Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG SỰ TRUNG THÀNH CỦA KHÁCH HÀNG ĐỒI VỚI DỊCH VỤ ĐTDĐ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.54 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG SỰ TRUNG THÀNH CỦA KHÁCH HÀNG ĐỒI VỚI
DỊCH VỤ ĐTDĐ Ở VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ ĐTDĐ Ở VIỆT NAM
1. Đặc điểm của thị trường dịch vụ ĐTDĐ tại Việt Nam
1.1 Chịu sự quản lý của nhà nước
Mặc dù tính đến thời điểm năm 2007 đã có 6 doanh nghiệp được cấp
phép kinh doanh dịch vụ viễn thông di động nhưng hầu hết các hoạt động
kinh doanh của 6 nhà cung cấp này đều phải thông qua Bộ BCVT. Bằng các
quyết định của mình Bộ BCVT quyết định về giá, cách tính giá các sản phẩm
và điều chỉnh về quy hoạch băng tần cho hệ thống thông tin di động, ngoài r
Bộ Tài Chính còn quy định hạn mức chi phí quảng cáo cho các hoạt động
kinh doanh. Hơn nữa hiện nay hầu hết các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
ĐTDĐ tại Việt Nam đều là các doanh nghiệp nhà nước. Đó là các doanh
nghiệp trực thuộc VNPT, Công ty viễn thông Quân Đội, Công ty viễn thông
Điện Lực, Công ty viễn thông Hà Nội, Công ty cổ phần viễn thông Sài Gòn.
Do đó các doanh nghiệp này đều được sự giúp đỡ và chịu sự quản lý của nhà
nước.
1.2 Một thị trường tiềm năng với qui mô và tốc độ tăng trưởng nhanh
Trong những năm gần đây qui mô và tốc độ tăng trưởng của thị trường
dịch vụ ĐTDĐ không ngừng phát triển. Thông qua các biểu đồ và các bảng số
liệu dưới đây chúng ta có thể nhận thấy thị trường dịch vụ viễn thông di động
Việt Nam trong những năm gần đây có những bước nhảy vọt. Từ năm 2000
thị trường này phát triển không ngừng với tốc độ bình quân trên 30% và
không hề có dấu hiệu hạ nhiệt. Đặc biệt là thời kỳ 2005 – 2006 tốc độ tăng
trưởng thuê bao lên đến 100% đưa Việt Nam trở thành quốc gia có ngành viễn
thông di động tăng nhanh nhất thế giới. Sự tăng trưởng của số lượng thuê bao
di động tại Việt Nam được thể hiện qua biểu đồ số 1.
Biểu đồ số 1: Số lượng thuê bao di động tại Việt Nam từ 1996 – 2007
Nguồn: www.mpt.gov.Việt Nam
Hơn nữa Việt Nam là một thị trường có cầu rất lớn và sẽ không ngừng
ở con số dự báo của các chuyên gia. Tính đến hết năm 2007, toàn thị trường


điện thoại Việt Nam (bao gồm cố định và di động) có khoảng 46 triệu thuê
bao danh nghĩa, trong đó thuê bao di động chiếm 74%. Con số này đã vượt xa
hẳn các dự đoán của các chuyên gia ngành viễn thông di động. Ngoài ra, năm
2008 với các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông ở nông thôn
hiện đang được Bộ BCVT thực hiện thì có khả năng thị trường dịch vụ ĐTDĐ
lại gây ngạc nhiên cho các nhà nghiên cứu thị trường như những năm vừa
qua. Tốc độ phát triển thuê bao di động và tỷ lệ sử dụng dịch vụ ĐTDĐ tại
Việt Nam được thể hiện qua bảng số 1 và 2.
