Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG TUYẾN ĐIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 41 trang )

TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG TUYẾN ĐIỂM
2.1 Giới thiệu chung về vùng du lịch Bắc Trung Bộ
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ nằm ở vị trí trung gian của đất nước, bao
gồm 6 tỉnh thành: Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng -
Quảng Nam - Quảng Ngãi với diện tích 34,743km
2
dân số 5.659.000 người
(1999) Phía Bắc giáp với tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp với tỉnh Bình Định và Gia
Lai, phía tây giáp với Lào, phía đông giáp với biển Đông .
Huế Và đà Nẵng là trung tâm của vùng và địa bàn động lực quan trọng
phát triển du lịch Quảng Trị- Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam.
2.1.1 Đắc điểm tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên
Hình thành và phát triển trên địa bàn phức tạp đã tạo cho thiên nhiên
vùng này một sắc thái độc đáo, đa dạng, khoảng 4/5 diện tích của vùng hẹp, độ
dốc lớn. Phía Tây là dãy Trường Sơn kéo dài suốt từ bắc xuống nam của vùng
với độ cao trung bình 600 - 800m. Dãy núi này chạy song song ra biển và có
nhiều dãy vươn sát ra biển như Hoành Sơn, Bạch Mã tạo nen cảnh đẹp cho đèo
Ngang và đèo Hải Vân. Vùng có chiều ngang hẹp nhất nước, có nơi chỉ có 60
km, phía Tây là dãy Trường sơn nên đồng bằng nhỏ hẹp nằm sát ven biển phía
đông, có nhiều cồn cát và đụn cát lấn sâu vào đất liền, biển nhiều đầm phá. Địa
hình đa dạng nên đã tạo ra những thắng cảnh những khu du lịch có giá trị như
Bạch Mã, Bà Nà, núi Chúa, Sơn Trà, Non nước, cùng nhiều biển như Nhật Lệ,
Thuận An, Cảnh Dương, Nam cô, Nam ô, Non Nước. đắc biệt là hệ thống núi đá
vôi và hệ thống hang động ở Phong Nha - Kẻ Bàng một di sản thế giới.
Khí hậu của vùng này rất phức tạp và khắc nghiệt nhất nước ta. Dãy
Hoàng Liên Sơn, Bạch Mã đã trở thanhf bức tường ranh giới khí hậu thực sự
giữa Nghệ Tĩnh và Quảng Bình, Giữa Huế và Đà Nẵng. Từ Huế trở ra có mùa
đông lạnh, Đà Nẵng thì nắng chói trang ánh nắng và hầu như không có mùa
đông lạnh. Khác với hai miền bắc nam mùa mưa của vùng lại vào thời kỳ mùa
đông. Mùa Hạ có gió Lào khô, nóng. Vùng chịu nhiều ảnh hưởng thiên tai lũ
lụt, bão.


Do ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, địa hình nên đã tạo cho sông ngòi
của vùng này ngắn và dốc tạo nên cảnh đẹp của sông Hương, sông Thu Bồn.
Một lớp phủ thực vật phong phú và nhiều loaị gỗ quý như gụ, táu .Dưới độ cao
800m là loại rừng kín thường xanh mùa nhiệt đới. Thảm cỏ dại dưới rừng luôn
ẩm ướt và đầy gai. dưới tán rừng là cả một thế giới động vật còn được bảo tồn
với nhiều loại quý hiếm. Vùng có hai khu rừng quốc Gia có giá trị cabhr quan
và bảo tồn đó là vườn quốc gia Phong Mha - Kẻ Bàng và vườn quốc gia Bạch
Mã.
Nét đặc sắc, đa dạng của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đã
tạo cho vùng du lịch Bắc Trung Bộ một tiềm năng du lịch phong phú có giá trị
thu hút khách cao và phát triển đủ các loại hình du lịch từ tham quan, nghỉ
dưỡng, tắm biển, thể thao đến các nghiên cứu khoa học
2.1.2 Đặc điểm lịch sử - văn hoá và tài nguyên du lịch nhân văn
Nằm trên một mảnh đất nhiều biến động trong suốt chiều dài lịch sử, có
lẽ không có vùng đất nào trên đất nước ta có nhiều nét tương phản như vùng
này cả về tự nhiên lẫn kinh tế -xã hội, lịch sử.
Trước kia nơi đây đã tồn tại một nền văn hoá rực rỡ để lại cho ngày nay
những di sản văn hoá đặc sắc: nền văn hoá Chàm với thánh địa Mỹ Sơn, Kinh
đo Trà Kiệu, di tích hoá Sa Huỳnh, Gần đây là nền văn hoá triều Nguyễn ở Huế.
Ngay từ thế kỷ XVIII, hội An đã là một thương cảng sầm uất trong mối quan hệ
thông thương quốc tế.
Sông Gianh là chiến truyến trong suốt thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh
non một thế kỷ, mặc dù là giới tuyến quân sự tạm thời nhưng sông Bến Hải
cũng mất 20 năm là ranh giới phân chia hai miền nam bắc trong cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc. Tiến súng đầu tiên nổ ra ở cửa Hàn( Quảng Nam- Đà
Nẵng) mở màn cho thời kỳ thực dân Pháp xâm lược và đô hộ nước ta. Cuộc đấu
tranh giữa quân giải phóng miền nam Việt Nam và bọn xâm lược Mỹ diễn ra ở
núi Thành đã khẳng dịnh một chân lý, chúng ta có thể đánh được và thắng được
Mỹ. Trong cuộc chiến tranh chống mỹ cứu nước đây là vùng tuyến đầu phải
chịu đựng nhiều mất mát và tàn phá nặng nề với các di tích hùng tráng và đau

