ, một mặt nhu cầu du lịch là sự mong muốn
được thoả mãn sự tìm hiểu các nền văn hoá khác, thôi thúc con người đi du lịch để
giao lưu; mặt khác du lịch là hoạt động thực tiễn của con người, theo nghĩa rộng, nó
thuộc về phạm trù văn hoá, là một hoạt động văn hoá mang tính cao cấp, xuất hiện và
xếp sau các hoạt động văn hóa đáp ứng nhu cầu sống thường nhật của con người.
Như vậy, du lịch là một hoạt động văn hoá mang tính tổng hợp và xã hội hoá
cao. Mọi hoạt động của nó đều theo đuổi hoặc chứa đựng một loại hình, một hình thức
văn hoá nào đó. Dù ý thức hoặc vô thức từ phía người làm du lịch, văn hoá đều phải
xuyên suốt các mặt hoạt động của du lịch. Các nhu cầu du lịch chủ yếu bao gồm đi lại,
ăn uống, lưu trú, mua sắm, tham quan, vui chơi giải trí đều chứa đựng đặc trưng văn
hoá. Trong ăn uống, lưu trú, đi lại, mua sắm không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình
thường mà còn là sự khám phá, thưởng thức, trải nghiệm; tham quan và vui chơi giải
trí là nhu cầu đặc trưng của chuyến đi du lịch càng thể hiện rõ nét hơn tính văn hoá.
Tất cả các dịch vụ và hàng hoá du lịch đáp ứng được các nhu cầu này có giá trị đối
với khách du lịch ở chỗ nó thoả mãn được các nhu cầu tìm đến cái mới, cái khác biệt
của nơi họ đến du lịch so với nơi ở thường ngày của mình, giúp cho du khách tìm
được cái đáp ứng khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, ba trụ cột vĩnh hằng
của sự phát triển văn hoá nhân loại.
Ai cũng biết rằng, du lịch tuy phải dựa vào kinh tế để có cơ sở vật chất kỹ thuật cho
các hoạt động du lịch và bản thân du lịch cũng là một ngành kinh tế tổng hợp, nhưng
nhìn tổng thể và xét cho đến cùng thì du lịch là một hoạt động văn hoá. Tính văn hoá
của du lịch, hay nói gọn là văn hoá du lịch, không phải là phép cộng đơn thuần giữa
văn hoá với du lịch mà là hình thái văn hoá trong lĩnh vực du lịch, có nội dung xác
13
định. Văn hoá du lịch là một hình thức văn hoá xã hội đặc thù, do hoạt động du lịch
sinh ra hoặc liên quan mật thiết với nó. Văn hoá du lịch sẽ phát triển cùng với sự phát
triển của du lịch.
Hoạt động du lịch sẽ góp phần giới thiệu, giá trị nền văn hoá độc đáo của Việt
Nam mấy nghìn năm văn hiến thông qua xúc tiến du lịch, tổ chức tạo sản phẩm phục
vụ khách và tổ chức các chương trình du lịch. Bằng các ấn phẩm quảng cáo xúc tiến,
vẻ đẹp về đất nước, con người Việt Nam sẽ được giới thiệu trong và ngoài nước.
Trong quá trình hoạt động, ngành Du lịch phải làm cho sản phẩm, dịch vụ của mình
chứa đựng ngày càng tăng hàm lượng văn hoá ngay từ xây dựng các công trình du
lịch, tổ chức các dịch vụ khách sạn, hướng dẫn, giới thiệu tham quan, vui chơi giải trí
và cả trong thái độ phục vụ khách... Như vậy không phải chỉ có ngành Du lịch giới
thiệu nền văn hoá Việt Nam với khách, mà các ngành, địa phương và nhân dân nơi
khách đến đều phải có trách nhiệm và truyền tải được giá trị độc đáo của bản sắc văn
hóa nước ta đến với du khách quốc tế và đặc trung riêng có của văn hóa mỗi vùng,
miền, dân tộc đến với khách du lịch nội địa.
