Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

ĐƠN GIÁ TIỀN LƯƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐƠN GIÁ TIỀN LƯƠNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG QUỸ TIỀN LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.56 KB, 25 trang )

ĐƠN GIÁ TIỀN LƯƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐƠN GIÁ TIỀN LƯƠNG TRONG
VIỆC XÂY DỰNG QUỸ TIỀN LƯƠNG.
I/ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ ĐƠN GIÁ TIỀN LƯƠNG.
1/ Bản chất tiền lương.
Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải có nhận
thức mới về lý luận trong quá trình nghiên cứu chính sách, chế độ tiền lương ở
Việt Nam.
Theo cơ chế mới, người lao động được tự do làm việc theo hợp đồng lao
động, tự do chuyển dịch lao động giữa các thành phần kinh tế, giữa các cơ sở
sản xuất, nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của thị trường
sức lao động, nên tiền lương không chỉ thuộc phạm trù phân phối, mà còn là
phạm trù trao đổi, phạm trù giá trị. Mặt khác, do có sự hoạt động của thị
trường nói chung và thị trường sức lao động nói riêng (hay còn gọi là thị
trường lao động), nên sức lao động là một loại hàng hoá, tiền lương là giá cả
của sức lao động.
Khi phân tích về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa C. Mác viết: “ Tiền công
không phải là giá trị hay giá cả của lao động mà chỉ là một hình thái cải trang
của giá trị hay giá cả sức lao động ”.
Với quan điểm như trên, tiền lương phản ánh nhiều quan hệ kinh tế, xã
hội khác nhau. Tiền lương, trước hết là số tiền mà người sử dụng lao động
(người mua sức lao động) trả cho người lao động (người bán sức lao động).
Đó là quan hệ kinh tế của tiền lương. Mặt khác, do tính chất đặc biệt của loại
hàng hoá sức lao động mà tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế
mà còn là một vấn đề xã hội rất quan trọng, liên quan đến đời sống và trật tự
xã hội. Đó là quan hệ xã hội,...
Trong điều kiện của một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở
nước ta hiện nay, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành
phần và khu vực kinh tế như sau:
Trong quá trình hoạt động, nhất là trong hoạt động sản xuất, kinh


doanh đối với các chủ doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành
chi phí sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, tiền lương hiện nay được tính toán và
quản lý chặt chẽ. Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình
lao động của họ. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích hết thảy của mọi
người lao động. Mục đích này tạo động lực để người lao động phát triển trình
độ và khả năng lao động của mình.
Trong thành phần kinh tế Nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp
(khu vực được Nhà nước trả lương), tiền lương là số tiền mà các doanh
nghiệp Nhà nước, các cơ quan tổ chức của Nhà nước trả cho người lao động
theo cơ chế và chính sách của Nhà nước và được thể hiện trong hệ thống
thang lương, bảng lương do Nhà nước qui định.
Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chụi sự tác động,
chi phối rất lớn của thị trường và thị trường lao động. Tiền lương trong khu
vực này dù vẫn nằm trong khuôn khổ luật pháp và theo những chính sách của
Chính phủ, nhưng là những giao dịch trực tiếp giữa chủ và thợ, những “mặc
cả” cụ thể giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê những hợp đồng lao
động này có tác động trực tiếp đến phương thức trả công.
Đứng trên phạm vi toàn xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong
quan hệ về phân phối thu nhập, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, quan hệ về
trao đổi và do vậy các chính sách về tiền lương, thu nhập luôn luôn là các
chính sách trọng tâm của đất nước. Chính sách này có liên quan chặt chẽ với
động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả
quản lý Nhà nước, khai thác khả năng tiềm tàng của mỗi người lao động.
Từ những nhận định trên ta thấy chính sách tiền lương là bộ phận
quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề
tiền lương đã được qui định cụ thể tại điều 55 Bộ luật lao động năm 1992 của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: “ Tiền lương của người
lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động được trả theo năng
suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không
được thấp hơn mức tiền lương tối thiểu do Nhà nước qui định”.

