Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Cơ sở lý luận về tổ chức tiền lương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.98 KB, 35 trang )

Cơ sở lý luận về tổ chức tiền lương
1.1 CÁC KHÁI NIỆM VỀ TIỀN LƯƠNG
1.1.1 Các khái niệm cơ bản về tiền lương
1.1.1.1 Tiền lương dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, mọi tư liệu lao động đều thuộc sở hữu
của các nhà tư bản, người lao động không có tư liệu lao động phải làm thuê
cho chủ tư bản, do vậy tiền lương được hiểu theo quan điểm sau “Tiền lương
là giá cả của sức lao động mà người sử dụng lao động phải trả cho
người lao động”. Nói cách khác, tiền lương dưới thời kỳ TBCN che dấu sự bóc
lột của nhà Tư bản đối với người lao động. Quan điểm về tiền lương dưới chế
độ tư bản được xuất phát từ việc coi sức lao động là một hàng hoá đặc biệt
được đưa ra trao đổi và mua bán một cách công khai.
Tiền lương (tiền công) dưới chế độ tư bản che dấu sự bóc lột của nhà tư
bản đối với người lao động bởi vì để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó nhà
tư bản bỏ tiền ra mua máy móc, nguyên vật liệu, thuê lao động để tiến hành
sản xuất từ đó thu được giá trị thặng dư. Nhà tư bản coi giá trị thặng dư đó là
số phần thưởng cho việc họ đã đầu tư vào sản xuất, mặt khác để tăng giá trị
thặng dư thì nhà tư bản luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất mà chủ yếu là
giảm về tiền lương của người lao động hoặc thúc ép người lao động để tăng
cường độ lao động.
1.1.1.2 Tiền lương trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung mọi, của cải xã hội đều thuộc sở hữu
của nhân dân lao động mà đại diện là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị đều được nhà nước phân bố theo kế
hoạch. Do vậy, quan niệm về tiền lương được thể hiện “Tiền lương là một bộ
phận của thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà
nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên chức lao động, căn cứ vào
số lượng, chất lượng lao động của mối người đã cống hiến”. Trong thời kỳ
này tiền lương còn mang nặng tư tưởng bao cấp bình quân đều và kế hoạch,
nó chưa thực sự kích thích được người lao động trong quá trình sản xuất kinh
doanh.


Quan điểm về tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội được xuất phát từ các
quan điểm như tiền lương không phải là giá cả sức lao động bỏi lẽ dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa thì sức lao động không phải là hàng hoá. Tiền lương là một
khái niệm thuộc phạm trù phân phối vì thế nó phải tuân thủ theo nguyên tắc
của quy luật phân phối dưới chủ nghĩa xã hội. Tiền lương được phân phối theo
số lượng, chất lượng sức lao động mà người lao động đã hao phí và được kế
hoạch hoá từ cấp trung ương đến cấp địa phương, được nhà nước quản lý một
cách chặt chẽ.
1.1.1.3 Tiền lương trong cơ chế thị trường
Khi đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, người
lao động được tự chủ trong việc lựa chọn việc làm và đòi hỏi mức tiền lương
xứng đáng với sức lao động mà họ bỏ ra. Điều này dẫn đến việc phải thay đổi
về quan điểm tiền lương “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức
lao động, là giá cả của các yếu tố sức lao động mà người sử dụng lao
động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên
tắc cung-cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của nhà
nước”
Quan niệm về tiền lương trong cơ chế thị trường đất nước ta hiện nay
được xuất pháp từ các yêu cầu đặt ra của nền kinh tế đó là: Phải coi sức lao
động là một hàng hoá và là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh. Quan điểm này phải được công nhận với người lao động trong mọi
thành phần kinh tế; Các tổ chức, cá nhân sử dụng lao động phải tự chủ trong
việc trả lương cho người lao động căn cứ vào hợp đồng giữa người cung ứng
và người sử dụng lao động trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước chỉ quản
lý về một mặt vĩ mô như ban hành các chính sách, pháp luật về tiền lương; Tiền
lương phải được coi là một bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao
động, đồng thời là một yếu tố chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Với các quan điểm như trên nên tiền lương trong thời kỳ này đã phát huy

cao độ chức năng của nó kích thích người lao động hăng hái làm việc, nâng
cao tính tự chủ, sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đó ngày càng
tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
1.1.1.4 Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế
Được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động.
Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động và hiệu
quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệp làm việc
v.v... ngay trong quá trình lao động.
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và
các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được
bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Như vậy, tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số lượng tiền lương
danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoá tiêu dùng và
các lợi dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương thực tế
và tiền lương danh nghĩa được thể hiện qua công thức sau:
I
tltt
=
p I
Itldn
(1)
Trong đó: I
tltt
: Chỉ số tiền lương
I
tldn
: Chỉ số của tiền lương danh nghĩa
I
p
: Chỉ số của giá cả tiêu dùng