Bảng số 1: Tốc độ phát triển thuê bao di động tại VN giai đoạn 2001 - 2007
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
17,3 29,5 44,3 135 136 53,8 152
Bảng số 2: Sự phát triển của tỷ lệ sử dụng dịch vụ ĐTDĐ trên tổng số dân
1994 1996 1998 2000 2002 2004 2007
0,05 0,09 0,24 0,92 1,21 4,4 40,4
Nguồn: www.mpt.gov.Việt Nam
1.3 Tính cạnh tranh ngày càng cao
Trước năm 2000 thị trường dịch vụ ĐTDĐ tại nước ta là thị trường độc
quyền bởi một nhà cung cấp duy nhất là VIệT NAMPT. Tuy trên thị trường
lúc ấy có 2 nhà cung cấp là Vinaphone và Mobiphone nhưng thực chất cả hai
mạng này đều thuộc sự quản lý của VNPT. Sự ra đời của S-Fone năm 2000 và
Viettel năm 2004 đã phá vỡ thế độc quyền của VNPT, tạo ra thế cạnh tranh
trên thị trường dịch vụ ĐTDĐ tại Việt Nam.
Như vậy, cho đến trước năm 2006 trên thị trường Việt Nam có 4 mạng
ĐTDĐ là Mobiphone, Vinaphone, S-Fone, Viettel trong đó có 4 mạng sử
dụng công nghệ GMS và một mạng sử dụng công nghệ CDMA. Bước sang
năm 2007 với sự góp mặt của hai tinh binh mới là HT Mobile và EVN
Telecom thị trường dịch vụ ĐTDĐ Việt Nam trở nên sôi động và cạnh tranh
khốc liệt hơn. Các nhà cung cấp dịch vụ không ngừng tung ra các chiến lược
Marketing nhằm thu hút khách hàng từ các mạng khác khiến cho tính cạnh
tranh trên thị trường càng gay gắt. Đặc biệt, tháng 11 năm 2006 với sự kiện

Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO đã bước đầu phá bỏ
những rào cản cơ bản để các nhà cung cấp dịch vụ VTDĐ trên thế giới nhảy
vào đầu tư tại Việt Nam. Sự góp mặt của những đối thủ nước ngoài có tiềm
lực mạnh cả về công nghệ lẫn tài chính hứa hẹn sẽ khiến cho thị trường dịch
vụ ĐTDĐ Việt Nam trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết.
2. Một số mạng điện thoại di động hiện có trên thị trường.
Ngày 16/4/1993 sự ra đời của mạng MobiFone đã đánh dấu sự khởi đầu
cho ngành thông tin di động Việt Nam. Trong giai đoạn đầu này, MobiFone là
mạng duy nhất độc quyền cung cấp dịch vụ viễn thông di động cho cả nước,
do vậy cước phí hòa mạng và sử dụng vẫn còn rất cao, số lượng thuê bao vẫn
còn hạn chế. Sau hơn 15 năm thành lập, đến nay toàn thị trường thông tin di
động nước ta đã có hơn 34 triệu thuê bao với 6 mạng di động MobiFone,
Vinaphone, Viettel, SFone, HT Mobile và E-Mobile. Trong số 6 nhà cung cấp
dịch vụ điện thoại di động thì có 3 mạng sử dụng công nghệ GSM là
MobiFone, Viettel, Vinaphone và 3 mạng sử dụng công nghệ CDMA là
SFone, EVN Telecom và HT Mobile. Tuy nhiên, đầu năm 2008 HT Mobile đã
xin chuyển sang khai thác công nghệ GSM và đã được chấp thuận.
2.1 Mạng di động Viettel
Viettel là mạng điện thoại di động của công ty viễn thông quân đội. Sau
15 năm thành lập, vào năm 2004 khi xác định rõ dịch vụ điện thoại di động sẽ
là dịch vụ viễn thông cơ bản, Viettel đã tập trung mọi nguồn lực để xây dựng
mạng lưới và chính thức khai trương dịch vụ vào ngày 15/10/2004 với thương
hiệu 098. Với sự xuất hiện của thương hiệu điện thoại di động 098 trên thị
trường, Viettel một lần nữa đã gây tiếng vang lớn trong dư luận và khách
hàng, làm giảm giá dịch vụ, nâng cao chất lượng chăm sóc khách hàng, làm
lành mạnh hóa thị trường thông tin di động Việt Nam. Được bình chọn là 01
trong 10 sự kiện công nghệ thông tin và truyền thông năm 2004, liên tục
những năm sau đó đến nay, Viettel luôn được đánh giá là mạng di động có tốc
độ phát triển thuê bao và mạng lưới nhanh nhất với những quyết sách, chiến
lược kinh doanh táo bạo luôn được khách hàng quan tâm chờ đón và ủng hộ.