2/ Quan điểm của Đảng ta về tiền lương.
Để phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới nên bản chất tiền lương ở
nước ta đã thay đổi, có nhận thức mới so với cơ chế tập trung, bao cấp.
Trước năm 1986, quan niệm cũ hiểu một cách đơn giản và máy móc
rằng cứ có chế độ sở hữu toàn dân và chế độ làm chủ tập thể về tư liệu sản
xuất là tự nhiên người lao động trở thành những người làm chủ tư liệu sản
xuất, những người cùng sở hữu tư liệu sản xuất. Đi liền với nó là quan niệm
cho rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không thể là nền kinh tế thị trường, mà
là nền kinh tế hoạt động trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung. Do đó về bản chất,
tiền lương không phải là giá cả của sức lao động, mà là một phần thu nhập
quốc dân được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho người lao động
theo số lượng và chất lượng lao động. Như vậy, tiền lương chụi sự tác động
của qui luật phát triển cân đối, có kế hoạch và chụi sự chi phối trực tiếp của
Nhà nước, chính vì vậy tiền lương của người lao động không phụ thuộc vào
năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, cũng không theo giá trị sức lao
động, mà được qui định “cứng” thống nhất chung cho tất cả. Tình trạng tiền
lương không đủ bảo đảm để tái sản xuất, thậm chí tái sản xuất giản đơn sức
lao động đã làm cho đời sống của đại bộ phận người lao động không được
bảo đảm. Vì vậy, trong một khoảng thời gian dài do có sự nhận thức sai về
bản chất của tiền lương, đã làm cho cơ chế chính sách tiền lương triệt tiêu
tính chủ động, sáng tạo của người lao động, từ đó đã thủ tiêu động lực của
người lao động, không khuyến khích họ nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ
lành nghề của mình.
Kể từ năm 1986, với sự ra đời của Nghị quyết Đại hội VI Đảng cộng sản
Việt Nam và một loạt các qui định khác của Nhà nước về đổi mới kinh tế, đã
khẳng định nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Cùng với sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường,
chúng ta cũng đồng thời công nhận sự hoạt động của thị trường sức lao động,
các yếu tố này đã cho chúng ta một khái niệm mới về tiền lương như sau: tiền

lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động
để hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ qui định. Với khái niệm
này, bản chất của tiền lương được xác định là giá cả của sức lao động hình
thành trên cơ sở giá trị sức lao động, thông qua sự thoả thuận giữa người có
sức lao động và người sử dụng sức lao động, như vậy tiền lương chịu sự chi
phối của qui luật giá trị. Ngoài ra tiền lương còn chịu sự chi phối của các qui
luật kinh tế, trong đó có qui luật cung- cầu. Nếu cung lớn hơn cầu về lao động
thì tiền lương sẽ giảm xuống, ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu về lao động thì
tiền lương sẽ tăng lên.
Ngoài bản chất kinh tế nêu trên, tiền lương còn mang bản chất xã hội vì
nó gắn liền với người lao động và cuộc sống của họ. Sức lao động của con
người không giống như các loại hàng hoá khác, mà là tổng thể của các mối
quan hệ xã hội. Do sức lao động không thể tách biệt khỏi người lao động
trong quá trình khai thác và sử dụng sức lao động, người lao động quyết định
đến số lượng và chất lượng sức lao động cho nên mối quan hệ là mối quan hệ
lâu dài. Việc duy trì và phát triển các mối quan hệ lao động là điều rất cần
thiết nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả của quá trình lao động. Người sử
dụng lao động phải xây dựng cơ chế đãi ngộ lao động phù hợp, trong đó có
tiền lương, tiền thưởng là một trong những công cụ quan trọng góp phần duy
trì, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trong quá trình lao động.
Do đó chúng ta có thể kết luận bản chất xã hội của tiền lương được thể
hiện thông qua mối quan hệ lao động giữa người sử dụng sức lao động và
người bán sức lao động. Quan hệ lao động là những quan hệ xã hội giữa
người với người trong quá trình lao động. Vì vậy, các quyết định về tiền lương
vừa ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa ảnh
hưởng đến việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
Tóm lại, ngày nay bản chất của tiền lương không chỉ bó hẹp trong
phạm trù kinh tế đơn thuần được hiểu như là một khoản thù lao bù đắp
những chi phí thực hiện trong quá trình lao động. Tiền lương là một phạm
trù kinh tế xã hội tổng hợp, có tác động rất quan trọng đến sản xuất, đời sống