Như vậy, ta có thể thấy rõ là nếu giá cả tăng lên thì tiền lương thực tế
giảm đi. Điều này có thể xảy ra ngay cả khi tiền lương danh nghĩa tăng lên (do
có những thay đổi, điều chỉnh trong chính sách tiền lương). Đây là một quan hệ
rất phức tạp do sự thay đổi của tiền lương danh nghĩa, của giá cả và phụ thuộc
vào những yếu tố khác nhau. Trong xã hội, tiền lương thực tế là mục đích trực
tiếp của người lao động hưởng lương. Đó cũng là đối tượng quản lý trực tiếp
trong các chính sách về thu nhập, tiền lương và đời sống. Do vậy mà chính phủ
luôn phải đề ra các chính sách tránh tình trạng cho làm phát cao như: không
chế giá cả tiêu dùng của các mặt hàng thiết yếu, trợ cấp, trợ giá... và một công
cụ không kém phần quan trọng là khống chế mức lương tối thiểu.
Tiền lương tối thiểu là mức lương để trả cho người lao động làm công
việc giản đơn nhất (không qua đào tạo) với điều kiện lao động và môi trường
lao động ở mức bình thường (Nghị đinh 197 CP của nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày 31/12/1994)
Trong điều 56, chương II Bộ luật lao động có ghi “Khi chỉ số giá cả sinh hoạt
tăng lên làm tiền lương thực tế giảm đi, thì chính phủ điều chỉnh mức
lương tối thiểu để đảm bảo tiền lương thực tế của người lao động”
Mức lương tối thiểu được quy định cho các thời kỳ cụ thể sau:
- Ngày 22/5/1993 chính phủ ban hành nghị định số 26 NĐ/CP quy định
mức lương tối thiểu là 120.000đ/tháng/người.
- Ngày 28/3/1997 chính phủ ban hành nghị định số 06 NĐ/CP quy định
mức lương tối thiểu là 144.000đ/tháng/người.(thực hiện từ ngày
1/1/1998)
- Ngày 1/1/2000 mức lương tối thiểu là 180.000đ/tháng/người.
- Ngày 1/1/2001 mức lương tối thiểu là 210.000đ/tháng/người.
- Ngày 1/1/2003 mức lương tối thiểu là 290.000đ/tháng/người.
Từ mức lương tối thiểu đó các doanh nghiệp xây dựng lên mức lương tố
thiểu của doanh nghiệp căn cứ theo nghị định số 10/2000 NĐ/CP và đặc điểm
hoạt động riêng của doanh nghiệp mình song tiền lương tối thiểu doanh
nghiệp không được quá 2.5 lần so với mức tiền lương tối thiểu chung. Và áp

dụng tính mức lương tối thiểu chung băng công thức sau:
TL
min dn
= TL
min
(I + K
dc
) (2)
Trong đó:
TL
min dn
: Tiền lương tối thiểu của doanh nghiệp
TL
min
: Tiền lương tối thiểu do nhà nước quy định


K
dc
: Hệ số điều chỉnh cho doanh nghiệp
K
dc
= K
1
+ K
2
K
1
: Hệ số điều chỉnh vùng (Có ba nhóm: 0.1,0.2 0, 0.3)
K

