Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.88 KB, 56 trang )

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1 Thời cơ và thách thức đối với việc thành lập của Hội, Hiệp hội khi Việt
Nam hội nhập Kinh tế quốc té.
3.1.1 Thời cơ
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhất là khi Việt Nam là thành viên
của WTO là một thời cơ mới cho các Hiệp hội tăng cường các dịch vụ của mình
trong lĩnh vực xúc tiến thương mại thúc đẩy thị trường xuất khẩu.
Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự
do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng
nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc
thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.
Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số
ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO
rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại.
Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối
với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ
được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các
nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng
đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào
phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như
Việt Nam. Vì vậy, đây cũng chính là cơ hội cho các Hiệp hội phát triển các loại hình
dịch vụ thâm nhập thị trường cũng như các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp
phát triển, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp đối với thị trường nước ngoài.
Thứ hai đó là cơ hội phát triển các dịch vụ, đào tạo để nâng cao tính hiệu quả
và sức cạnh tranh cho ngành, lĩnh vực mà Hiệp hội đó phụ trách. Giảm thuế, cắt giảm
hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở
nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp
trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện
mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra,


giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp
cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức
cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.
Thứ ba đó là cơ hội sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Môi
trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng
hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải
đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp
bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá…
Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước
ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết
tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn,
đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã
thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. Như vậy, Hiệp hội sẽ có điều kiện tham
gia vào nhiều vụ tranh chấp mà được sử dụng cơ chế giải quyết của WTO.
3.1.2 Thách thức
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các Hiệp hội sẽ chịu nhiều hơn về
sức ép cạnh tranh giữa các Hiệp hội với nhau.
Cùng với môi trường cạnh tranh ngành giữa các doanh nghiệp ngày càng khắc
nghiệt thì việc cạnh tranh giữa các Hiệp hội cũng không kém phần gay gắt. Trên thực
tiễn, Hiệp hội nào có khả năng phát huy được tối đa các chức nang của mình và có
chế độ duy trì hội viên hợp lý sẽ tồn tại. Mặt khác, Hội nhập kinh tế sẽ dần xóa bỏ vai
trò bao cấp của Nhà nước với một số Hội, Hiệp hội có cơ quan chủ quản là các doanh
nghiệp nhà nước, các Hiệp hội đó cần phải có phương hướng hoạt động thích hợp,
đổi mới tư duy sao cho phù hợp với thời buổi hội nhập.
Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ
cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, việc bố trí là duy trì được đội
ngũ cán bộ và lãnh đạo có chuyên môn, có năng lực lãnh đạo hội là rất khó khăn. Đây
là thách thức hết sức to lớn. Hiệp hội chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có
chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng

nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải
pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn.
Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền
hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ
cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách
thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh
nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu
không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài
hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức
này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của
WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập,
ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu.
3.2 Định hướng hoạt động của các Hiệp hội
3.2.1 Định hướng chiến lược
Về lâu dài, các Hiệp hội cần được phát triển theo hướng “chuyên nghiệp hoá”
các hoạt động và dịch vụ. Hầu hết các Hiệp hội đa ngành và đơn ngành lớn đều có
các bộ phận chức năng phụ trách việc phát triển hội viên, đào tạo và cung cấp thông
tin. Một số Hiệp hội còn có các hoạt động tư vấn, xúc tiến thương mại và vận động
chính sách. Tuy nhiên, nhiều hoạt động hiện được tiến hành tự phát, không có kế
hoạch. Ngoài các hoạt động như hiện nay, các Hiệp hội doanh nghiệp cần chuyển
hướng phát triển những sản phẩm chính của mình trong các lĩnh vực này. Những sản
phẩm này phải đáp ứng chính xác nhu cầu và mong muốn của hội viên, và hội viên sẽ
phải trả phí dịch vụ được Hiệp hội cung cấp. Ví dụ, bộ phận đào tạo nên có một số
khoá đào tạo căn bản quan trọng thực hiện thường kỳ và thêm vào đó là những bài
giảng và hội nghị chuyên đề; bộ phận thông tin phải có bản tin gửi đều đặn cho hội
viên; bộ phận xúc tiến thương mại cần chủ động trong hoạt động của mình chứ không
chỉ chờ đợi khách hàng tìm đến; và bộ phận chính sách pháp luật phải thường xuyên
tiến hành nghiên cứu phục vụ mục đích vận động chính sách của Hiệp hội. Đó là