Trong chuyến đi của mình, khách du lịch thường sử dụng các dịch vụ, hàng hoá và
thường tiếp xúc với dân cư địa phương. Thông qua giao tiếp đó, văn hoá của cả khách
du lịch và của cộng đồng dân cư nơi khách đến được trau dồi và nâng cao. Du lịch tạo
khả năng cho con người mở mang, tăng cường sự hiểu biết về lịch sử truyền thống,
văn hoá, phong tục tập quán, đạo đức, chế độ xã hội... làm giàu thêm khả năng thẩm
mỹ, tôi luyện tình cảm, thoải mái tinh thần khi được tham quan kho tàng văn hoá nghệ
thuật của đất nước, một vùng, một địa phương. Du lịch còn là phương tiện giáo dục
lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Thông qua chuyến đi du
lịch mà con người được làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử, văn hoá dân tộc, qua đó
càng thêm yêu đất nước mình; cộng đồng dân cư địa phương cũng thấy được sự hấp
dẫn của văn hoá bản địa, nhận thức ngày một sâu sắc việc bảo tồn di sản văn hoá vật
thể và phi vật thể địa phương mình, góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá
dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trường tự nhiên và xã hội. Du lịch quốc tế có vai trò
quan trọng trong giáo dục tinh thần quốc tế, làm cho mọi người thấy cần thiết phải
phát triển và củng cố các mối quan hệ quốc tế, làm cho các dân tộc gần gũi nhau hơn,
góp phần bình thường hoá quan hệ, giữ gìn, củng cố hoà bình và tăng thêm tình hữu
nghị giữa các dân tộc, tăng cường sự hợp tác, hội nhập trên mọi lĩnh vực vì lợi ích
phát triển chung.
14
( Du khách thăm quan Hội An )
Thực tế, nếu chỉ cố gắng khai thác mà không quan tâm tới bảo tồn di sản văn hóa
thì chỉ trong 5 - 10 năm, các di sản này sẽ bị khai thác kiệt quệ. Do đó, khi tham gia
du lịch có trách nhiệm, doanh nghiệp phải chia sẻ lợi ích, bằng cách thuê người địa
phương, khuyến khích khách du lịch mua sắm sản phẩm địa phương. Doanh nghiệp
cũng cần đóng góp thông qua mua vé, bởi tiền vé này sẽ được dùng để bảo tồn di sản.
Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa Nhà nước - doanh nghiệp - cộng đồng. Nếu không
có điểm tựa vững chắc từ 3 đối tượng này thì rất khó để bảo đảm du lịch phát triển
bền vững và di sản văn hóa được bảo tồn lâu dài.
Du lịch có trách nhiệm là phải đưa vấn đề bảo tồn lên hàng đầu, phải chia sẻ lợi ích
công bằng, đóng góp cho di sản thông qua mua vé và có sự phối hợp công - tư - cộng
đồng. Trong đó, doanh nghiệp và du khách giữ vai trò quyết định.
III. Hiện trạng và giải pháp để phát triển mối quan hệ giữa di sản văn hóa và du
lịch trong thời kì mới:
III.1. Hiện trạng mối quan hệ giữa di sản văn hóa và du lịch hiện nay:
Văn hóa và du lịch có mối quan hệ khá khăng khít, luôn tác động qua lại lẫn nhau
trong quá trình phát triển. Tuy nhiên mới đây rộ lên những hành vi vô văn hóa làm
ảnh hưởng xấu tới du lịch như nạn "chặt chém" du khách, tăng giá thuê phòng, giá
dịch vụ một cách phi lý, giá một cốc nước giải khát bình thường lên tới hàng trăm
nghìn đồng, đi xích-lô một quãng đường ngắn cũng lên đến tiền triệu, đi ta-xi thì bị
đưa vòng vèo, gian lận số đo đi đường, lấy giá tùy tiện.