2
: Hệ số đìều chỉnh ngành (Có ba nhóm: 1.2, 1.0, 0.8)
1.1.1.5 Tiền công
Song song với khái niệm tiền lương là khái niệm tiền công, tiền công chỉ là
một biểu hiện hay là một tên gọi khác của tiền lương. Tuy nhiên, tiền công gắn
trực tiếp hơn với các quan hệ cung cầu về sức lao động và thường được sử
dụng trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các học đồng thuê lao động có thời
hạn. Tiền công còn được hiểu là tiền trả cho một đơn vị thời gian lao động
cung ứng, loà tiền trả theo khối lượng sản phẩm, công việc cho người lao động
đã được thoả thuận trong hợp đồgn lao động và có thể gọi là giá công lao
động. Trong nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển, khái niệm tiền lương
và tiền côgn được xem là đồng nhất cả về bản chất kinh tế, phạm vi và đối
tượng áp dụng. Nhưng đối với những nước đang trong giai đoạn chuyển đổi
kinh tế từ mệnh lệnh sang nền kinh tế thị trường như nước ta thì hai khái niệm
khác nhau. Tiền lương thường được gắn với chế độ tuyển dụng suốt đời hoặc
một thoả thuận hợp đồng sử dụng lao động dài hạn, ổn định. Còn tiền công là
khái niệm được áp dụng trong việc trả công cho những công việc nhất định và
tạm thời đó.
Ngoài các khái niệm về tiền lương, tiền công, còn tồn tại khái niệm về thu
nhập. Thu nhập bao gồm tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp và các khoản tiền
khác mà người lao động nhận được. Nói như vậy, tiền lương là một khoản
trong thu nhập của người lao động nhưng thu nhập không hẳn chỉ có tiền
lương. Vì đối với những người có công việc làm ổn dịnh lâu dài thì thu nhập
của họ chính là tiền lương, còn đối với những người có công việc không ổn
định hoặc thường xuyên thiếu việc làm thì thu nhập của họ kiếm được từ nhiều
nguồn khác nhau để đảm bảo duy trì cuộc sống. Và các nguồn thu nhập này
thường xuyên biến đổi không ổn định.
1.1.2 Chức năng của tiền lương
Tiền lương là phần thu nhập chủ yếu cảu người lao động do vậy khi thực
hiện việc trả lương chúng ta cần thiết phải biết được các chức năng của nó để

từ đó tận dụng tối đa chức năng cũng như không làm cho người lao động phải
chịu thiệt.
1.1.2.1 Là thước đo giá trị lao động
Tiền lương thể hiện giá trị của lao động cụ thể, của việc làm được trả công
cũng như mọi quan hệ mua bán khác. Việc làm như một thứ hàng hoá được
mua bán trên thị trường vì vậy việc làm trước hết phải có ích. Nghĩa là, đem
lại lợi ích cho người mua. Như vậy, giá trị của lao động được phản ánh thông
qua giá trị của việc làm, nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức tiền công
được trả càng cao.
Ba căn cứ xác định thước đo giá trị lao động: Thứ nhất: tính chất kĩ thuật
của việc làm, các đặc thù kĩ thuật và công nghệ của việc làm; Thứ hai là tính
chất kinh tế của việc làm, vị trí kinh tế cảu việc làm trong hệ thông các quan hệ
lao động và lợi ích của việc làm mang lại; Thứ ba là các yếu tố về năng lực và
phẩm chất cá nhân của người lao động (trình độ thành thạo, kĩ năng, kinh
nghiệm công tác)
1.1.2.2 Duy trì và phát triển tái sản xuất sức lao động
Khi quy định cơ cấu suất lương tối thiểu phải thể hiện sự bù đắp duy trì và
tăng số lượng tư liệu sinh hoạt để đảm bảo cho nhu cầu phát triển không phải
chỉ cho bản thân người lao động mà cho cả gia đình họ.
1.1.2.3 Tạo động lực kích thích người lao động
Đây là chức năng rất quan trọng và để thực hiện tốt chức năng này thì tiền
lương phải là phần thu chủ yếu trong tổng số thu nhập của người lao động, có
như thế người lao động mới dành sự quan tâm vào công việc, nghiên cứu tìm
tòi các sáng kiến cải tiến máy móc thiết bị và quy trình công nghệ, nâng cao
trình độ tay nghề làm cho hiệu quả sản xuất của đơn vị ngày càng đạt hiệu quả
kinh tế cao.
1.1.2.4 Tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực
Tiền lương phải là một động lực quan trọng để người lao động không ngừng
phấn đấu nâng cao năng lực lao động của mình tạo động lực thúc đẩy phát
triển nguồn nhân lực xã hội trên giác độ chính sách vĩ mô thì chính sách tiền