hướng phát triển truyền thống của các Hiệp hội lớn trên thế giới. Còn những câu lạc
bộ nhỏ nên tiếp tục tập trung vào chức năng giao lưu, mở rộng quan hệ hợp tác và
chia sẻ thông tin.
Tuy nhiên, để thực hiện được những yêu cầu trên, Chính phủ cần sớm tổ chức
nghiên cứu để xây dựng luật về tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiêp,
nhằm thay thế các văn bản pháp luật trước đây đã lỗi thời và không còn phù hợp.
Trong điều kiện chưa thể ban hành ngay luật thì phải có những pháp lệnh hoặc ít nhất
là một nghị định của Chính phủ về các Hiệp hội doanh nghiệp. Chính phủ cần giao
cho các Hiệp hội nghiên cứu và thực hiện một số chương trình đề án có tính chất dịch
vụ công như thiết lập các công cụ hỗ trợ thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp, tư vấn, đào
tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, cấp chứng chỉ nghề nghiệp, xuất xứ
hàng hoá, các chứng từ thương mại quốc tế, thực hiện việc đăng ký kinh doanh, đăng
ký tên thương mại, tham gia vào các hội đồng xét thầu… Ngoài ra Chính phủ có thể
chỉ định một số Hiệp hội tiến hành những dự án với mục đích phát triển công nghệ,
sản phẩm và thị trường mới.
Trước mắt, các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam nên tìm sự hỗ trợ tài chính.
Khi các Hiệp hội lớn mạnh thêm thì tài trợ giảm. Nên đặt ra kế hoạch thời gian cụ thể
giảm dần sự hỗ trợ, để cho Hiệp hội tăng sự tự lực trong một thời gian tương đối
ngắn.
Cải thiện môi trường pháp lý để cho phép các Hiệp hội doanh nghiệp được
thành lập, phát triển và thực hiện những chức năng chính của mình. Tuy nhiên, khi
tiến hành xây dựng những quy định mới về các Hiệp hội doanh nghiệp, sẽ rất có ích
nếu Chính phủ tham khảo những chuẩn mực và thông lệ của quốc tế trong lĩnh vực
này. Nhìn chung, kinh nghiệm của các nước khác cho thấy các luật, quy định và hệ
thống quản lý đối với các Hiệp hội vừa phải hợp lý và tránh sự lạm dụng, vừa đảm
bảo hạn chế gánh nặng kìm hãm sự ra đời của các Hiệp hội cũng như cản trở việc
thực hiện các hoạt động hợp lý của họ.
3.2.2 Định hướng cụ thể
Thứ nhất, đó là cần phải xây dựng một cơ cấu tổ chức vững mạnh của Hiệp
hội. Cấu trúc của Hiệp hội là cơ cấu tổ chức của nó mà dựa vào đó người ta xây dựng

các chương trình dự án. Tất cả các Hiệp hooij đều có cấu trúc riêng mình, tuy nhiên
có thể xác định một số yếu tố chung trong tất cả các Hiệp hội: Hội viên, ban giám
đốc, ủy ban điều hành, quan chức, ủy ban và đội ngũ cán bộ.
Thứ hai là việc thiết lập nền tảng ủng hộ vững vàng từ các hội viên của Hiệp
hội. Những hội viên năng động, tận tâm và đầy nhiệt huyết là nền tảng tạo nên thành
công cho hiệp hội. Các hội viên phải sẵn lòng đầu tư thời gian, tiền bạc, sức lực vì
một sự nghiệp chung trong việc xây dựng một tổ chức vững mạnh, tồn tại với thời
gian. Nếu các Hiệp hội kinh doanh muốn phát triển, muốn hoạt động hiệu quả, và
quan trọng nhát muốn đạt được những thành tựu giúp ích cho xã hội thì cốt lõi chi
phối thành công của họ chính là sự ủng hộ tự nguyện từ phía các thành viên của tổ
chức. Trong thực tế, Hiệp hội chính là một nền dân chủ thu nhỏ, hoạt động vì lợi ích
của các thành viên. Vì vậy, việc thu hút thêm hội viên và tuyển dụng hội viên mới là
nền tảng dẫn tới thành công của hiệp hội.
Thứ ba đó là việc xây dựng nền tảng tài chính vững mạnh.Hiệp hội trên quốc
tế mạnh vì độc lập về tài chính. Ở một số nước châu Âu, hiệp hội DN hoạt động làm
ăn rất hiệu quả tạo được lòng tin của hội viên, vì thế ngân sách của hiệp hội được
đóng góp chủ yếu từ sự tự giác của các hội viên; hiệp hội không nhận trợ cấp của
Chính phủ, để được hoàn toàn độc lập. Khi tài chính ổn định thì càng thu hút hội viên
đóng góp. Tiền là một trong ba yếu tố quan trọng nhất của HH.
Thứ tư là thiết kế các chương trình thông tin hiệu quả. Một hiệp hội có thể tổ
chức hiệu quả nhất ở một quốc gia. Nhưng nếu không ai biết đến những đóng gớp
tích cực của hiệp hội cho nền kinh tế và cho xác hội thì hiệp hội không thể phát huy
hết tiềm lực của mình và thậm chí còn đi đến chỗ diệt vong. Thông tin đúng đắn
không chỉ có tác dụng bán được sản phẩm, dịch vụ mà còn nâng cao được sức mạnh
của các doanh nghiệp. Sức mạnh nghĩa là năng lực đạt được những mục tiêu mong
muốn, có thể tạo ra lợi nhuận, hoàn thành các chương trình hành động của chính phủ,
thu hút thêm hội viên và đạt được những mục tiêu quan trọng. Nếu hiệp hội tạo ra
được thông tin có lợi cho mình phù hợp với mong ước và nguyện vọng của công
chúng thì việc xin phê duyệt công trình và dự án, kêu gọi ủng hộ cho các quan điểm
chính sách và thu hút, giữ chân hội viên sẽ trở nên dễ dàng thuận lợi. Nếu các hội