thương như: đường mòn Hồ Chí Minh, đường 9 - Khe Sanh, Thành Quảng Trị,
nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang liệt sỹ đườn 9, sông bến Hải cầu Hiền
Lương...
Ngoài các di tích lịch sử văn hoá - nghệ thuật, tài nguyên kinh tế xã hội
khác cũng có giá trị, đó là phong tục tập quán sinh hoạt của dân cư địa phương
như thêu ren, dệt thảm len, tơ tằm, nghệ thuật chạm khắc ở Ngũ Hành , nghề thủ
công ở Hội An.
Giá trị đặc sắc nhất của vùng là ít coa nơi nào trên một diện tích nhỏ hẹp
lại có tới 4 di sản văn hoá thế giới đó là cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa
Mỹ Sơn và Nhã nhạc cung đình Huế.
2.1.3 Cơ sở Hạ tầng
Nằm trên tuyến đường sắt đường bộ huyết mạch bắc nam vùng du lịch
bắc trung bộ có đủ điều kện phát triển mạnh mạng lưới giao thông từ đường bộ,
đường sắt đường hàng không. Cảng quốc tế Đà Nẵng thông thương với nhiều
cảng thuộc châu Ắ Thái Bình Dương và các khác dọc theo biển trong nước. Các
hàng hoá vận chuyển cho nước bạn Lào đều qua cảng này, sân bay Đà Nẵng đã
trở thành sân bay quốc tế là cửa ngõ thứ 3 của cả nước được trực tiếp đưa đón
khách quốc tế. Hệ thống giao thông đường bộ và đường sắt phát triển song song
với quốc lộ 1A và đi qua phần lớn các điểm du lịch chủ yếu trong vùng, tạo điều
kịên thuận lợi cho việc phát triển du lịch kể cả đường sắt và đường bộ. Tuyến
đường Hồ Chí Minh đang được xây dựng sẽ góp phần quan trọng trong việc
phát triển giao thông kinh tế du lịch của vùng.
Hệ thống cung cấp điện nước cho toàn bộ vùng gặp khó khăn toàn vùng
không có nhà máy điện cỡ trung bình nào hịên nay mạng lưới địên quốc gia với
đường day 500kv nhà máy điện Yaly xây đã đáp ứng cơ bản nhu cầu cho vùng
2.1.4 Cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch
So với hai vùng du lịch kể trên, vùng du lịch Bắc Trung Bộ có hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phát triển muộn và thấp hơn cả. Trước hết là việc
nâng cấp, cải tạo khách sạn như khách sạn Hương Giang, khách sạn Phương
Đông, khách sạn Thái Bình Dương trước kia là cư xá của lính Mỹ, khách sạn