và mọi mặt của nền kinh tế- xã hội.
3/ Các chức năng cơ bản của tiền lương.
3.1. Chức năng thước đo giá trị.
Trước đây và hiện nay chức năng thước đo giá trị vẫn là chức năng cơ
bản và quan trọng nhất của tiền lương. Chức năng thước đo giá trị của tiền
lương là chức năng cơ sở để điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá cả
(bao gồm cả giá cả sức lao động) biến động, là thước đo để xác định mức tiền
công của các loại lao động, làm căn cứ để thuê mướn lao động, là cơ sở để xác
định đơn giá sản phẩm.
Như trên đã nêu, tiền lương thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,
được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Vì vậy tiền lương trở
thành thước đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao động cụ
thể của việc làm có trả công. Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản
ánh thông qua tiền công, nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức trả công
càng lớn và ngược lại. Giá trị của việc làm được biểu hiện bởi ba yếu tố sau:
- Tính chất kỹ thuật của việc làm: các đặc thù về kỹ thuật và công nghệ
sử dụng của việc làm.
- Tính chất kinh tế của việc làm: vị trí của việc làm trong hệ thống quan
hệ lao động (làm quản lý, công nhân, nhân viên ).
- Các yêu cầu về năng lực và phẩm chất của người lao động: trình độ
tay nghề, kinh nghiệm, khả năng thành thạo nghề.
Quan điểm trên không trái với quan điểm của C.Mác: “ Tiền lương là
biểu hiện của giá trị sức lao động, giá trị sức lao động được đo bằng giá trị tư
liệu sinh hoạt cần thiết bù đắp lại sức lao động đã hao phí trong quá trình sản
xuất, những giá trị của những chi phí nuôi dưỡng con người trước và sau tuổi
có khả năng lao động, những giá trị của những chi phí cần thiết cho việc học
hành. Những chi phí này không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên và sinh lý
của con người, mà còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội và giá
cả các tư liệu sinh hoạt. Như vậy tiền lương thường xuyên biến động xoay
quanh giá trị, nó phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu và giá cả tư liệu sinh hoạt”.

3.2. Chức năng tái sản xuất sức lao động.
Tái sản xuất sức lao động được thể hiện ở ba mặt sau:
Một là: duy trì và phát triển sức lao động của chính bản thân người lao
động.
Hai là: sản xuất ra sức lao động mới tức là nuôi dưỡng các thế hệ kế tiếp.
Ba là: tăng cường chất lượng của sức lao động là hoàn thiện kỹ năng lao
động và nâng cao trình độ lành nghề, kỹ thuật chuyên môn, và tích luỹ kinh
nghiệm.
Cũng như các loại hàng hoá thông thường khác, sức lao động có giá trị
và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng sức lao động được đo bằng thời gian lao động cần thiết
để sản xuất ra sức lao động đã đưa vào sử dụng. Để tái sản xuất sức lao động,
trước hết con người phải tiêu dùng một lượng của cải vật chất nhất định để
sản sinh và nuôi dưỡng con người từ khi còn trong bụng mẹ để sau này hình
thành nên một sức lao động tiềm tàng. C.Mác gọi đây là chi phí để sản xuất sức
lao động mới: “Những người sở hữu sức lao động đều có thể chết đi. Muốn
luôn luôn có người lao động trên thị trường như sự chuyển hoá không ngừng
của tư bản đòi hỏi thì phải làm cho họ sống vĩnh viễn như cá nhân sống bằng
cách sinh con đẻ cái”.
Sức lao động là tổng thể năng lực hoạt động của con người bao gồm cả
thể lực và trí lực C.Mác viết: “ Những lao động có ích hay những lao động sản
xuất, dù có muôn hình muôn vẻ đến đâu đi nữa thì sự thật về mặt sinh lý vẫn
là: chức năng cơ thể của con người và bất cứ chức năng nào giống như vậy, dù
có nội dung và hình thức thế nào đi nữa thì chủ yếu vẫn là một sự tiêu phí của
bộ óc, của thần kinh, của bắp thịt,... vì thế để bảo tồn và khôi phục lại sức lao
động đã hao phí đó, con người phải ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý, phải tiêu dùng
lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết ”. Nhưng đó mới chỉ đơn thuần là
sự bù đắp về mặt thể chất, tái sản xuất sức lao động còn nhằm tăng cường
chất lượng của sức lao động tức là giúp người lao động hoàn thiện kỹ năng
lao động và nâng cao trình độ lành nghề, kỹ thuật chuyên môn, và tích luỹ kinh

