Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LÍ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.66 KB, 31 trang )

LÍ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Thuật ngữ “tín dụng” theo tiếng La Tinh gọi là Credittium, tiếng anh gọi là
Credit, có nghĩa là “tin tưởng và tín nhiệm”. Theo thuật ngữ dân gian Việt Nam:
“Tín dụng” có nghĩa là “sự vay mượn”.
Về mặt tài chính, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sở
hữu vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một
khoản chi phí nhất định.
Cũng như các quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng có các đặc trưng
sau:
Thứ nhất, là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Thực chất của
quan hệ tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời
nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền
sở hữu đối với lượng giá trị đó.
Thứ hai, là tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn
trả đúng hạn cả về thời gian và giá trị bao gồm hai bộ phận là gốc và lãi.
Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín
dụng. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn.
Người đi vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự
gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình
thành quan hệ tín dụng.
1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.2.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
Thứ nhất, vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó
mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ
sản phẩm.


Thứ hai, một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thoả
mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các
nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các
chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự
chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản
thân. Điều này giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và
nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.
Thứ tư, các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện
tín dụng để hạn chế rủi ro có thể xẩy ra với ngân hàng. Chính điều này buộc
người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối
quan hệ lâu dài với tổ chức cung ứng tín dụng.
1.1.2.2 Tín dụng là trung gian dẫn tác động của của Nhà nước đến các mục
tiêu kinh tế vĩ mô
Mục tiêu kinh tế vĩ mô bao gồm: Ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo
công ăn việc làm. Để đảm bảo đạt được các mục tiêu vĩ mô hài hoà phụ thuộc
một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét về cả mặt thời hạn cũng như
đối tượng tín dụng. Vấn đề này, nó lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như
lãi suất cho vay, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bão lãnh và chủ trương mở
rộng tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy,
thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể
thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động cả nguồn vốn tín dụng,
nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết
cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động
ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối
cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho
phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết.
1.1.2.3 Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ

không hoàn lại từ Ngân sách Nhà nước. Song phương thức này bị hạn chế về
quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế, phương thức này được thay
thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung
cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn,
việc tài trợ vốn cho người nghèo được thực hiện bằng việc cho vay với lãi suất
thấp. Phương thức này ưu việt hơn, hiệu quả hơn. Điều này buộc các đối tượng
chính sách phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn hơn và từ đó kỹ năng lao
động của họ cũng được nâng lên. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định
tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại
độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc sử dụng phương
thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.1.3 Phân loại tín dụng.
1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn của khoản tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng
ngân hàng có thể chia thành các loại sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm.
1.1.3.2 Căn cứ vào đảm bảo tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có
thể chia thành các loại sau:
- Tín dụng không có đảm bảo: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấp hay có bảo lãnh của bên thứ ba.
- Tín dụng có đảm bảo: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo
lãnh của bên thứ ba.
1.1.3.3 Căn cứ vào mục đích tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng
có thể chia thành các loại sau:
- Tín dụng bất động sản: Đây là khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất
động sản, bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
+ Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại
và bất động sản ở nước ngoài.

- Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp để trang trải các khoản chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật
liệu, trả thuế và chi trả lương.
- Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động
nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và
chăn nuôi gia súc.
- Tín dụng cá nhân: Đây là khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua hàng hoá
tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong nhà...
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và
cho thuê lại chúng.
- Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở
trên (Ví dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán).
Tùy từng mục đích mà mỗi ngân hàng phân loại tín dụng theo các tiêu chí
nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng quản lý và điều hành.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất rủi ro tín dụng
Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như là: “Rủi ro là sự không chắc chắn mang
tính khách quan về khả năng xẩy ra một sự kiện không mong muốn”. Như vậy,
dù con người có nhận biết được rủi ro hay không thì nó vẫn tồn tại. Hay một
khái niệm khác là: “Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất”. Ở Việt Nam
trong từ điển kinh tế học hiện đại, rủi ro được định nghĩa: “Rủi ro là hoàn cảnh
trong đó một sự kiện xẩy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp
quy mô của sự kiện đó có một phân phối xác suất”.
Khái niệm về rủi ro tín dụng:
Theo Thomas P.Fitch: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xẩy ra khi người vay
không thanh toán được nợ theo thoả thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa
vụ trả nợ. Là rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Theo World Bank: Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi
vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định
trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng.
Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả
được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh
hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là thiệt hại kinh tế của ngân hàng do một khách hàng hoặc
một nhóm khách hàng không hoàn trả được nợ vay cho ngân hàng.
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín
dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người đi vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ
trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hẹn
(delayed paymet) hoặc không thanh toán (nonpayment).
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức làm giảm thu nhập
ròng. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ hoặc ở mức độ cao
hơn có thể dẫn đến phá sản.
Những biểu hiện của rủi ro tín dụng được thể hiện ở mô hình sau:
Rủi ro tín dụng
Phát sinh lãi
treo đóng băng
Không thu
được lãi đúng
hạn
Không thu
đủ lãi
Không thu đủ
vốn cho vay
Không thu
được vốn đúng
hạn