lương phải luôn luôn là một bộ phận chính sách quan trọng nhất nhằm thúc
đẩy sự phát triển nguồn nhân lực cho xã hội, phải coi nó là yếu tố quyết định
sự thành công của mọi chiến lược.
1.1.2.4 Chức năng xã hội của tiền lương
Gắn liền tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả của lao động. Thúc
đẩy các mối quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình lao động, tạo
tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển
công bằng và văn minh hơn
1.1.3 Các nguyên tắc của tổ chức tiền lương
Khi tổ chức tiền lương muốn đạt hiệu quả cao cả về mặt kinh tế và xã hội thì
phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản về tổ chức tiền lương: đây là những cơ
sở quan trọng nhất để xây dựng được một cơ chế trả lương, quản lý tiền lương
và chính sách thu nhập thích hợp nhất trong một thể chế kinh tế – xã hội nhất
định.
Đất nước ta từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa công tác tổ chức tiền lương tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau.
1.1.3.1 Tiền lương đảm bảo tái sản xuất mở rộng
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tiền lương là biểu hiện bằng tiền
của giá trị sức lao động. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao
động vì mức tiền lương (độ lớn) không những phải đảm bảo tái sản xuất mở
rộng về số lượng và chất lượng của bản thân các nhân người lao động mà còn
phải đảm bảo nuôi sống các thành viên trong gia đình họ. Để có thể tồn tại và
phát triển đòi hỏi quá trình tái sản xuất kinh doanh phải diễn ra liên tục và
ngày càng mở rộng. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất thì sức lao động
phải được sử dụng và ngày càng sử dụng với quy mô lớn hơn. Thực hiện
nguyên tắc này đòi hỏi việc trả lương, một mặt phải đáp ứng được yêu cầu là
bù đắp lại sức lao động mà người lao động đã hao phí trong quá trình sản
xuất, mặt khác phải tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động cho bản
thân và gia đình người lao động.
Nhà nước luôn đề ra các chính sách tiền lương nhằm điều chỉnh mức lương

giúp cho người lao động tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất mở rộng
bằng cách luôn thay đổi mức lương tối thiểu qua các năm phù hợp với sự thay
đổi của cơ chế thị trường.
1.1.3.2 Tốc độ tăng năng suất lao động phải nhanh hơn tiền lương bình quân
Theo quy luật phát triển của xã hội thì năng suất lao động không ngừng tăng
lên và tiền lương cũng phải tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của người lao động. Song để hài hoà giữa lợi ích của người sử dụng sức lao
động và người lao động thì tốc độ tăng năng suất lao động phải nhanh hơn tốc
độ tăng của tiền lương. Thực tế đã chứng minh rằng việc tăng năng suất của
lao động là do hai nguyên nhân là do đổi mới công nghệ sản xuất, trình độ
quản lý và do trình độ tay nghề của người lao động thành thạo hơn.
Thực hiện nguyên tắc này trong việc trả lương thì mới có thể kích thích
người sử dụng lao động bỏ tiền ra đầu tư máy các thiết bị mới để đưa vào sản
xuất. Nhưng thực hiện nguyên tắc này các nhà quản lý phải xem xét cân nhắc
một cách kỹ lưỡng hơn bởi vì nếu sự chênh lệch quá cao nó sẽ không kích thích
được người lao động nâng cao trình độ chuyên môn, sự thành thạo tay nghề.. .
gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để hiểu rõ hơn về mức độ tăng năng suất lao động và tiền lương bình
quân ta có công thức sau:
Công thức hệ số 1% năng suất tăng thì tiền lương tăng là bao nhiêu:
I
TL
-1
K = (3)
I
w
-1
Trong đó:
K: Hệ số tăng năng suất.
I