Sau hơn 1 tháng đi vào hoạt động, vào ngày 20/11/2004 mạng 098 đã đạt
được 100.000 thuê bao và chính thức chào đón khách hàng thứ 1 triệu vào
ngày 8/9/2005. Đúng dịp kỉ niệm 1 năm ngày thành lập, Viettel công bố số
thuê bao đạt được là gần 1,5 triệu cho thấy một tốc độ phát triển chưa từng có
trong lịch sử ngành thông tin di động Việt Nam. Ngày 25/9/2006 Bộ BCVT
đã ban hành quyết định cấp cho Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel)
thêm một mã mạng di động mặt đất mới, theo đó từ 1/10/2006, Viettel Mobile
được phép đưa đầu số 097 ra thị trường. Sự kiện này đã giúp Viettel nhanh
chóng thu hút thêm những khách hàng mới và đạt 6 triệu thuê bao tính đến
ngày 7/11/2006. Vào ngày 26/7/2007, Viettel đã chính thức được Bộ BCVT
cấp thêm mã di động mới là 0168, bên cạnh hai mã mạng quen thuộc 097 và
098. Như vậy, Viettel trở thành mạng di động đầu tiên được cấp mã di động
mới, tiếp tục là mạng di động có tốc độ phát triển nhanh nhất và lớn nhất. Với
ba đầu số 098, 097, 0168 hoạt động trên thị trường dịch vụ điện thoại di động,
đến hết năm 2007 Viettel đã đạt 15 triệu thuê bao chiếm gần 44% số lượng
thuê bao di động của cả ngành viễn thông Việt Nam. Các dịch vụ điện thoại di
động chính mà Viettel cung cấp gồm có gói trả trước (Economy, Daily, Ciao,
Tomato); Gói trả sau (Basic + , Family, VPN) và các dịch vụ giá trị gia tăng
VAS như 1900xxxx , AnyPay , Background Music, Dịch vụ Call me back,
dịch vụ trả cước, GPR, Pay 199, Roaming, SMS, Thanh toán cước trả sau
bằng ATM, Yahoo SMS Messenger. Đến nay, Viettel luôn được coi là mạng di
động có giá cước rẻ nhất với nhiều hình thức khuyến mãi phong phú. Bước
sang năm 2008, khi cuộc cạnh tranh về giá cước giữa các mạng trở nên càng
gay gắt cùng nguy cơ có sự gia nhập từ các đối thủ bên ngoài thì con số
70.000 thuê bao phát triển mới trung bình mỗi ngày của Viettel tại thời điểm
đầu năm 2008 là một thành công đáng nói. Với tốc độ phát triển này thì mục
tiêu 22 triệu thuê bao vào cuối năm 2008 của Viettel chỉ còn lại là vấn đề thời
gian.
Biểu đồ tăng trưởng thuê bao Viettel từ 2004 đến 2007
Nguồn:

2.2 Mạng di động MobiFone
Công ty Thông tin di động (Vietnam Mobile Telecom Services
Company - VMS) là doanh nghiệp Nhà nước hạng một trực thuộc Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt nam (VNPT). Được thành lập vào ngày 16 tháng
04 năm 1993, VMS đã trở thành doanh nghiệp đầu tiên khai thác dịch vụ
thông tin di động GSM 900/1800 với thương hiệu MobiFone, đánh dấu cho
sự khởi đầu của ngành thông tin di động Việt Nam. Lĩnh vực hoạt động chính
của MobiFone là tổ chức thiết kế xây dựng, phát triển mạng lưới và triển khai
cung cấp dịch vụ mới về thông tin di động có công nghệ, kỹ thuật tiên tiến
hiện đại và kinh doanh dịch vụ thông tin di động công nghệ GSM 900/1800
trên toàn quốc. Từ năm 2007 về trước, MobiFone hoạt động với 2 đầu số
chính là 090 và 094 với các đầy đủ các dịch vụ dành cho điện thoại di động.
