Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Mực nước biển dâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.19 KB, 2 trang )

Mực nước biển dâng cao (“sea level rise” - viết tắt SLR) do khí hậu thay
đổi là một nguy cơ nghiêm trọng có tính toàn cầu, và nguy cơ này càng
trở nên nghiêm trọng hơn đối với những nước có mật độ dân cư dày đặc
ở những vùng đất thấp và ven biển như Việt Nam.
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều bằng chứng khoa học khẳng định và tái
khẳng định nguy cơ này.
Nguy cơ SLR có thể đến từ ba nguồn chính. Thứ nhất là sự gia tăng liên tục
của hiệu ứng nhà kính, kéo theo nó là sự ấm dần lên của Trái đất. Theo các
nhà khoa học, chỉ riêng hiện tượng này đã có thể làm mực nước biển dâng cao
từ 1-3 mét trong thế kỷ 21. Thêm vào đó, việc các dải băng ở Greenland và
West Antarctic đang tan nhanh, nhiều nơi tới hơn 1 mét mỗi tháng, có thể làm
toàn bộ mực nước biển dâng cao tới 5 mét. Và thứ ba là việc khai thác nước
ngầm đang ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các đô thị lớn, làm mặt đất bị sụt
lún. Không cần phải là nhà môi trường học cũng có thể hình dung được nếu
tình huống này thực sự xảy ra thì cuộc sống của hàng trăm triệu con người
hiện đang sinh sống ở các vùng đất thấp ven biển trên khắp địa cầu sẽ bị ảnh
hưởng một cách nghiêm trọng đến mức độ nào.
Xin tóm lược một số kết quả nghiên cứu mới công bố hồi tháng 2-2007 của
một nhóm nghiên cứu thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) nhằm đánh giá tác
động của SLR đối với 84 nước đang phát triển trong đó có Việt Nam - một
trong năm nước chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của SLR.
Nhóm nghiên cứu của WB đã sử dụng các phần mềm Hệ thống thông tin địa
lý (GIS), kết hợp với nhiều nguồn dữ liệu cập nhật và đáng tin cậy, để đánh
giá và so sánh tác động của các tình huống tăng mực nước biển từ 1-5 mét đến
sáu yếu tố chịu ảnh hưởng của SLR bao gồm đất đai, dân số, nông nghiệp,
phạm vi đô thị, đất ngập nước, và GDP. Một cách khái lược, nghiên cứu này
chỉ ra rằng nội trong thế kỷ 21, hàng trăm triệu người ở các nước đang phát
triển sẽ phải di chuyển do tác động của SLR, đồng thời tác động về kinh tế và
sinh thái sẽ rất nặng nề đối với tất cả các khu vực, trong đó Đông Á sẽ phải
gánh chịu hậu quả nghiêm trọng nhất, tiếp sau đó là Trung Đông và Bắc Phi.
Nếu mực nước biển tăng từ 1 mét lên 5 mét thì phần trăm dân số chịu ảnh


hưởng sẽ tăng từ 2% lên 8,6%; tác động đến GDP tăng từ 2,1% lên tới 10,2%;
còn phần trăm diện tích đất đô thị bị ảnh hưởng sẽ tăng từ 1,7% lên đến gần
9% (xem biểu đồ).
Trong khu vực Đông Á, với đặc trưng về vị trí địa lý cũng như địa hình thì
Việt Nam lại là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Điều này có thể thấy
rõ qua biểu đồ so sánh mức độ tác động của Việt Nam so với mức trung bình
của khu vực Đông Á và toàn thế giới. Trong phạm vi nước ta thì hai khu vực
bị ảnh hưởng nhiều nhất là vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu
Long - vốn là hai khu vực đất thấp, gần biển, lại có mật độ cư dân rất cao.
Cũng chính vì thế, chỉ cần mực nước biển dâng cao thêm 1 mét thì sẽ có 5,3%
diện tích đất, 10,8% dân cư, 10,2% GDP, 10,9% diện tích đô thị, 7,2% diện
tích nông nghiệp, và 28,9% diện tích đất trũng bị tác động. Mặc dù chưa thể
ước lượng được thiệt hại tiềm tàng tính bằng tiền, nhưng với phạm vi và quy
mô tác động như thế này, cuộc sống của hàng chục triệu người dân nước ta sẽ
phải trải qua những biến động to lớn.
Cho đến nay, dường như cộng đồng quốc tế chưa thực sự nghiêm túc xem xét
hệ quả của SLR đối với việc quy hoạch định vị dân cư và cơ sở hạ tầng ở các
nước đang phát triển. Hy vọng rằng những kết quả có tính cảnh báo cao trong
nghiên cứu của WB sẽ khuyến khích hoạt động hoạch định để các nước, đặc
biệt là các nước nghèo, có đủ thời gian để chuẩn bị để thích nghi với những
biến đổi trong môi trường tự nhiên. Mặc dù nghiên cứu không chỉ ra được một
cách chính xác về thời gian, mức độ, và phạm vi của ảnh hưởng do mực nước
biển dâng cao, một số nghiên cứu gần đây cho rằng thời gian xảy ra điều này
có thể đến sớm hơn, và mức độ ảnh hưởng có thể sẽ cao hơn những tính toán
trước đây.
Không rõ chúng ta đã có những nghiên cứu tương tự nhằm đánh giá tác động
của SLR nói riêng và sự thay đổi của thời tiết nói chung gây ra đối với Việt
Nam hay chưa. Tuy nhiên, những lời cảnh báo nghiêm trọng của nhóm nghiên
cứu WB đòi hỏi cộng đồng khoa học nước ta phải có những nghiên cứu cẩn
trọng để kiểm định tính chính xác của lời cảnh báo, đồng thời lượng định một

cách cụ thể những hậu quả tiềm tàng của SLR trong các tình huống khác nhau.
Về phía Nhà nước, các quy hoạch và chính sách kinh tế - xã hội (chẳng hạn
như chủ trương mới đây về phát triển kinh tế biển) cũng không thể không tính
đến những tác động mà SLR có thể gây ra cho các tỉnh ven biển.
Đối với một số tỉnh có nguy cơ chịu tác động nghiêm trọng của SLR, chính
quyền Trung ương và địa phương cần có những chính sách thích hợp trên cơ
sở những nghiên cứu khoa học đầy đủ và điều kiện đặc thù của địa phương.
Ví dụ ĐBSCL, địa hình vốn đã thấp hơn so với mực nước biển nên nguy cơ
nước mặn xâm lấn do SLR gây ra càng trở nên nghiêm trọng hơn. Vì vậy, các
tỉnh ở ĐBSCL cần chủ động tìm các giải pháp làm chậm tiến trình xâm mặn,
giảm tác hại của nó và thực hiện các điều chỉnh cần thiết để thích ứng với sự
biến đổi của môi trường sống.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×