15
Nhiều di tích lịch sử, văn hóa và thắng cảnh đã tạo thế mạnh cho du lịch Việt Nam,
trong đó có tới 14 di sản vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới. Tuy nhiên trong cuộc hội thảo quốc tế "Mười năm thực hiện Công ước
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể - Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai"
mới được tổ chức tại tỉnh Quảng Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng cảnh báo,
nếu tổ chức và quản lý không tốt, du lịch sẽ phá hủy di sản. Bà I-ri-na Bô-cô-va, Tổng
Giám đốc UNESCO cho biết: "UNESCO kêu gọi cộng đồng LHQ cần làm gì để tiếp
cận và bảo tồn văn hóa gắn với phát triển bền vững. Bởi trong quá trình phát triển nếu
không có văn hóa sẽ không có di sản văn hóa". Ðiều này thể hiện khá rõ nét trong việc
tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống ở nước ta. Lễ hội truyền thống thường gắn với
di tích lịch sử, văn hóa và thắng cảnh. Một số lễ hội đã bị thương mại hóa. Cư dân địa
phương phụ thuộc hoàn toàn vào du lịch để kiếm sống và giao dịch thương mại. Lễ
hội trở nên xô bồ, nhếch nhác, che lấp mất giá trị quý giá vốn có của nó. Không ít nơi,
di tích bị xâm hại, bị làm mới, mất đi giá trị nguyên gốc. Người ta chỉ biết đến lợi ích
trước mắt mà không nghĩ đến chuyện lâu dài, khi di sản bị làm méo mó, mất giá trị,
liệu còn ai biết đến để tham quan du lịch nữa.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, giải quyết tốt mối quan hệ di sản văn hóa và du
lịch có tầm quan trọng, cấp thiết đến nhường nào. Dường như thời gian qua, sự phối
hợp hành động giữa ngành văn hóa và ngành du lịch còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ.
Những người trông giữ di sản không am tường về du lịch, còn những người làm du
lịch thì tìm mọi cách để thu hút khách mà không cần quan tâm đến việc có làm tổn hại
đến di sản hay không. Trong quá trình phát triển, mỗi di sản không thể "đóng cửa" chỉ
trông chờ vào kinh phí của Nhà nước để bảo tồn, mà còn cần được quảng bá rộng rãi
không những ở trong nước mà còn vươn ra thế giới để giới thiệu rộng rãi với mọi
người về đất nước và con người Việt Nam, từ đó có thêm nguồn kinh phí phục vụ tôn
tạo, sửa chữa. Ngành du lịch cũng cần dựa vào di sản mới có nội dung đa dạng, hấp
dẫn du khách. Vậy tại sao hai ngành không liên kết chặt chẽ với nhau để thống nhất
hành động vì lợi ích chung? Việc kết hợp hài hòa giữa hai ngành sẽ giúp những người
làm văn hóa có đầu óc và kỹ năng làm du lịch, sáng tạo nhiều hình thức sống động
phô diễn tất cả giá trị, vẻ đẹp của di sản, đồng thời những người làm du lịch càng hiểu
sâu sắc giá trị của di sản để tìm cách thu hút du khách mà không gây ra nguy cơ phá
hỏng di sản.
Nhân tố mang tính quyết định đến sự thành công trong việc giải quyết mối quan hệ
văn hóa và du lịch là sự quan tâm của lãnh đạo và ý thức của người dân nơi có di sản.