Ngày 3/10/2007, mạng di động MobiFone chính thức thông báo đã
được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp đầu số 0122 để cung cấp dịch vụ
thông tin di động cho khách hàng trên toàn quốc. Như vậy, giống như Viettel
tính đến nay MobiFone cũng có 3 đầu số di động đó là 090, 094 và 0122.
Ngày 16/4 vừa qua, nhân dịp kỉ niệm 15 năm thành lập Công ty thông tin di
động VMS (sở hữu thương hiệu Mobifone), ông Lê Ngọc Minh – Giám đốc
công ty cho biết tính đến tháng 4/2008, Mobifone đã có hơn 15 triệu thuê bao,
và phấn đấu trong năm nay sẽ đạt được 21 triệu thuê bao cùng doanh thu
khoảng trên 16.000 tỉ đồng. Mobifone cũng đặt mục tiêu trong năm tới đạt 30
triệu thuê bao, và năm 2010 là 34 triệu thuê bao di động. Cùng với sự đầu tư
về mặt công nghệ, Mobifone đã và đang chú trọng về mặt chất lượng dịch vụ,
và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng nhằm thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng không chỉ là đàm thoại thông thường.Ngoài ra, tính
tới thời điểm này, MobiFone là mạng di động duy nhất tại Việt Nam đang tiến
hành cổ phần hóa và dự kiến sẽ hoàn tất vào năm tới. Với những nỗ lực và
cống hiến đó MobiFone vinh dự được NTD bình chọn là "Mạng điện thoại di
động được ưa thích nhất năm 2005" do báo Echip tổ chức và "Thương hiệu
mạnh Việt Nam 2005" do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức.

Biểu đồ tăng trưởng thuê bao MobiFone từ 1995 đến 4/2008
Nguồn:
2.3 Mạng di động Vinaphone
Mạng điện thoại di động VinaPhone được đưa vào khai thác chính thức
từ ngày 26/6/1996, và là mạng điện thoại di động thứ hai tại Việt Nam sử
dụng công nghệ GSM. Cuối năm 1996, mạng VinaPhone chỉ có hai tổng đài
chuyển mạch di động MSC cùng với 53 trạm thu phát vô tuyến (BTS) phủ
sóng chủ yếu tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Nhưng chỉ đến cuối năm 1999, mạng VinaPhone đã có thêm một tổng đài
chuyển mạch (MSC) tại Đà Nẵng, cùng với 209 trạm thu phát sóng vô tuyến
(BTS). Vùng phủ sóng đã rộng tới 61/61 tỉnh, thành phố trong cả nước và số
lượng thuê bao của VinaPhone mới khiêm tốn ở con số 126.005.
Để phục vụ tốt khách hàng, năm 2000, VinaPhone đã đầu tư lắp đặt các
trạm thu phát vô tuyến BTS để mở rộng vùng phủ sóng, nâng cao chất lượng
dịch vụ và phát triển thêm các dịch vụ mới. Dịch vụ chuyển vùng quốc tế IR
(International Roaming) ra đời đã đưa mạng di động VinaPhone vươn rộng ra
khắp thế giới. Sự ra đời của loại hình dịch vụ mới VinaCard (thuê bao di động
trả trước sử dụng công nghệ SN (Service Node) của Comverse đã thu hút
đông đảo khách hàng sử dụng, thúc đẩy tốc độ phát triển thuê bao tăng rất
nhanh. Năm 2000 mạng di động VinaPhone đã trở thành mạng điện thoại di
động có vùng phủ sóng rộng nhất tại Việt Nam với 414.570 thuê bao, tăng
230% so với năm 1999.