Trường Sơn Đông được cải tạo từ một trung học của Lào. Gần đây nhiều khách
sạn hiện đại, nhà hàng, khu giải trí đã được xây dựng đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của khách du lịch, tập chung chủ yếu ở các đô thị Huế, Đà Nẵng,
Hội An
2.1.5 Trung tâm và một số điểm du lịch quan trọng
2.1.5.1 Tiểu vùng du lịch phía Bắc
Di sản thiên nhiên thế giới vùng quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng , Tặng phẩm của 400 triệu năm
tiến hóa địa sinh học
Con số này, do các nhà địa lý học, địa chất học có thẩm quyền đưa ra làm
cho chúng ta phải phóng một cái nhìn chiêm ngưỡng về Vườn Quốc Gia Phong
Nha - Kẻ Bàng (VQG PN-KB).
Nó đáng cho ta ngưỡng mộ bởi vì di sản thiên nhiên thế giới thứ hai này của
Việt Nam - bên cạnh Vinh Hạ Long - là ngôi VQG già tuổi, đẹp đẽ và kì vĩ nhất
trong hệ thống VQG của ta: Ba Bể, Bạch Mã, Bến Én, Bình Châu, Cát Bà, Cát
Tiên, Cúc Phương, Tam Đảo, Ba Vì, Côn Đảo, Tràm Chim ...
Nằm ở phía bắc dãy Trường Sơn thuộc phần đất hai huyện Bố Trạch và
Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía
Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này
giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây,
cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.
Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000
ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này
cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn
quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này
được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng
300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ
Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang
động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt
Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80

km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm
20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.
Động Phong Nha là động giữ nhiều kỷ lục: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa
hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ngầm đẹp nhất;
(5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam;
(7) Hang khô rộng và đẹp nhất thế giới.
Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400
triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á.
Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết sức
phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử
Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu
vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có lẽ là một trong những mẫu hình riêng biệt
và đẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm
2003, Phong Nha-Kẻ Bàng đang hướng tới mục tiêu được UNESCO công nhận
lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học vào năm 2008.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tổng diện tích là 85.754 ha, bao gồm:
• Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 64.894 ha
• Phân khu phục hồi sinh thái: 17.449 ha
• Phân khu dịch vụ hành chính: 3.411 ha.
Trong khu vực vùng đệm của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có dân của
12 xã với tổng diện tích thuộc vùng đệm là 1479,45 km² thuộc huyện Minh Hóa
(Dân Hóa, Hóa Sơn, Trung Hoa, Thượng Hóa); Bố Trạch (Tân Trạch, Thượng
Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch) và huyện Quảng Ninh
(Trường Sơn). Các khu vực dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn như sông
Chày, sông Son và các các thung lũng có suối phía đông và đông bắc của vườn
quốc gia này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng xa của Quảng
Bình, có điều kiện hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, ý tế kém
phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm sản.
Khí hậu

Cũng giống như vùng Bắc Trung Bộ nói chung, và tỉnh Quảng Bình nói
riêng, khí hậu ở vườn quốc gia này mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23-25°C, với nhiệt độ cao nhât là
41°C vào mùa hè và mức thấp nhất có thể xuống 6°C vào mùa đông. Thời kỳ
nóng nhất là vào tháng 6-8 với nhiệt độ trung bình 28°C, còn từ tháng 12 đến
tháng 2 có nhiệt độ trung bình 18°C. Lượng mưa trung bình hàng năm đo được
là 2.000–2.500 mm, với 88% lượng mưa trong khoảng thời gian từ tháng 7-12.
Mỗi năm có hơn 160 ngày mưa. Độ ẩm tương đối là 84%.n Lũ ở trong các khu
vực thung lũng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11 nhưng trong mùa khô từ tháng 2
đến tháng 8 thì hầu như các con suối đều khô cạn.
Hệ thống hang động
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong hai khu vực đá vôi lớn
nhất thế giới. So với 41 di sản thế giới khác có carxtơ, Phong Nha-Kẻ Bàng có
các điều kiện địa hình, địa mạo và sinh vật khác biệt. Carxtơ tại đây có niên đại
từ thời kỳ Đại Cổ Sinh, 400 triệu năm trước, do đó Phong Nha-Kẻ Bàng là vùng
carxtơ lớn cổ nhất châu Á. Nếu như khu vực Hin Namno, một khu vực bảo tồn
tự nhiên của tỉnh Khăm Muộn, Lào, giáp Phong Nha-Kẻ Bàng về phía tây được
kết hợp thành một khu bảo tồn liên tục, thì khu vực bảo tồn này sẽ là khu rừng
carxtơ còn tồn tại lớn nhất ở Đông Nam Á với diện tích 317.754 ha.
Tại Phong Nha-Kẻ Bàng có một hệ thống gồm khoảng 300 hang động lớn nhỏ.
hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh
(BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: có
các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, những bờ cát rộng và
đẹp nhất, những thạch nhũ đẹp nhất.Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi
già hơn, cấu tạo địa chất phức tạp hơn và có hệ thống sông ngầm đa dạng và
phức tạp hơn.
Động Tiên Sơn
Động Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực Phong
Nha-Kẻ Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng
1.000 m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn có