Phát sinh nợ
khó đòi
Phát sinh lãi
treo
Phát sinh nợ
quá hạn
1.2.2 Đặc điểm của rủi ro tín dụng
- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Đặc điểm này xuất phát từ trong
quan hệ tín dụng, có sự chuyển giao vốn giữa ngân hàng và khách hàng và có sự
tách rời giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn trong một khoảng thời
gian nhất định. Do đó, nếu khách hàng mà làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn không
hiệu quả, năng lực tài chính khách hàng kém... sẽ gây rủi ro cho khách hàng và
dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: Do mỗi quan hệ tín dụng
có những đặc điểm riêng, do đó rủi ro trong mỗi trường hợp cụ thể cũng khác
nhau.
- Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh ngân hàng:
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động tín dụng luôn đi liền với rủi
ro. Khi một khoản tín dụng được thiết lập thì đồng thời với nó là một mức rủi ro
tiềm ẩn. Vì không có sự cân xứng thông tin giữa ngân hàng và khách hàng:
Ngân hàng thì muốn tìm hiểu toàn bộ thông tin về khách hàng một cách chính
xác, còn khách hàng luôn muốn làm đẹp các thông tin trước khi cung cấp cho
ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh của khách hàng còn bị tác động
bởi nhiều yếu tố khách quan như kinh tế - xã hội, pháp luật... và các yếu tố chủ
quan như năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo... Vì vậy khoản tín dụng đó
luôn tiềm ẩn rủi ro.
1.2.3 Những thiệt hại từ rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và
các cá nhân. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản

thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến
Khả năng thanh toán giảm, Hiệu quả kinh doanh giảm,
Thất thoát vốn, Phá sản
rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn hệ thống ngân hàng gặp khó khăn.
Ngân hàng phá sản dẫn đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp gặp trở ngại, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp
khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ
nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
1.2.3.2 Đối với ngân hàng
- Làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận của ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, các khoản chi phí chủ yếu bao
gồm: Chi phí trả lãi cho khách hàng gửi tiền, chi phí mua sắm phương tiện, thiết
bị phục vụ hoạt động của ngân hàng... Khi rủi ro tín dụng xẩy ra, ngân hàng
không thu hồi được số vốn như đã dự kiến, mất cơ hội đầu tư cho các dự án khả
thi, từ đó làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
- Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xẩy ra, làm cho ngân hàng không thu hồi được vốn gốc
và lãi trên số vốn đã cho vay, do vậy làm giảm khả năng thanh toán của ngân
hàng. Nếu tình trạng này kéo dài có thể làm cho ngân hàng mất khả năng thanh
toán và phá sản.
- Làm uy tín của ngân hàng giảm
Rủi ro tín dụng xẩy ra chứng tỏ hiệu quả quản lý, hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng kém, từ đó lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng suy giảm, uy
tín của ngân hàng trên thị trường giảm. Uy tín ngân hàng giảm sẽ tác động rất
lớn tới nghiệp vụ huy động vốn, việc huy động vốn trở nên khó khăn, đồng thời
ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thiết lập quan hệ đại lý, quan hệ vay vốn... với
các tổ chức khác.
- Nguy cơ phá sản ngân hàng
Nếu rủi ro tín dụng có thể làm thất thoát một lượng vốn rất lớn nên NHTM

có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản.
Việc phá sản một ngân hàng có thể gây phản ứng dây chuyền tới các ngân hàng
khác cũng phá sản theo và nó tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế.
Nói chung, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xẩy ra ở mức độ các mức độ
khác nhau: Nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi
cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ
cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc
phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế
nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản
trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm
giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.4 Các dấu hiệu cảnh báo khoản tín dụng có rủi ro
Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro nhưng không phải nó thường xuyên
xẩy ra bất ngờ mà có dấu hiệu báo trước. Vì vậy cán bộ tín dụng cần nhận diện
được các dấu hiệu này để có biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng có
thể xẩy ra. Sau đây là ba nhóm dấu hiệu chính:
1.2.4.1 Xuất phát từ môi trường khách quan
- Các thảm hoạ thiên nhiên: Hạn hán, lũ lụt... ảnh hưởng gây khó khăn đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ
cho ngân hàng.
- Các biến động về môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, công
nghệ, cạnh tranh... đều có thể gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.2.4.2 Xuất phát từ phía khách hàng: Chia làm 3 nhóm:
- Các dấu hiệu rủi ro xuất phát từ phương thức quản lý của khách hàng:
• Sức khoẻ của các nhà quản lý.
• Doanh nghiệp có sự thay đổi trong cơ cấu hệ thống quản trị.
• Quy trình quản lý xuất hiện nhiều tranh chấp.
• Việc thuyên chuyển nhân viên diễn ra quá thường xuyên.
• Doanh nghiệp xuất hiện nhiều chi phí quản lý bất hợp lý.