Để đáp ứng sự tăng trưởng rất nhanh của thuê bao, trong những năm
2001 -2002, Công ty Dịch vụ Viễn thông (GPC) đã đẩy mạnh việc đầu tư
nâng cấp mạng lưới để tăng dung lượng. Trong đó có sử dụng thiết bị trạm lặp
(repeater) kết hợp với các trạm BTS để phủ sóng các vùng sâu, vùng xa và
các trục lộ một cách linh hoạt hiệu quả. Đến cuối năm 2002, VinaPhone đã
lắp đặt thêm hai tổng đài chuyển mạch nâng số tổng đài của mạng VinaPhone
lên 7 tổng đài, 670 trạm thu phát vô tuyến (BTS) phủ sóng trên cả nước. Tiếp
theo đó VinaPhone đã nâng cấp thành công hệ thống mạng di động trả trước

từ công nghệ SN (Service Node) của Comverse lên công nghệ mạng thông
minh IN (Inteligent Network) của Ericsson. Đồng thời VinaPhone cũng đưa ra
các dịch vụ giá trị gia tăng hấp dẫn như dịch vụ tải hình ảnh, logo, âm
chuông, dịch vụ Wap (Wireless Application Protocol). Dịch vụ mới VinaDaily
(thuê bao di động trả trước theo ngày) đã được ra đời với mục tiêu phổ cập
dịch vụ di động tới mọi tầng lớp khách hàng. Một trong những thành tựu đạt
được trong năm 2002 là sự kiện mạng VinaPhone chào đón thuê bao di động
thứ 1.000.000.
Tính đến tháng 6/2003, VinaPhone đã phát triển được 1.456.000 thuê
bao, trở thành mạng điện thoại di động có lượng thuê bao lớn nhất Việt Nam.
Và con số này vào cuối năm 2003 là 1700000 thuê bao. Bước sang năm 2004,
thị trường dịch vụ điện thoại di động Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn với sự
gia nhập của tân binh Viettel. Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho
vinaphone, tuy nhiên đến hết năm 2004 Vinaphone vẫn hoàn thành kế hoạch
phát triển thêm 1,1 triệu thuê bao mới, đạt 2800000 thuê bao. Trong năm
2006, mặc dù có sự cạnh tranh quyết liệt, Vinaphone vẫn phát triển thêm hơn
1,7 triệu thuê bao thực, đạt 120% kế hoạch được giao. Tính đến hết năm
2006, mạng Vinaphone có hơn 5,3 triệu thuê bao. Hiện, Vinaphone đã có 9,4
triệu thuê bao. Năm 2008, Vinaphone phấn đấu đạt hơn 10.000 trạm BTS và
gần 20 triệu thuê bao.
Biểu đồ tăng trưởng thuê bao Vinaphone từ 1996 đến 4/2008
Nguồn:
2.4 Mạng di động SFone
SFone là mạng mạng điện thoại di động sử dụng công nghệ CDMA của
công ty Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài gòn (SPT). Sự ra
đời của SFone vào năm 2003 ghi nhận một dấu mốc quan trọng đối với ngành
viễn thông di động nước ta vì nó góp phần phá vỡ thế độc quyền lâu nay của
đại gia VNPT. Ngoài ra, trên thực tế Sfone cũng là mạng ĐTDĐ đầu tiên ở
Việt Nam sử dụng công nghệ CDMA - có dung lượng và tốc độ truyền dữ liệu
cao (144 Kbps). Với CDMA, người sử dụng có nhiều tiện ích về chất lượng

cuộc thoại, bán kính phủ sóng và khả năng chống nhiễu tốt... Dịch vụ nổi trội
của Sfone là vừa bảo mật thông tin vừa hạn chế khả năng bị trộm máy, bởi
công nghệ CDMA không dùng Sim, mỗi máy chỉ có một mã sản xuất duy
nhất.