Sự quan tâm của lãnh đạo địa phương bằng những chương trình, kế hoạch cụ thể sẽ
16
huy động được sự tham gia của tất cả các ban, ngành, đoàn thể và mọi tầng lớp nhân
dân trong việc quản lý và tổ chức các hoạt động của di sản. Thiếu sự quan tâm ấy,
chắc chắn hoạt động văn hóa và du lịch sẽ chuệch choạc, mất phương hướng và dễ rơi
vào tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Người dân cũng giữ vai trò chính
trong việc xây dựng môi trường văn hóa cho du lịch. Bên cạnh việc tuyên truyền giáo
dục tinh thần tự hào, ý thức bảo vệ di sản cần quan tâm đến sự hưởng lợi của họ. Vấn
đề là sự hưởng lợi ấy cần được tổ chức, quản lý một cách quy củ, minh bạch, tránh
tình trạng manh mún, mạnh ai nấy làm. Hoạt động văn hóa du lịch vừa bảo tồn và
phát huy di sản vừa góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, trên cơ sở đó du lịch
mới phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước.
III.2. Giải pháp để pháp triển trong thời kì mới:
Việc phát triển du lịch văn hóa ở địa phương góp phần phục hồi và bảo tồn di sản,
mang lại lợi ích kinh tế không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho cả cộng đồng sống
tại các khu di sản hoặc xung quanh khu di sản; đồng thời tăng cường đối thoại trao đổi
giữa các nền văn hóa, tạo điều kiện cho cộng đồng địa phương có những hiểu biết về
di sản đó. Tổ chức Du lịch Thế giới ước tính 37% du lịch toàn cầu xuất phát từ động
lực mong muốn tìm hiểu văn hóa. Khách du lịch di sản văn hóa đi thăm nhiều nơi hơn
gấp 2 lần những khách du lịch khác, ở lại mỗi nơi lâu hơn 2,5 lần và họ cũng chi tiêu
nhiều hơn. Đây cũng là điều mà Việt Nam muốn hướng đến trong chiến lược phát
triển du lịch.
Song song với việc khai thác và phát triển du lịch, phải quan tâm đến việc bảo tồn
các khu di sản để tránh dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, mà một trong số đó là lo
ngại cộng đồng địa phương sẽ đánh mất bản sắc văn hóa của mình. Mặt khác, đối với
những di sản vật thể, những di tích, công trình khảo cổ, chúng ta cũng cần có kế
hoạch bảo vệ và trùng tu, tránh gây ảnh hưởng hư hại lên bề mặt di sản.
Phải kết nối chặt chẽ giữa công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với
các nguyên tắc và hoạt động du lịch có trách nhiệm để mang lại hiệu quả và lợi ích lâu
dài cho ngành Du lịch. Du lịch có trách nhiệm là khám phá vẻ đẹp tự nhiên và di sản
văn hóa đồng thời không để lại những tác hại tiêu cực lên các điểm di sản. Việt Nam
có một nền văn hóa đậm đà và đa dạng, vừa mang tính lịch sử vừa hiện đại với những
thành phố sôi động và làng quê độc đáo, nơi có những nhóm người dân tộc thiểu số
vẫn đang sống theo phương thức sinh hoạt truyền thống. Du lịch Việt Nam cần đến
những kỹ năng để hiểu và truyền tải những tài sản văn hóa này một cách nguyên bản
và lôi cuốn. Bên cạnh đó, để các di sản văn hóa thực sự hấp dẫn khách du lịch, Việt
17
Nam cần phải xây dựng các tuyến du lịch theo chủ đề, mang đậm tính văn hóa; đồng
thời ưu tiên hàng đầu cho công tác xúc tiến, quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam qua
các công cụ thông tin trực tuyến.
Phát triển du lịch có trách nhiệm là một trong những giải pháp trụ cột nhằm bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản văn hóa, hướng tới sự phát triển bền vững.
Một số định hướng cơ bản đối với phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa và phát triển cộng đồng bao gồm:
- Khai thác có hiệu quả các giá trị các di sản văn hoá để phát triển những sản
phẩm du lịch đặc thù có tính cạnh tranh cao, thu hút khách du lịch.