chiều dài là 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng 10
m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm nên du
khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng cách 400
m từ tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban đầu, cư dân địa
phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên của nó. Sau này
động Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt với động Phong Nha là động
nước. Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như
trong động Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm thanh phát ra từ các
phiến đá và cột đá khi được gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng
trống. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên
Sơn được hình thành cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy
qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa
chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá
đổ sụp ngăn chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn phần có
sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động Phong Nha và động
Tiên Sơn nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông nhau. Cư
dân địa phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ di chỉ của người
xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa động
]
.
Động Thiên Đường
Động Thiên Đường được đánh giá là động lớn và dài hơn động Phong
Nha. Đây là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong
Nha. Theo kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa học, so với động Phong Nha
thì động Thiên Đường có chiều dài và quy mô lớn hơn nhiều. Trong động Thiên
Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động là đất
dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện cho việc tham quan và thám hiểm. Trong
khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37°C thì nhiệt độ trong động Thiên
Đường luôn ở 20-21°C.
Di sản thiên nhiên thế giới

Di sản thế giới lần 1: tiêu chí địa chất, địa mạo
Hồ sơ đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới đã được Chính
phủ Việt Nam trình lên UNESCO năm 1998. Lý do đưa ra để đề nghị công nhận
vườn quốc gia này là di sản thế giới bao gồm: sự đa dạng sinh học cao, sự độc
đáo và vẻ đẹp của hệ thống hang động và phong cảnh núi đá vôi
[25]
.
Chính phủ Việt Nam đã bổ sung thông tin về giá trị địa chất địa mạo khu
vực vườn quốc gia này. Tại kỳ họp toàn thể lần thứ 27 từ 30 tháng 6 đến 5 tháng
7 năm 2003, đại diện 160 quốc gia thuộc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ
Bàng, cùng với 30 địa danh khác trên toàn thế giới, là di sản thiên nhiên thế
giới. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản
thế giới vì đạt tiêu chuẩn viii “là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của
lịch sử trái đất, bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đang diễn ra
đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến của các kiến tạo địa chất hay các
đặc điểm địa chất và địa văn”
Đề nghị công nhận lần 2: tiêu chí đa dạng sinh học
Năm 2007, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Việt Nam đã thống nhất đề
nghị Thủ tướng cho phép Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam ký trình
hồ sơ gửi UNESCO công nhận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là Di sản
thiên nhiên thế giới lần 2 về tiêu chí đa dạng sinh học. Bộ hồ sơ trình lần này đã
được bổ sung các tư liệu quý về hệ động thực vật tại vườn quốc gia này. Hồ sơ
trình UNESCO lần này cũng đã nêu rõ tính nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh
học, và tính toàn vẹn của vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Ngã ba Đồng Lộc
Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng
Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50ha nằm gọn
trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc
đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá

cũng lǎn xuống đường làm cản trở giao thông.
Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải vượt qua ngã ba Đồng
Lộc. Ngã ba Đồng Lộc được coi như cổ họng, vượt qua được sẽ phân tán toả ra
nhiều tuyến đường khác nhau đi vào nam. Ngã ba Đồng Lộc là trọng điểm có
tầm quan trọng chiến lược nên trong chiến tranh phá hoại kẻ địch âm mưu ném
bom huỷ diệt nhằm chặn đứt sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn,
lương thực... của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến
lớn miền Nam. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968
không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.
Hồi 17h ngày 24/7/1968 tiểu đội 4 thanh niên xung phong được lệnh trọng điểm
ở khu vực địch vừa thả bom để san lập hố bom sửa chữa đường, kết hợp sửa
chữa hầm trú ẩn khơi sâu rãnh thoát nước ở đoạn đường độc đạo để nhanh
chóng thông đường cho xe qua. Tiểu đội 4 hôm ấy có 10 cô gái trẻ:
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến tại hiện trường gấp rút triển khai công việc với
cả niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe qua nên các cô không hề sợ hãi.
Họ làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói, vừa ý ới gọi nhau. Bỗng một tốp
máy bay phản lực từ hướng Bắc vào Nam vượt qua trọng điểm. Tất cả các cô
nhanh chóng nằm rạp xuống đường. Hết tiếng máy bay các cô lại chồm dậy làm
việc. Bất ngờ tốp máy bay phản lực quay lại bay từ trong ra thả một loạt bom
rơi đúng vào đội hình 10 cô gái. Các tiểu đội thanh niên xung phong đi sau
chồm lên gào thét, nhân dân xóm Bãi Dĩa quanh đấy cũng lao ra gọi tên từng
người. Khi đến nơi quả bom vừa nổ chỉ thấy một hố bom sâu hoắm, một vài
chiếc xẻng, cuốc vǎng ra nhưng không còn thấy một ai, không nghe thấy một
tiếng người. Cả 10 cô gái trẻ ấy đã hy sinh. Để ghi sâu tội ác và ghi lại chiến
tích của 10 cô gái tại trọng điểm lịch sử này Quốc hội và Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa
Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vị trí: Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời và sống những năm tháng niên

thiếu cùng bà con nội ngoại thân thiết.
Làng Sen (quê nội)

Từ thành phố Vinh theo quốc lộ 46 đến
cây số 13 rẽ vào con đường đất đỏ rợp bóng
cây bạch đàn và phi lao, đến làng Sen, tên chữ
là Kim Liên (bông sen vàng). Làng có những
hồ sen hai bên đường làng. Ngôi nhà của Chủ
tịch Hồ Chí Minh sống thuở nhỏ dựng bằng tre và gỗ, 5 gian, lợp tranh. Trong
nhà có những đồ dùng giống như các gia đình nông dân: phản gỗ, chõng tre, cái
võng gai, bàn thờ... Nhà được dựng năm 1901 do công sức và tiền của dân làng
góp lại làm tặng ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi
ông Sắc đỗ Phó Bảng - sự kiện mang lại niềm tự hào cho dân làng.
Làng Chùa (quê ngoại)
Cách làng Sen 2km, là một làng quê bình dị như bao làng quê của Việt
Nam, nhưng lại nổi tiếng ở trong và ngoài nước vì đây là quê ngoại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, là nơi người cất tiếng khóc chào đời và được mẹ nuôi dạy
trong những năm ấu thơ.Sau cánh cổng tre rộng mở, du khách bước giữa hai bờ
mận hảo vào thăm hai ngôi nhà lợp tranh bình dị.
Ngôi nhà thờ
Ngôi nhà thờ nhỏ ba gian ở phía sau nhà ở của cụ Hoàng Đường (ông
ngoại của Bác) được cụ Hoàng Đường lập ra từ năm 1881 để thờ cúng cố nội,
ông nội và thân phụ. Nhà được tu sửa và lợp ngói từ 1930 như ta thấy hiên nay.
Bàn thờ được bài trí giản dị, trang nghiêm. Trên đôi quyết trước nhà thờ có đôi
câu đối về uy danh của dòng họ.
Ngôi nhà cụ Hoàng Đường
Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường có 5 gian và hai chái, trong đó ba gian
ngoài thông với nhà thờ rất thoáng mát. Bộ phản kê ở gian thứ nhất là nơi cụ
Đường dạy học; gian thứ hai có bộ tràng kỷ bằng tre, chiếc án thư với những
dụng cụ dạy học như bút lông, nghiên mực... Gian thứ ba kê bộ phản là nơi nghỉ