viên tiềm năng và công chúng hiểu được hiệp hội đang hoạt động vì lợi ích chung
cho quốc gia và không vì lợi ích cá nhân thì uy tín của hội sẽ tăng lên đáng kể. Uy tín
này, có thể tạo ra tầm ảnh hưởng đối với chính giới, giúp hội đạt được thêm các mục
tiêu khác dễ dàng.
Thứ năm là việc xây dựng các chương trình vận động chính sách công. Trong
một nền kinh tế thị trường dân chủ, vai trò của hiệp hội là đảm bảo rằng chính phủ
khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp. Một tổ chức ưu việt phải xây dựng
được chương trình chương trình hành động nhằm vào việc xác định phân tích, và cải
tiến những luật và quy chế có ảnh hưởng tới hội viên.
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3.3.1.Giải pháp về phía nhà nước
Đối với nhà nước việc tạo sự đột phá trong cải cách hành chính, thủ tục xin
gia nhập Hội là một vấn đề cần thiết. Nhưng trong thực tế, các thủ tục thành lập hội
còn quá rườm già. Trong những năm qua, thủ tục hành chính trong việc thành lập Hội
dường như chưa có sự thay đổi cơ bản nào, thậm chí sự trì trệ ngày càng gia tăng, có
những hội sinh hoạt được vài năm rồi mà vẫn chưa được thông qua thủ tục thành lập
hội. Vì vậy, cần tập trung rà soát lại toàn bộ các thủ tục hành chính, xác định rõ
những bất hợp lý để xây dựng quy trình xử lý một cách khoa học nhất, đơn giản nhất
và thuận tiện nhất cho việc thành lập hội. Nhà nước cần công khai hóa các quy trình
và có hướng dẫn cụ thể cho các Hội thực hiện quy trình đã định.Cần nâng cao tinh
thần trách nhiệm đi đôi với nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, rèn luyện tính
chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức nhà nước và kiên quyết xử lý nghiêm khác
những công chức nhà nước có thái độ hành xử không đúng mực với cán bộ Hội khi
làm thủ tục. Ngoài ra, việc nghiên cứu, tổ chức lại hệ thống bộ máy quản lý nhà nước
các cấp trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước có nền hành chính văn minh,
hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật và kinh tế đối ngoại phù hợp với pháp luật và
thông lệ thương mại quốc tế, tham gia vào các công ước có liên quan đến thương mại
quốc tế. Trong những năm đầu của thế kỷ này, việc hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý

cho các hoạt động ngoại thương cần xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý sau:
+ Quy chế về mở cửa hàng, lập chi nhánh công ty ở nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
+ Quy chế về hội chợ, triển lãm và quảng cáo thương mại trong và
ngoài nước.
+ Quy chế về đại lý bán hàng của nước ngoài tại Việt Nam.
+ Quy chế về hình thức kinh doanh tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để
tái nhập và hình thức kinh doanh chuyển khẩu.
+ Quy chế về quá cảnh hàng hoá.
+ Quy chế uỷ thác và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá cho các
doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
+ Quy chế về giám định hàng hoá xuất, nhập khẩu.
+ Những quy chế về đầu tư để hỗ trợ thêm cho luật đầu tư.
+ Các loại quy chế, thể lệ điều chỉnh hoạt động ngân hàng ngoại
thương Việt Nam.
+ Rà soát lại Luật Hải quan và các văn bản quy định dưới luật vì một
số điều khoản của luật này còn cản trở các hoạt động ngoại thương, chưa khuyến
khích xuất, nhập khẩu.
- Tăng cường sự phối kết hợp giữa hội hơn nữa trong việc hoạch định chính
sách, cơ chế và xây dựng các văn bản pháp luật .
Một trong những vấn đề khá nổi cộm hiện nay là thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các hội trong việc ban hành các văn bản về chính sách, cơ chế và pháp lý có liên
quan. Sự đơn phương và riêng rẽ của một số Bộ, ngành trong việc ban hành các văn
bản pháp lý cũng như quyết định điều hành nền vĩ mô sản xuất - kinh doanh của các
ngành có liên quan đến định hướng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu
kết hợp với thay thế nhập khẩu đã một mặt chỉ tính đến lợi ích toàn cục của nền kinh
tế. Mặt khác, làm giảm hiệu lực điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước, giảm
hiệu quả của chính các văn bản pháp lý đó. Vì thế, tăng cường sự phối hợp giữa các
bộ, ngành và các Hiệp hội doanh nghiệp trong việc ban hành các văn bản pháp lý,
chính sách và các quyết định quản lý, điều hành vĩ mô các hoạt động kinh tế… được

coi là một điều kiện, biện pháp vĩ mô để tiếp tục hoàn chỉnh các công cụ chính sách
phát triển kinh tế.
Phát huy có hiệu quả vai trò kinh tế của Nhà nước thích ứng với yêu cầu của
hội nhập, Nhà nước cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và
doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, trước hết Nhà nước phải thúc đẩy thị trường
phát triển theo đúng quy luật vốn có. Nhà nước phải thực sự là “người bảo vệ” cho
các doanh nghiệp hoạt động chỉ đạo gián tiếp thông qua các Hiệp hội doanh nghiệp.
Ngoài ra., nhà nước cần có chiến lược đào tạo nhân lực tạo điều kiện cho
doanh nghiệp hoạt động. Các doanh nghiệp nước ta hiện nay, đặc biệt là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, phần lớn được quản lý, điều hành bởi các nhà doanh
nghiệp. Do chủ trương trẻ hoá đội ngũ lãnh đạo trong khu vực doanh nghiệp nhà
nước và do các doanh nghiệp dân doanh mới thành lập hầu hết do những người trong
độ tuổi 30 - 40 quản lý. Sức cạnh tranh của nền kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp, hiệu quả này lại phụ thuộc vào năng lực điều hành của
đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp. Cho nên chăm lo xây dựng đội ngũ các nhà doanh
nghiệp nước ta chính là chăm lo cho sự phát triển của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, ở
địa phương nào lãnh đạo quan tâm tạo điều kiện cho sự phát triển của đội ngũ doanh
nhân, ở nơi đó xuất hiện nhiều nhà doanh nghiệp trẻ xuất sắc và kinh tế địa phương
đó phát triển. Ngược lại, có những địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
phát triển kinh tế, nhưng do thiếu sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo địa
phương, đội ngũ doanh nhân thường yếu, vắng bóng các nhà doanh nghiệp trẻ thành
đạt và kinh tế địa phương cũng phát triển chậm.
Việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành về tầm quan trọng
của công tác xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp phải được đưa lên là một vấn đề
tiên quyết đảm bảo cho sự phát triển ổn định của lực lượng doanh nhân và của cả nền
kinh tế nước ta. Để giải quyết triệt để vấn đề này, cần có chủ trương và sự chỉ đạo
trực tiếp của Đảng.
Khi đội ngũ doanh nghiệp phát triển, có đầy đủ kiến thức kỹ năng về quản lý,
kỹ thuật và sẵn sàng hội nhập thì việc phát triển các hội viên của Hiệp hội mới dễ
dàng. Bên cạnh đó, việc thu phí hội viên sẽ tiến hành trên cơ sở tự nguyên hơn vừa