Chính thức gia nhập thị trường ngày 1/7/2003, theo tính toán ban đầu
SFone sẽ thu hút được khoảng 100000 thuê bao, song tốc độ phát triển đã
không được như dự kiến này bởi cho đến cuối tháng 9 số khách hàng của
SFone mới chỉ có 15000. Nhưng kể từ ngày 1/5/2004, khi S Fone thực hiện
chính sách mới được tự định giá cước và cùng với việc áp dụng một mức
cước thống nhất trên phạm vi toàn quốc khiến cước gọi liên tỉnh còn có thể rẻ
hơn cả cước điện thoại cố định đã đẩy tốc độ phát triển thuê bao của S-Fone
đã tăng lên rõ rệt. Tính đến hết năm 2004, SFone đã có 165000 khách hàng
vượt 26% so với kế hoạch đề ra, đồng thời đoạt Cúp vàng thương hiệu trong
cuộc bình chọn Thương hiệu uy tín chất lượng qua mạng thương hiệu Việt
năm 2004. Liên tục phát triển cở sở hạ tầng, mở rộng vùng phủ sóng và
những chiến lược giảm giá, khuyến mãi trong năm 2005 đã nâng lượng thuê
bao của SFone lên con số hơn 400000 cùng giải thưởng “Nhà cung cấp mạng
ĐTDĐ tốt nhất năm 2005" do tạp chí e-CHIP Mobile thực hiện trên toàn
quốc. Tuy vậy, từ khi thị trường viễn thông Việt Nam có thêm sự góp mặt của
mạng Viettel thì sự cạnh tranh giữa các mạng trở nên gay gắt hơn. Nhiều
người đã hoài nghi rằng liệu trong thị trường viễn thông cạnh tranh như vậy
thì không biết bao giờ SFone đạt 1 triệu thuê bao. Song, với mục tiêu tạo bứt
phá trong triển khai công nghệ CDMA tiên tiến tại thị trường thông tin di
động Việt Nam, đem lại cho NTD nhiều lợi ích thiết thực hơn, trong những
tháng đầu năm 2006, S-Fone đã nhập về toàn bộ thiết bị cho các tỉnh còn lại
trong kế hoạch hoàn tất phủ sóng 64/64 tỉnh thành trên cả nước. Sau hơn 3
năm đi vào hoạt động, SFone tự hào đã thiết lập được hệ thống cơ sở hạ tầng
cho mạng di động 095 tại 64 tỉnh thành trong cả nước và đạt hơn 1,5 triệu
thuê bao tích lũy. Năm 2006 cũng ghi nhận thành công của SFone trong việc
triển khai truyền hình trên di động. Nỗ lực này của S-Fone cũng góp phần đưa

Việt Nam trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới khai thác dịch vụ truyền hình
trên điện thoại di động. Đây là 1 trong 10 sự kiện CNTT-TT nổi bật năm 2006
do Bộ BCVT bình chọn. Bước sang năm 2007, thị trường viễn thông Việt
Nam chào đón người em út CDMA HT Mobile với chương khuyến mãi kiểu
“dội bom tấn” làm cho sự canh tranh trong công nghệ CDMA thật sự gay gắt.
Tuy nhiên, người anh cả dòng họ CDMA – Sfone vẫn kiên cường phát triển
bằng những nỗ lực không ngừng nghỉ của mình và công bố đạt hơn 3 triệu
thuê bao vào cuối năm 2007 cũng “Cúp vàng chất lượng hội nhập” cho nhóm
dịch vụ cao cấp công nghệ 3G do Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam trao tặng.