ngơi của thày và trò. Hai gian còn lại là nơi nghỉ của cụ bà và nơi sinh hoạt
chung của gia đình.
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
Nghĩa trang Trường Sơn là nơi quy tập phần mộ các liệt sĩ trên tuyến đường
Trường Sơn trong những năm chiến tranh thống nhất đất nước.
Nghĩa trang được xây dựng tại khu vực Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15,
thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách thị xã Đông Hà, tỉnh lỵ
của tỉnh Quảng Trị khoảng 38km về phía tây bắc, cách quốc lộ 1A (đoạn thị trấn
huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía tây bắc. Nghĩa trang có diện tích
140.000m², nằm trên 3 quả đồi ở cạnh thượng nguồn sông Bến Hải, ranh giới
cắt chia hai miền Bắc - Nam thời kháng chiến chống Mỹ. Đây là nơi Bộ tư lệnh
Binh đoàn Trường Sơn đã chọn. Đây là một trong 72 nghĩa trang liệt sỹ của tỉnh
Quảng Trị.
Mộ bắt đầu được quy tập tại đây từ cuối năm 1974. Nghĩa trang được xây
dựng từ ngày 24/10/1975 và hoàn thành ngày 10/4/1977, đây là nghĩa trang có
quy mô lớn nhất Việt Nam, có kiến trúc, bố cục độc đáo, không giống đa phần
nghĩa trang liệt sĩ khác ở Việt Nam.Khu trung tâm nằm trên một ngọn đồi cao
32,4m có đài tưởng niệm bằng đá trắng cao vút uy nghiêm, rỗng ruột và khuyết
ba mặt, thể hiện nỗi mất mát vô cùng. Bốn khu đặt mộ liệt sĩ được xếp theo tỉnh,
thành phố trải trên năm quả đồi. Xen kẽ các khu mộ là những cánh rừng. Lối đi
được lát đá, gạch hoặc tráng xi măng, hoa nở bốn mùa hai bên. Mỗi khu đều có
nhà tưởng niệm với kiến trúc phảng phất hình ảnh các vùng quê đất nước.
Tại thời điểm tháng 4 năm 2006 ở đây có 10.263 phần mộ; được chia
thành 10 khu vực theo địa phương: Hà Nội, Bình Trị Thiên, Hà Nam Ninh, Hà
Sơn Bình, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Bắc, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Ninh,
Vĩnh Phú, Hải Phòng, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tiên... nơi liệt sĩ sinh ra
và một khu dành cho 68 liệt sĩ khuyết danh. Các phần mộ được xây kiên cố, có
sơ đồ mộ chí, được 21 quản trang trông nom, giữ gìn chu đáo.
Thành cổ Quảng Trị - Di tích chiến tranh kiêu hùng
Dòng sông Thạch Hãn hôm nay hiền hòa, xanh ngát, khác với hình dung

của du khách về một con sông đỏ lượm màu máu của một thời lửa đạn, của 81
ngày đêm Thành cổ rung chuyển giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cách bờ sông
Thạch Hãn 500m về phía Nam và chỉ cách Quốc lộ 1A 2 Km về phía Đông, di
tích Thành cổ Quảng Trị được bảo tồn ngay trung tâm thị xã Quảng Trị anh
hùng (khu phố 4, phường 2). Có thể nói, đây là điểm đến tiêu biểu nhất cho
vùng đất du lịch được mệnh danh là “miền hồi tưởng” tỉnh Quảng Trị, với
những địa danh lịch sử: đảo Cồn Cỏ, sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, Nghĩa
trang liệt sĩ Trường Sơn, Khe Sanh - Đường 9 Nam Lào...
Hơn hai thế kỷ trước, Thành cổ Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà
Nguyễn. Thành Quảng Trị xây dựng từ đầu đời vua Gia Long (1802), nguyên
gốc được đắp bằng đất theo dạng hình vuông, đến năm Minh Mạng thứ 18
(1837) mới xây bằng gạch. Đây là nơi để vua ngự mỗi khi đi tuần thú, nơi làm
lễ thăng quan cho các đại quan cấp tỉnh và tổ chức các tiết lễ khác trong năm.
Suốt gần 140 năm (1809-1945) dưới thời nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là
trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị và là thành lũy quân sự
để bảo vệ kinh đô Huế ở phía Bắc. Tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc, dinh lũy này
được thực dân Pháp xây dựng thành nhà lao. Từ năm 1929-1972, nhà lao Quảng
Trị là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu nước, chiến sĩ Cộng sản và cả những
Thời đánh Mỹ năm 1972, vùng đất Quảng Trị được xem là chiến trường khốc
liệt nhất, nơi diễn ra những cuộc đụng đầu nảy lửa giữa ta và địch. Với địa thế
vừa là bàn đạp để thực hiện âm mưu “Bắc tiến” khi có điều kiện, vừa là lá chắn
bảo vệ “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đây là chiến trường sinh tử
đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau hai cuộc tấn công
bất ngờ và quả cảm của quân ta - bắt đầu từ giữa trưa ngày 30/3/1972, thị xã
Quảng Trị được giải phóng vào chiều ngày 01/5/1972. Từ đây, bắt đầu 81 ngày
đêm kiêu hùng của những chiến binh quả cảm của chúng ta với cuộc chiến
không cân sức về khí tài trong lòng Thành cổ.
Để lấy lại tinh thần và gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris, địch dốc toàn
bộ lực lượng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mục tiêu số một là
chiếm lại tòa Thành cổ. Trong cuộc hành quân lấy tên “Lam Sơn 72” bắt đầu