tạo lợi ích cho hội viên vừa đem lại nhiều chương trình hoat động cho các Hiệp hội
3.3.2 Giải pháp về phía Hiệp hội
Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực
Một nguyên nhân quan trọng làm cho các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam
hoạt động chưa hiệu quả dẫn tới chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập là do lực lượng
cán bộ còn yếu kém về năng lực và trình độ. Hầu hết là được đào tạo trong thời kỳ
nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vì vậy, rất lúng
túng khi chuyển sang hoạt động kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường, trong môi
trường luật pháp sơ khai, không đồng bộ. Khả năng phân tích và hoạch định chương
trình của cán bộ là rất yếu. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ đào tạo đội ngũ cán
bộ vừa có trình độ, năng lực chuyên môn cao, vừa có phẩm chất đạo đức tốt:
- Nhanh chóng nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ am hiểu về
pháp luật và bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ theo cơ chế thị trường thông qua đào tạo
và đào tạo lại.
- Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và thực hiện luân phiên cán
bộ thanh tra để hạn chế những hiện tượng tiêu cực
- Thường xuyên trau dồi đạo đức, tác phong làm việc khoa học
Bên cạnh việc nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, hiện đại hoá
cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng khả năng hội nhập Quốc tế cũng là một yêu cầu
rất cấp bách. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động của các Hiệp
hội, đặc biệt là hệ thống các Hiệp hội lớn đã được hiện đại hoá, tuy nhiên còn thấp so
với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và còn khoảng cách khá xa so với khu vực
và thế giới. Vì vậy, cần có các giải pháp hiện đại hoá cơ sở vật chất nhằm tiến tới hội
nhập với khu vực và thế giới. Trong đó, đặc biệt cần hiện đại hoá hệ thống thông tin.
Chính vì thiếu thông tin và khả năng trao đổi thông tin giữa các tổ chức hạn chế dẫn
đến khả năng phân tích và triển khai các hoạt động của Hiệp hội không hiệu quả. Do
đó, cần phải có giải pháp xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, nối mạng thông suốt
giữa các chủ thể tham gia hoạt động.
Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thương hiệu và nâng
cao năng lực cạnh tranh

Hiệp hội cũng cần có các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá thương hiệu
Việt Nam rộng khắp trong nước cũng như tại thị trường nước ngoài để người tiêu
dùng biết đến các thương hiệu Việt Nam nhiều hơn nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh
tranh của thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cụ thể:
- Hỗ trợ doanh nghiệp quảng cáo thương hiệu qua nhiều kênh khác nhau như:
quảng cáo trên website, quảng cáo thông qua các ấn phẩm, đĩa CD, video của Cục
xúc tiến Thương mại, qua các Trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài,
quảng cáo trên các báo Việt Nam xuất bản bằng tiếng Anh, các báo kinh tế có phát
hành ra nước ngoài. Kết hợp với Đài truyền hình Việt Nam quảng cáo trên kênh
VTV4 nhằm vào đối tượng Việt kiều. Tiến tới, quảng cáo trên các tạp chí kinh tế,
thương mại của khu vực và thế giới.
- Kết hợp với Vietnam Airlines, Tổng cục Du lịch xây dựng một chương trình
quảng cáo Thương hiệu quốc gia và các thương hiệu nổi tiếng Việt Nam tới khách du
lịch nước ngoài.
- Quảng cáo Thương hiệu quốc gia qua các sự kiện thể thao văn hoá trong
nước và quốc tế.
- Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các cuộc triển lãm và tiếp thị quốc tế. Việc nhà
nước đứng ra hỗ trợ tổ chức hội chợ triển lãm hoặc tham gia triển lãm quy mô lớn sẽ
tạo được hình ảnh chung và gây được tiếng vang cho các thương hiệu hàng hoá Việt
Nam.
Bên cạnh vấn đề về hàng nhái, hàng giả thì việc doanh nghiệp bị đăng ký mất
thương hiệu ở nước ngoài cũng là vấn đề mà Hiệp hội cần lưu ý. Để tránh tình trạng
này, trước tiên, Hiệp hội phải tăng cường khuyến cáo các doanh nghiệp nên nhanh
chóng đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài, ở những nước hiện chưa xuất khẩu tới nhưng
sẽ có tiềm năng trong tương lai. Cung cấp thông tin về luật pháp các nước, về thị
trường ngoài nước để doanh nghiệp có được cái nhìn đầy đủ và làm tốt hơn vấn đề
đăng ký thương hiệu ở nước ngoài. Hiệp hội nên trợ giúp doanh nghiệp trong việc
chuẩn bị hồ sơ và làm thủ tục đăng ký.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã tham gia Công ước Stockholm, trở thành
thành viên của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới từ năm 1976; Công ước Paris về bảo