nghiệm. C.Mác viết: “ Để cho sức lao động phát triển theo hướng nhất định
phải có sự giáo dục nào đó, mà chính sự giáo dục này lại tốn một lượng hàng
hoá ngang giá ”. Đây chính là nhu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho
người lao động.
Tóm lại, giá trị sức lao động được đo bằng giá trị tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết bù đắp lại sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất.
Tiền lương chính là một hình thái biểu hiện của giá trị sức lao động, là sản
phẩm tất yếu thông qua trao đổi trên thị trường hàng hoá sức lao động tạo
điều kiện làm chức năng khôi phục (tức tái sản xuất) sức lao động đã hao phí.
3.3. Chức năng kích thích lao động.
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả
mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và văn hoá của người lao động. Do vậy,
các mức tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng sự
quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Chức năng này đảm
bảo khi người lao động làm việc có năng suất cao, đem lại hiệu quả rõ rệt thì
người sử dụng lao động cần quan tâm đến việc tăng lương cao hơn so với giá
trị sức lao động để kích thích người lao động. Ngoài việc tăng lương người sử
dụng lao động cần áp dụng biện pháp thưởng. Số tiền này bổ sung cho tiền
lương, mang tính chất nhất thời, không ổn định nhưng lại có tác động mạnh
mẽ tới năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động.
Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc năng suất và hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và của cá nhân người lao động nói
riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng suất và chất
lượng công việc.
3.4. Chức năng tích luỹ.
Tiền lương trả cho người lao động phải bảo đảm duy trì được cuộc sống
hàng ngày trong thời gian làm việc, và còn dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi
họ hết khả năng lao động hoặc gặp rủi ro.
3.5. Chức năng xã hội của tiền lương.
Cùng với việc kích thích không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền

lương là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
Thực tế cho thấy, việc duy trì các mức tiền lương cao và tăng không
ngừng chỉ được thực hiện trên cơ sở hài hoà các mối quan hệ lao động. Việc
gắn tiền lương với hiệu quả của người lao động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy
các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của
doanh nghiệp nhằm đạt được mức tiền lương cao hơn. Bên cạnh đó, tạo tiền
đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển
theo hướng dân chủ và văn minh.
Như vậy chúng ta có thể kết luận: ngày nay tiền lương là một phạm trù
kinh tế- xã hội tổng hợp, là đòn bẩy kinh tế rất quan trọng trong sản xuất, đời
sống và các mặt khác của nền kinh tế- xã hội. Tiền lương được trả đúng có tác
dụng đảm bảo tái sản xuất sức lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động; tạo điều kiện hoàn thiện các mối quan
hệ lao động; thúc đẩy người lao động và xã hội cùng phát triển.
4/ Các mối quan hệ của tiền lương.
4.1. Tiền lương và giá cả.
Mối quan hệ giữa tiền lương và giá cả được biểu hiện qua phạm trù tiền
lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng
suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ
lành nghề, kinh nghiệm làm việc ngay trong quá trình lao động.
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và
các loại dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương danh
nghĩa, tiền lương thực tế và giá cả được thể hiện qua công thức sau đây:
I
TLTT
= I
TLDN
/ CPI