ngày 28/6/1972, địch đã huy động phản kích bằng máy bay phản lực, bình quân
mỗi ngày 150-170 lần (có ngày 220 lần), 70-90 lần B52, 12-16 lần tàu khu trục
hạm và tuần dương hạm thuộc Hạm đội 7 - Thái Bình Dương, hai sư đoàn dự bị
chiến lược là Sư dù và thủy quân lục chiến, 4 trung đoàn thiết giáp - mỗi trung
đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép... Đây là cuộc hành quân đẫm máu, cực kỳ
tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại: Từ bom phá, bom na-pan, bom lân tinh, bom
bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng la-de, đến các loại pháo chơm, pháo khoan,
chất độc hóa học và hơi ngạt. Người ta đã ghi nhận được: Đêm 4/7, pháo đài
bay B52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom, ngày 31/7, khoảng 2 vạn quả đại bác cỡ lớn
từ 105-203mm đã rơi xuống vùng phụ cận và khu vực thị xã Quảng Trị. Báo chí
phương Tây thời bấy giờ bình luận và so sánh số bom đạn Mỹ ném xuống chiến
trường Quảng Trị khoảng 328 ngàn tấn, tương đương sức công phá của 7 quả
bom nguyên tử ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945.
Trong lửa đạn khốc liệt ấy, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m là
“túi bom” của kẻ thù. Chúng huy động tối đa lực lượng, phương tiện để chiếm
bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng mặc cả
với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê hết số bom đạn dội xuống mảnh
đất này.
Thế nhưng, bom đạn không làm sờn lòng những chiến sĩ anh hùng - hầu hết đều
rất trẻ. Các anh, anh dũng bám trụ giữ từng tấc đất Thành cổ. Trong một ngày,
các chiến sĩ đã phải đánh địch phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến
đấu ở đây đã diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những qui
ước thông thường với những tấm gương quả cảm: Phan Văn Ba nát một bàn tay
vẫn xin ở lại, Hán Duy Long dùng trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch,
3 lần bị thương vẫn giữ vững trận địa... Ở đây, lựu đạn phải để xì khói trên tay
mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò sát miệng hầm của địch
mà liệng vào... Cuộc chiến đấu anh hùng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng
Trị kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông trên 5 vạn tên với
thừa thãi sức mạnh bom đạn, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ xâm lược
có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí

thép gang, một lòng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã đổ xuống, tô thắm cho trang sử vẻ vang của
dân tộc, để xanh ngời cỏ non Thành cổ hôm nay. Di tích Thành cổ hôm nay chỉ
là một gian nhà truyền thống, những quả pháo nằm rải rác chung quanh một
nấm mồ khổng lồ mang tính biểu tượng. Trong lòng nó chỉ vỏn vẹn cây súng và
bộ quân phục giản đơn của người lính nhưng chất chứa biết bao suy tưởng. Đến
Thành cổ, thắp một nén hương ở mảnh đất thiêng liêng ấy, chưa bao giờ bạn
cảm nhận giai điệu bi tráng của hành khúc “Hồn tử sĩ” vang lên với nhiều cung
bậc cảm xúc đến vậy!
1.2.2 Tiểu Vùng Du lịch phía Nam:
Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên-Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng BắcTrung Bộ Việt Nam có
tọa độ ở 16-16,8 Bắc và 107,8-108,2 Đông.Diện tích của tỉnh là 5.053,99 km²,
dân số năm 2005 là 1.134.480 người.Thừa Thiên-Huế giáp tỉnh Quảng Trị về
phía bắc, biển Đông về phía đông, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam về phía
nam, Trường Sơn và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phía tây. Thừa Thiên-

×