Hiện nay, một trong những hạn chế cơ bản của du lịch Việt Nam là thiếu các
sản phẩm du lịch đặc thù có tính cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Chiến
lược phát triển du lịch Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ ưu tiên khắc phục hạn chế
này. Trong trường hợp này, bản thân các di sản văn hoá, đặc biệt là các di sản thế
giới là những tài nguyên du lịch có giá trị. Vấn đề là cần có quy hoạch và đầu tư
hợp lý để biến những giá trị di sản văn hoá thành sản phẩm du lịch có sức cạnh
tranh, thu hút khách du lịch. Sự tăng trưởng về khách du lịch đến các điểm di sản
sẽ đồng nghĩa với việc những giá trị di sản này sẽ càng được phát huy.
- Phát triển du lịch di sản văn hóa gắn với phát triển cộng đồng.
Cộng đồng là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa, trong nhiều trường
hợp cộng đồng chính là linh hồn, là tâm điểm của di sản. Chính vì vậy phát triển
du lịch di sản không thể tách rời phát triển cộng đồng ở khu vực di sản và lợi ích
có được từ du lịch di sản phải được chia sẻ với cộng đồng. Trong trường hợp này,
cộng đồng sẽ là nhân tố tích cực góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
trên quê hương của họ.
Bên cạnh ý nghĩa trên, phát triển du lịch văn hoá gắn với cộng đồng sẽ còn khai
thác được những giá trị văn hoá bản địa góp phần làm đa dạng và phong phú hơn
sản phẩm du lịch điểm đến, làm tăng tính hấp dẫn và hiệu quả kinh doanh du lịch.
- Phát triển du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch di sản phải gắn với phát triển du
lịch quốc gia và khu vực.
Để phát huy có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là các di sản thế
giới, hoạt động xúc tiến du lịch văn hóa thông qua sự hợp tác với các nước trong
khu vực sẽ có ý nghĩa quan trọng. Sự hợp tác này trước hết sẽ tạo ra các tuyến du
lịch văn hoá có tính liên vùng và khu vực như tuyến du lịch di sản miền Trung,
tuyến du lịch di sản Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), tuyến du lịch di
18
sản Hành lang Đông Tây (WEC), v.v. Để các ý tưởng gắn kết du lịch di sản văn
hoá, cần thiết phải có liên kết phát triển du lịch giữa các vùng du lịch; giữa du lịch
Việt Nam với các nước trong khu vực thông quan một số chương trình cụ thể.
Việc quảng bá và phát triển các chương trình này chính là phương thức phát huy
có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam.
KẾT LUẬN:
Nhìn chung, có thể thấy di sản văn hóa và du lịch có mối quan hệ đặt biệt quan trọng
trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Không chỉ ở văn hóa mà cả kinh tế - xã hội. Du
lịch không thể phát triển nếu thiếu đi sự tồn tại của di sản văn hóa. Nhìn ở các góc độ
khác nhau, mối quan hệ này lại được thể hiện khác nhau. Song một điều không thể
phủ nhận là di sản văn hóa và du lịch có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Bổ sung cho
nhau, và tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Sự tồn tại của di sản văn hóa và du lịch
là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng phát huy nền văn hóa truyền thống, đồng
thời tạo cơ hội cho ngành du lịch phát triển.Mối quan hệ này đã tạo tiền đề và động
lực phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội của quốc gia.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Luận văn “Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
hiện nay” , luanvan.com
2. Bài viết, “Phát triển hài hòa giữa du lịch và di sản văn hóa”, Thùy Mai,
/>3. Bài viết, “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa hướng tới du lịch có trách
nhiệm”, Phạm Hương, />4. Bài viết, “Phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa
và phát triển cộng đồng ở Việt Nam”, Theo Cinet
5. Bài viết, “Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch”, Đỗ Văn Tính,
/>6. Bài
viết,
“Mối
quan
hệ
/>
giữa
văn
hóa
và
du
lịch”,
7. Bài viết, “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch”, Trần Nguyên,
/>8. Giáo trình “Văn hóa du lịch” , Phạm Thị Tú Trinh, Đại học Sư Phạm – Đại Học
Đà Nẵng.
20