TL
: Chỉ số tiền lương bình quân
I
W
: Chỉ số năng suất lao động bình quân
1.1.3.3 Tiền lương được xác định phải dựa trên cơ sở thoả thuận
Điều này có nghĩa tiền lương phải được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động và theo văn bản hợp pháp bắt
nguồn từ pháp lệnh về hợp đồng lao động của nhà nước nhằm đảm bảo quyền
lợi cho người lao động nghĩa là mức tiền lương hay mức tiền công trong một
đơn vị thời gian để hoàn thành công việc là bao nhiêu sẽ dựa trên cơ sở thoả
thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động nhưng mức tiền
lương tối thiểu do nhà nước quy định.
1.1.3.4 Nguyên tắc dựa trên mối tương quan hợp lý về tiền lương của các bộ
phận lao động xã hội.
Thực hiện nguyên tắc này trong trả lương không phải là trong trả lương
bằng nhau trong tất cả các ngành, các khu vực kinh tế mà là trả lương phải
căn cứ vào các cơ sở cần thiết sau đây:
- Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành cơ đặc
điểm về công nghệ, kỹ thuật khác nhau do vậy nó cũng đòi hỏi trình độ tay
nghề, trình độ chuyên môn của người lao động khác nhau.
- Căn cứ vào điều kiện lao động của mỗi ngành, mỗi công việc có điều kiện
lao động khác nhau. Do vậy, cũng đòi hỏi trình độ tay nghề, trình độ chuyên
môn của người lao động khác nhau.
- Căn cứ vào ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân:
mỗi thời kỳ, một số ngành được xem là trọng điểm của nền kinh tế do vậy mà
cần phải ưu tiên phát triển. Để thực hiện được nhà nước cần phải có chính
sách trả lương làm sao vừa khuyến khích được người lao động, vừa thu hút
được người lao động có trình độ chuyên môn.
- Căn cứ vào địa điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì mỗi khu

vực, mỗi vùng khác nhau về địa lý thì đời sống vật chất, tinh thần tập tục cũng
khác nhau.
1.1.4 Các mối quan hệ của tiền lương
Tiền lương là một trong những mối quan tâm đặc biệt của bất kỳ một người lao
động nào. Và qua quá trình nghiên cứu các mối quan hệ của tiền lương dưới đây
chúng ta sẽ hiểu thêm tại sao tiền lương lại quan trọng đến vậy.
• Hệ thống nhu cầu tối thiểu và việc mở rộng nhu cầu.
Hệ thống nhu cầu tối thiểu và việc mở rộng nhu cầu càng lớn thì mức tiền
lương càng lớn, đây là căn cứ rất quan trọng khi xác định mối quan hệ giữa
tiền lương và tái sản xuất sức lao động. Các công việc càng phức tạp thì đòi hỏi
laođộng thành thạo hơn và hệ thống nhu cầu càng phong phú hơn và dĩ nhiên
tiền lương càng được đòi hỏi cao hơn.
• Khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế
Trong cùng một điều kiện như nhau, nhưng khả năng thoả mãn nhu cầu của
người lao động lại phụ thuộc khả năng phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, mức
tiền lương cũng bị giới hạn do sự phát triển của nền kinh tế.
• Cơ cấu và giá cả của hàng hoá và dịch vụ để đảm nhu cầu của
người lao động
Với trình độ phát triển của mức sống khác nhau cơ cấu hàng hoá và dịch vụ
để thảo mãn cho nhu cầu của người lao động cũng khác nhau. Trình độ kinh tế
càng phát triển thì số lượng và chất lượng của nhu cầu nhằm thoả mãn nhu
cầu của người lao động càng cao hơn. Do đó, đòi hỏi các mức tiền lương cũng
phải cao hơn.
1.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương của người lao động
Tiền lương của người lao động chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như
giá cả sức lao động, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, năng suất lao động, hiệu quả
sản xuất kinh doanh của đơn vị, mức vốn đầu tư… dưới đây chỉ là những yếu tố
mang tính chất điển hình nhất.
1.1.5.1 Giá cả sức lao động
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì mục tiêu chung cảu các doanh

nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận do vậy khi tién hành bất kỳ một hoạt động sản
xuất kinh doanh nào đó người chủ phải cân nhắc tính toán xem phải thuê
người lao động với mức tiền lương và thời gian làm việc là bao nhiêu. Thông
thường thì thời gian làm việc thường tỷ lệ thuận với tiền lương của người lao
động nghĩa là thời gian làm việc nhiều thì thu nhập của người lao động cao và
ngược lại.
Cùng với thời gian làm việc thì yếu tố của giá cả sức lao động cũng ảnh
hưởng rất lớn đến tiền lương của người lao động. Giá cả sức lao động phục
thuộc vào các yếu tố như: trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề của mỗi
người. Mỗi người có trình độ khác nhau, do đó tiền lương của mỗi người cũng
được trả khác nhau. Do vậy, khi muốn nâng cao thu nhập của mình người lao
động phải tự bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của mình
làm cho giá trị sản xuất ra trong một đơn vị thời gian lao động được nâng lên
đẩy giá cả sức lao động nâng lên.
1.1.5.2 Năng suất lao động
Năng suất lao động đựơc coi là thước đo chính xác sức lao động đã bỏ ra của
người lao động và trình độ thành thạo chuyên môn tay nghề của họ bởi vì
năng suất lao động phụ thuộc rất lớn vào trình độ, kỹ năng, kỹ sảo của người
lao động nên nó phản ánh giá trị hiện thực của sức lao động trình độ cao, kỹ
năng thành thạo thì năng suất lao động càng cao và giá trị sản lượng sản xuất
ra lớn. Do đó, tiền lương của mỗi người lao động phải tăng theo, nhưng tốc độ
tăng của tiền lương phải luôn đảm bảo tuân theo nguyên tắc đó là tăng chậm
hơn tăng năng suất lao động. Có như vậy thì mới giảm được giá thành sản
phẩm, tăng lợi nhuận cho người thuê lao động, từ đó kích thích người sử dụng
lao động tái sản xuất và tái sản xuất với quy mô ngày càng được mở rộng hơn.
1.1.5.3 Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao, sản phẩm bán chạy, hàng hoá
có sức cạnh tranh cao trên thị trường sẽ thu được lợi nhuận cao thì tương ứng
với nó là mức tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp đó sẽ đảm
bảo được cao hơn ở một doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, sản phẩm sản

xuất ra bị ứ đọng.
Trong điều kiện thực tế, các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay người lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có thu nhập
cao hơn. Có sự khác biệt này vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thường được đầu tư, áp dụng các công nghệ hiện tiên tiến trên thế giới vào sản
xuất, đòi hỏi người lao động làm việc ở đó phải có trình độ chuyên môn trình
độ tay nghề cao, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng cao giá cả hợp lý từ đó
cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ thu được nhiều lợi nhuận do vậy
mà mức tiền lương của người lao động cũng phải được trả cao hơn.
Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là yếu tố có ảnh
hưởng rất lớn đến tiền lương và thu nhập của người lao động. Hiệu quả sản
xuất kinh doanh đạt được cũng cần nhờ đến tiền lương của mỗi người lao
động sẽ được trả một cách xứng đáng hơn với sức lao động mà họ bỏ ra.
1.1.5.4 Các quy định của nhà nước
Các quy định của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đối với tiền lương của
người lao đọng đặc biệt là người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
nhà nước. Trong các quy định của nhà nước như thang lương, bảng lương,
mức lương … thì mức tiền lương tối thiểu là do nhà nước quy định, mức tiền
lương tối thiểu là số tiền chi trả đủ cho người lao động ở mức tối thiểu nhất.
Mỗi thời kỳ khác nhau thì quan niệm về nhu cầu tối thiểu cũng cũng có sự khác
biệt, do vậy mà nhà nước luôn luôn phải điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu để
đảm bảo đời sống của người lao động đỡ vất vả phần nào. Các mức tiền lương
tối thiểu như đã trình bày ở trên đã thể hiện rất rõ điều này.
1.1.5.5 Các nhân tố khác
Ngoài 4 yếu tố trên, tiền lương của người lao động còn chịu sự ảnh hưởng
của nhiều nhân tố khác của nền kinh tế mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng
đều bị ảnh hưởng ít nhiều. Dưới đây là các nhân tố ảnh hưởng không trực tiếp.
• Quan hệ cung – cầu sức lao động trên thị trường
Đây là yếu tố gián tiếp, song nó có tác động cơ bản đến tiền lương của người
lao động. Khi nền kinh tế có biểu hiện suy thoái hoặc cung lao động lớn hơn

cầu vì nhiều lý do thì số lượng công việc giảm mà số người đi tìm việc tăng lên.
Khi đó thì tiền lương của người lao động có xu hướng giảm xuống. Ngược lại,
khi mà nền kinh tế phát triển tất cả các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả họ sẽ
tái sản xuất với quy mô lớn hơn tạo ra nhiều chỗ làm việc mới gây ra một nhu
cầu về lao động mới tănglên mà cung lao động không tăng hoặc tăng chậm,
điều này sẽ làm cho tiền lương của người lao động sẽ có xu hướng tăng lên để
thu hút lao động theo thời gian.

×