Trong đó:
I
TLTT
: là chỉ số tiền lương thực tế.
I
TLDN
: là chỉ số tiền lương danh nghĩa.
CPI: là chỉ số giá cả sinh hoạt.
Công thức trên cho ta thấy, chỉ số tiền lương thực tế tỷ lệ thuận với chỉ
số tiền lương danh nghĩa và tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả sinh hoạt.
Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có ý
nghĩa vô cùng quan trọng khi giá cả sinh hoạt có biến động, cơ cấu tiêu dùng
thay đổi. Trong thực tế, người sử dụng và người cung ứng sức lao động cũng
đã so sánh mức lương danh nghĩa với giá cả hiện hành để thống nhất một
mức lương thực tế thích hợp, song không phải không xảy ra sự thiếu ăn khớp
hoặc thậm chí sự giãn cách khá lớn giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương
thực tế, mà hậu quả là giảm mức thoả mãn của người lao động.
Sự giảm sút tiền lương thực tế khi giá cả hàng hoá tăng, đồng tiền mất
giá trong khi những thoả thuận về mức lương danh nghĩa lại không điều chỉnh
kịp thời. Sự trì trệ này của tiền lương là hiện tượng phổ biến trong nền kinh
tế. Trong nhiều trường hợp, Chính phủ phải trực tiếp can thiệp bằng các chính
sách cụ thể để bảo hộ mức lương thực tế cho người lao động bằng các biện
pháp như: yêu cầu các doanh nghiệp có biện pháp trợ cấp lương cho công
nhân khi giá tiêu dùng tăng, qui định lại mức lương tối thiểu để làm căn cứ
gốc cho chính sách trả lương.
Theo quan điểm tái sản xuất sức lao động, cần phải bảo đảm tiền lương
thực tế cho người lao động. Vì vậy, tiền lương thực tế là mục đích trực tiếp
của người lao động hưởng lương. Đó cũng là đối tượng quản lý trực tiếp
trong các chính sách về thu nhập, tiền lương và đời sống.
4.2. Tiền lương và lạm phát.

Ở mục trước, mối quan hệ tiền lương và lạm phát được đề cập đến
trong quan hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa, qua giá cả và
sự biến động của giá cả các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết. Sự gia tăng
về giá cả dẫn đến lạm phát.
Lạm phát là tình trạng mất cân bằng về lượng tiền và khối lượng hàng
hoá trong lưu thông.
Về cơ bản lạm phát làm cho tình trạng giá cả của hàng hoá tăng lên dẫn
đến tiền lương thực tế giảm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát được
đưa ra theo những quan điểm khác nhau. Chẳng hạn việc gia tăng chi tiêu của
Chính phủ (đầu tư, mở rộng khu vực kinh tế nhà nước …) làm tăng nhu cầu
hàng hoá trên thị trường, do đó đẩy giá lên. Một nguyên nhân khác cũng có
thể được kể đến là do tăng lương tạo ra. Vì tiền lương làm tăng tổng cầu
trong xã hội, do đó dễ kéo giá lên. Mặt khác, tiền lương cũng có thể làm tăng
chi phí sản xuất sản phẩm của các doanh nghiệp, làm cho giá thành tăng, đẩy
chi phí tăng lên và dẫn đến lạm phát.
Tiền lương tăng lên cũng có nhiều nguyên nhân. Việc tăng lương do
nâng cao trình độ và khả năng làm việc, tăng năng suất lao động (thường
không gây ra lạm phát từ nguyên nhân này). Nhưng nếu xét trên khía cạnh
khác, lạm phát xảy ra làm cho tiền lương thực tế giảm, điều này sẽ dẫn đến
đòi hỏi làm tăng tiền lương trong xã hội. Tiền lương tăng do lạm phát xảy ra
không gắn với tăng năng suất lao động, nhưng lại làm tăng chi phí sản xuất
kinh doanh. Đây là trường hợp lạm phát kéo theo tăng lương.
Như vậy, tiền lương- lạm phát luôn là một trong những quan tâm hàng
đầu trong xã hội, trong các chính sách về thu nhập. Để tránh lạm phát và giảm
sút tiền lương thực tế, cần phải bảo đảm việc tăng tiền lương phải gắn với
việc tăng năng suất lao động. Ngược lại, trong trường hợp nền kinh tế bị thiểu
phát (giá cả và các chi phí nói chung hạ xuống) thì có thể dùng biện pháp tăng
tiền lương không gắn với việc tăng năng suất lao động để kích cầu, nâng tỷ lệ
lạm phát lên trong phạm vi có thể kiểm soát được. Có ba loại chính sách về thu
nhập có thể được áp dụng đó là:

- Các chính sách hướng dẫn giá cả- tiền lương.
- Các chính sách kiểm soát giá cả và tiền lương bắt buộc.
- Các chính sách khuyến khích bắt buộc.
4.3. Tiền lương, năng suất và hiệu quả lao động.
Năng suất lao động là một phạm trù kinh tế mà C. Mác gọi là sức sản
xuất của lao động cụ thể có ích. Nó là kết quả hoạt động sản xuất có mục đích
của con người trong một đơn vị thời gian nhất định.
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian; hoặc bằng lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm.

×