• Có sự sa sút sức khoẻ và tình trạng gia đình của nhà quản trị.
- Các dấu hiệu liên quan đến kỹ thuật - thương mại:
• Doanh nghiệp gặp khó khăn trong phát triển sản phẩm mới.
• Doanh nghiệp có kế hoạch thay đổi thị trường và khách hàng mục
tiêu.
• Doanh nghiệp thay đổi cách thức sản xuất và thực hiện cắt giảm các
chi phí sữa chữa, thay thế hoặc phát triển sản phẩm.
- Các dấu hiệu liên quan đến xử lý thông tin tài chính - kế toán.
Ngân hàng nhìn vào các báo cáo tài chính, phân tích các báo cáo thấy có các
biểu hiện:
• Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ.
• Tỷ lệ hoặc các khoản phải thu tăng với tỷ lệ không hợp lý.
• Khả năng tiền mặt doanh nghiệp giảm.
• Doanh nghiệp có dấu hiệu làm đẹp bảng cân đối kế toán thông qua
việc bổ sung giá trị tài sản vô hình hoặc thông qua việc đánh giá lại
tài sản hoặc doanh nghiệp thay đổi phương thức hạch toán.
1.2.4.3 Các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của khách hàng với ngân
hàng
- Khách hàng trả nợ vay không đúng thời hạn.
- Khách hàng gặp khó khăn trong việc chứng minh mục đích sử dụng vốn
vay.
- Khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo tài chính cần thiết.
- Khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng đến kiểm tra
cơ sở sản xuất kinh doanh.
1.2.5 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có thể phân loại theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Cách phân loại thông dụng là phân tích nguyên nhân
gây ra từ phía ngân hàng và người đi vay.
1.2.5.1 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Một là, ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều

kiện vay.
Hai là, chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, chưa có quy trình
quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi
ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ. Đối với doanh nghiệp nhỏ
và cá nhân, quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm,
chưa áp dụng công cụ chấm điểm tín dụng.
Ba là, kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc xác định hạn
mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu
là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng chưa phong phú.
Bốn là, thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy,
kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng.
Năm là, về công tác giám sát cho vay.
Công tác giám sát khoản vay, đánh giá định kỳ về khách hàng vay vốn, về
vấn đề sử dụng vốn vay và tài sản thế chấp bị buông lỏng. Đặc biệt là đối với
khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài, cán bộ tín dụng thường có tâm lý nể, tin
khách hàng và bỏ qua việc kiểm tra định kỳ. Bên cạnh đó, phương pháp kiểm
tra giám sát không khoa học nên không phát hiện được những dấu hiệu bất
thường trong hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Sáu là, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng chưa đủ tầm và
vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ tín dụng chưa thỏa đáng.
Năng lực dự báo, phân tích ngành, phân tích tài chính, phát hiện và xử lý
khoản vay có vấn đề của cán bộ còn rất yếu. Nhiều quyết định cho vay mang
tính cảm tính, được đưa ra trên cơ sở thông tin được cân nhắc không đầy đủ
hoặc phiến diện như chỉ dựa vào tài sản thế chấp hay bản thân phương án kinh
doanh mà bỏ qua năng lực tài chính của bản thân doanh nghiệp nên dẫn đến rủi
ro.
Các khoản cho vay có vấn đề đều không được phát hiện sớm và các biện
pháp can thiệp của ngân hàng chỉ thực hiện khi có phát sinh nợ quá hạn hoặc
doanh nghiệp gặp rắc rối với cơ quan pháp luật. Cán bộ tín dụng cũng chưa có
khả năng tư vấn cho khách hàng để giúp khách hàng có thể vượt qua giai đoạn

khó khăn tạm thời.
Kỹ năng thương lượng với khách hàng, tính chủ động trong công việc, khả
năng kiểm soát chứng từ vay, kiến thức pháp luật của cán bộ tín dụng cũng rất
yếu. Nhiều cán bộ tín dụng đã máy móc áp đặt loại sản phẩm tín dụng và kỳ hạn
nợ cho khách hàng mà không tìm hiểu nhu cầu thực tế của hoạt động kinh
doanh của khách hàng và không tư vấn cho khách hàng. Thời hạn cho vay và kỳ
hạn trả nợ không phù hợp với chu kỳ kinh doanh thực tế, với dòng tiền của
doanh nghiệp và đây là nguyên nhân gây ra các khoản cho vay có vấn đề.
Vì vậy có thể nói yếu tố con người là một yếu tố có tác động lớn nhất từ
phía ngân hàng đến rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.2.5.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Các nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng vay dẫn đến việc khách
hàng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng được sắp xếp theo hai nhóm
sau:

×