hộ sở hữu công nghiệp từ năm 1949; Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn
hiệu hàng hóa từ năm 1949; Hiệp ước Washington về Hợp tác Patent từ năm 1993.
Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp luật dưới dạng Bộ luật, Nghị định,
Thông tư để quản lý các vấn đề liên quan tới nhãn hiệu sản phẩm. Bên cạnh đó, các
cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài cần tăng cường hỗ trợ bảo
hộ cho thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam bằng cách theo dõi tình hình, khi
thấy có tình trạng xâm phạm thương hiệu thì kịp thời thông báo cho doanh nghiệp
biết và phối hợp tìm biện pháp xử lý.
Tình trạng chung của các doanh nghiệp hiện nay là thiếu thông tin về thị
trường, về khách hàng, đặc biệt là thông tin về thị trường nước ngoài. Các cơ quan
xúc tiến thương mại của Nhà nước phối hợp với Hiệp hội cần tích cực tìm hiểu thông
tin về thị trường, về nhu cầu của khách hàng, về môi trường kinh doanh và các yếu tố
văn hoá ảnh hưởng tới kinh doanh … và nhanh chóng chuyển những thông tin ấy đến
các doanh nghiệp. Có được sự hỗ trợ thông tin ấy, doanh nghiệp sẽ đưa ra được chiến
lược xây dựng và quảng bá cho các nhãn hiệu của mình cho phù hợp với từng thị
trường khác nhau. Các cơ quan xúc tiến thương mại cũng có thể giúp các doanh
nghiệp quảng bá nhãn hiệu sản phẩm thông qua các hoạt động như hội chợ, triển lãm,
tổ chức những ngày hội hàng Việt Nam tại nước ngoài.
Ngoài ra, Hiệp hội cũng nên hỗ trợ doanh nghiệp bằng các chương trình đào
tạo (như tập huấn, hướng dẫn kỹ năng xây dựng và quảng bá nhãn hiệu, tổ chức các
buổi hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về nhãn hiệu...) cho các doanh nghiệp để
họ có thể tiếp cận với những kiến thức mới một cách có hệ thống và đầy đủ. Nhiều
doanh nghiệp Việt Nam hiện còn yếu về chiến lược xây dựng nhãn hiệu cũng là do họ
chưa hiểu biết đầy đủ về vấn đề này, chưa có nhiều kinh nghiệm nên không biết phải
bắt đầu từ đâu.
Các cơ quan quản lý nhà nước cũng có thể gián tiếp trợ giúp doanh nghiệp
trong việc xây dựng và phát triển nhãn hiệu sản phẩm bằng cách hỗ trợ nâng cao tính
chuyên nghiệp và chất lượng dịch vụ của các cơ quan chuyên nghiệp về tư vấn (các
tổ chức xúc tiến của Nhà nước và lực lượng dịch vụ, tư vấn của tư nhân) để đáp ứng
hiệu quả hơn nữa nhu cầu của doanh nghiệp .

Tăng cường hoạt động nghiên cứu và xúc tiến thương mại
Hoạt động nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại là một hoạt động rất
quan trọng nhằm xâm nhập, mở rộng thị trường và tổ chức các hoạt động kinh doanh
cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Để tăng cường các hoạt động này,
hiệp hội cần áp dụng những biện pháp sau:
- Tăng cường các hoạt động khảo sát thị trường
Để trực tiếp đi khảo sát thị trường nước bạn, hiệp hội có thể tự thành lập đoàn
khảo sát hoặc tham gia các đoàn khảo sát thị trường do các cơ quan quản lý của Nhà
nước, của các tỉnh thành, hoặc do các tổ chức hỗ trợ phát triển thương mại, các tổ
chức xúc tiến thương mại tổ chức. Dù tiến hành theo hình thức nào thì hiệp hội cũng
phải lập một kế hoạch khảo sát cụ thể từ việc lựa chọn đoàn khảo sát, mục đích và
yêu cầu cần phải đạt được, biện pháp và cách thức tổ chức tiến hành…Sau mỗi một
lần tổ chức đều phải đánh giá rút kinh nghiệm cho các lần sau.
Khảo sát thị trường nước ngoài là một vấn đề khó khăn và phức tạp đối với
các doanh nghiệp. Trước mắt, tuỳ vào quy mô của Hiệp hội mà lựa chọn hình thức,
quy mô đoàn khảo sát, thời gian và quy mô thị trường khảo sát cho phù hợp với
doanh nghiệp. Từ đó làm cơ sở tăng dần quy mô cho các lần khảo sát tiếp theo.
- Tăng cường các hoạt động khảo sát thị trường
Nhu cầu về thông tin của thị trường bao gồm:
+ Các thông tin về thị trường thế giới và khu vực nói chung
+ Các thông tin về thị trường nước láng giềng như thông tin về luật pháp, về
phát triển kinh tế, về chính sách xuất nhập khẩu, giá cả, nhu cầu hàng hoá của nước
bạn, hệ thống thanh toán, hệ thống cơ sở hạ tầng và các thông tin về doanh nghiệp
nước bạn.
+ Các thông tin về thị trường Việt Nam
Các kênh thông tin mà Hiệp hội có thể thu thập ngoài các nghiên cứu khảo sát
thị trường còn có thể qua báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, qua các hội
chợ triển lãm, các cuộc hội thảo, qua các văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở
nước ngoài, qua các tổ chức xúc tiến thương mại, qua hệ thống khách hàng, và Việt
kiều ở nước láng giềng…Các thông tin này phải được cập nhật thường xuyên, đầy