Biểu đồ tăng trưởng thuê bao SFone từ 2003 đến 2007
Nguồn:
2.5 Mạng di động E – Mobile
Sau gần 2 tháng thử nghiệm cung cấp dịch vụ trên toàn quốc, ngày
5/5/2006 E – Mobile đã chính thức gia nhập thị trường viễn thông di động
Việt Nam với đầu số 096. E – Mobile là mạng điện thoại di động sử dụng
công nghệ CDMA của công ty Viễn thông điện lực EVN Telecom. Với lợi thế
về cơ sở hạ tầng cùng chiến dịch quảng bá rộng khắp và giá cước thấp nên tuy
là tân binh song mạng 096 đã nhanh chóng được thị trường đón nhận. Ngoài
ra, E-Mobile cũng đã hoàn thành việc lắp đặt các trạm BTS tại 64/64 tỉnh,
thành trong cả nước và kết nối với mạng 098, 090, 091 và 095. Do vậy nên
tính đến hết năm 2006, mạng 096 đã thu hút được 702.446 thuê bao, đạt
doanh thu 1.084 tỷ đồng. Bước sang năm 2007, thị trường viễn thông di động
Việt Nam lại chứng kiến sự gia nhập của HT Mobile – Người “em út” dòng
CDMA làm cuộc chiến về giá cũng như dịch vụ giữa các mạng di động trở
nên quyết liệt hơn. Về phần mình với những giải pháp đầu tư nâng cao chất
lượng mạng và dịch vụ như nâng dung lượng hoặc lắp đặt thêm các trạm BTS
tại khu vực chất lượng phủ sóng kém, mật độ thuê bao cao, giảm tối đa hiện
tượng nghẽn mạng và rớt sóng, không ngừng nâng cao chất lượng hệ thống
chăm sóc khách hàng, sửa chữa thiết bị đầu cuối… nên E – Mobile vẫn duy

trì mức tăng trưởng như dự kiến. Kết thúc năm 2007, mạng 096 đã có được
2,39 triệu khách hàng và đạt 1.668 tỷ doanh thu, chiếm tỷ trọng 60,6% doanh
thu viễn thông của cả năm. Theo kế hoạch dự kiến thì trong năm 2008 tới,
EVN Telecom sẽ cố gắng phát triển mạng 096 đạt 4 triệu thuê bao.
2.6 Mạng di động HT Mobile
HT Mobile là tên thương hiệu mạng điện thoại di động của dự án
CDMA2000 giữa Hanoi Telecom và Hutchison. HT Mobile chính thức ra mắt
thị trường viễn thông di động Việt Năm vào đầu năm 2007 (15/1/2007) với tư
cách là “người em út” của dòng CDMA. Rút kinh nghiệm từ các mạng di
động đi trước tại thị trường Việt Nam, HT Mobile đã phải chờ phủ sóng tới 64
tỉnh thành rồi mới cung cấp dịch vụ chứ không cung cấp theo kiểu “ăn non”.
Trước đó, từ ngày 20 tháng 11 năm 2006, Hanoi Telecom đã đưa ra chiến dịch
thử nghiệm mang tên “Chào đón một thế giới FREE” áp dụng tại 3 thành phố
lớn Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh nhằm thăm dò sự hài lòng
của khách hàng, nồng nhiệt đón nhận những nhận xét, góp ý thẳng thắn để
hoàn thiện tất cả các nội dung trước khi đưa sản phẩm vào hoạt động một
cách chính thức tại thị trường Việt Nam. Với tổng vốn đầu tư 600 triệu USD
cùng những kế hoạch phát triển lâu dài, chiến lược về giá cước và khuyến mãi
HT Mobile đặt ra mục tiêu đạt 1 triệu thuê bao trong năm 2007 cũng như thực
hiện đúng triết lý kinh doanh “Phục vụ khách hàng tốt hơn”. Song kết quả lại
không như các nhà quản lý mong đợi. Mặc dù đã chuẩn bị khá tốt về mọi mặt
cả cơ sở hạ tầng, công nghệ lẫn các chiến lược Marketing nhưng lại khai sinh
vào đúng thời điểm bão dông của thị trường cạnh tranh khốc liệt khi ba mạng
GSM đã chiếm đến hơn 90% thị phần nên gặp khó khăn là điều không thể

×