đủ, chính xác và kịp thời.
- Tham gia các cuộc hội thảo chuyên đề có liên quan đến hoạt động thương mại với thị
trường các nước để hiểu biết thêm về thị trường, về kinh nghiệm phát triển và mở
rộng thị trường, về phương thức kinh doanh…Đây là diễn đàn để các doanh nghiệp
trao đổi, học tập và bổ sung kiến thức để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
- Thực hiện các chiến lược quảng cáo trên thị trường nước bạn. Hình thức này rất phù
hợp với các doanh nghiệp có những mặt hàng truyền thống xuất khẩu sang các nước
láng giềng. Thực hiện quá trình quảng cáo sẽ tạo uy tín cho doanh nghiệp và nhãn
hiệu của doanh nghiệp. Điều này có tác dụng to lớn và lâu dài trong sự phát triển hoạt
động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
3.3.3 Giải pháp về phía doanh nghiệp
Thứ nhất, mỗi doanh nghiệp cần chọn cho mình một chiến lược kinh doanh
đúng đắn trong điều kiện mới Hiện nay, Chính phủ đã công khai các ngành, các lĩnh
vực ưu tiên phát triển, công khai lộ trình hội nhập, nhất là lộ trình thuế. Vì vậy, doanh
nghiệp cần nắm chắc chắc các nội dung đó để có định hướng, chiến lược phát triển,
tự xác định những lợi thế và thách thức đối với chính mình. Xây dựng chiến lược
kinh doanh cũng có nghĩa là xác định cho doanh nghiệp hướng đi đúng đắn cho dài
hạn, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Trên cơ sở
đó, doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao
động và hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã
đẹp phù hợp với sở thích người tiêu dùng, theo tập quán từng vùng, từng dân tộc từng
quốc gia. Đây chính là một trong những yếu tố quyết định sự sống còn của doanh
nghiệp trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, mỗi doanh nghiệp phải có mối quan hệ mật thiết gắn bó với Hiệp hội.
Doanh nghiệp cần chủ động hoàn thiện hệ thống thông tin, áp dụng các công cụ hiện
đại để sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực thông tin cho việc ra quyết định quản
lý. Trong thời đại hiện nay, ngoài nguồn lực truyền thống là nhân lực, vật lực, tài lực,
thông tin chính là nguồn lực thứ tư không thể thiếu đối với doanh nghiệp. Để thúc
đẩy kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống thông tin về môi
trường kinh doanh, về hệ thống phân phối, giá cả hiện hành, tình hình và viễn cảnh

thị trường. Để có được hệ thống thông tin trên, mỗi doanh nghiệp cần phải:
- Xây dựng các kênh thích hợp nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời.
- Liên kết với bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ về thông tin. Xây
dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thong
tin về thị trường có thể dự báo về các biến động của thị trường.
- Áp dụng công nghệ thông tin trong quản trị thông qua việc hòa mạng với hệ
thống thông tin đã có nhằm thu thập thông tin ở thị trường thế giới.
Vì vậy, nếu doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với Hiệp hội, thông tin sẽ
đến nhanh chóng, kịp thời, bớt tốn kém.
Thứ ba, là tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp, xây dựng một đội ngũ lao động có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu kinh
doanh trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của một “thị trường
toàn cầu”. Để có thể đứng vững trước sóng gió cạnh tranh, con tàu doanh nghiệp
cần phải có một đội ngũ cán bộ giỏi. Vì vậy, trong thời gian tới, doanh nghiệp
cần:
- Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có,
phát hiện người có năng lực, bố trị họ vào những công việc phù hợp với ngành
nghề, trình độ và năng lực sở trường, đồng thời bổ xung những cán bộ, lao
động đủ tieue chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán
bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vị phạm pháp luật và
đạo đức.
- Tiêu chuẩn hóa cán bộ lao động theo từng ngành nghề, từng loại công việc và
đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống
tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù Việt Nam.
- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh
nghiệp bằng các chính sách đầu tư cho đào tạo, bảo đảm việc làm ổn định cho
người lao động, xây dựng chế độ thù lao theo hướng khuyến khích người lao
động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
- Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới

và luật lệ thương mại quốc tế.
Thứ tư, hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý, nâng cao kiến thức và tư duy hiện
đại cho đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp. Nước ta đã có những chính sách cụ thể
về đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học, văn hoá, nghệ thuật, thể
thao,... Nhưng chúng ta lại chưa có chính sách đào tạo, bồi dưỡng các tài năng kinh
doanh. Công tác đào tạo tại các trường Đại học cũng chưa sát với yêu cầu thực tế,
cho nên sinh viên khi ra trường thường phải tự học và đào tạo lại mới đáp ứng được
yêu cầu của thực tế kinh doanh.
Để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ các nhà doanh nghiệp trẻ nước
ta, Nhà nước cần nghiên cứu và sớm ban hành chính sách và kế hoạch quốc gia về
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nghiệp trẻ. Đặc biệt cần có chính sách, kế hoạch cụ
thể về các vấn đề:
- Tái đào tạo, tập huấn và bồi dưỡng kiến thức cho các nhà doanh nghiệp trẻ
- Qui hoạch đào tạo, hiện đại hoá chương trình và nội dung đào tạo tại các
trường Đại học, đặc biệt là các chuyên ngành kinh tế, đảm bảo số lượng và chất
lượng sinh viên ra trường phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp
- Phát hiện và bồi dưỡng các tài năng kinh doanh trẻ
KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam là một kết quả tất
yếu của quá trình đổi mới, phát triển kinh tế ở nước ta. Giới doanh nghiệp Việt Nam
đang lớn mạnh nhanh chóng về số lượng và chất lượng, đang là lực lượng chủ lực
điều hành các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, là lực lượng quan trọng trong điều
hành các doanh nghiệp quốc doanh và sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, với tiềm năng, ưu thế về trình độ, tri
thức khoa học và tuổi trẻ, giới doanh nghiệpđóng vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới của
Việt Nam.
Sự ra đời của Hội doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức tập hợp, liên kết, định
hướng phát triển và đại diện cho giới doanh nghiệp nước ta thể hiện sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước đến công tác xây dựng, phát triển đội ngũ các nhà doanh nghiệpViệt

Nam. Với những nét đặc trưng tính năng động, sáng tạo, tính xung kích, tính tình
nguyện xã hội, các Hiệp hội đang là một cầu nối tích cực giúp các doanh nghiệp phát
triển cho nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử hình thành, Hiệp hội
doanh nghiệp nước ta cũng mang trong mình những tồn tại và hạn chế về cơ sở vật
chất, nguồn nhân lực, năng lực hợp tác phát triển. Hoạt động của Hội các nhà doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy các thế mạnh của đội ngũ doanh
nhân , hạn chế và từng bước khắc phục các tồn tại, góp phần định hướng phát triển
đúng đắn cho lực lượng doanh nghiệp nước nhà.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Báo cáo định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 8/1998.
2- Cẩm nang Doanh nghiệp Việt Nam, Uỷ ban lâm thời Hội DNT Việt Nam, Nhà
xuất bản Thanh Niên, 1997.
3- Doanh nghiệp trẻ Việt Nam trên đường kiến quốc (Sách tư liệu do Báo Thanh
Niên xuất bản, 8/1998).
4- Đề tài KTN 93-06 "Sự hình thành và phát triển các nhà DNT ngoài quốc doanh
ở Việt Nam", PTS. Dương Xuân Triệu, 1995.
5- Đề tài KTN 98-05 "Đoàn kết, tập hợp thanh niên thông qua mô hình Hội doanh
nghiệp trẻ", Phạm Tấn Công, 1998.
6- Hồ Chí Minh - Về giáo dục thanh niên, Nhà xuất bản Thanh niên, 1980.
7- Kỷ yếu Đại hội đại biểu Hội LHTN Việt Nam lần thứ III, Nhà xuất bản thanh
niên, tháng 2/1996.
8- Kỷ yếu Đại hội đại biểu Hội các nhà DNT Việt Nam lần thứ I, Nhà xuất bản
thanh niên, tháng 12/2002.
9- Luật Doanh nghiệp, Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/1999.
10- Tham luận của Hội đồng DNT Việt Nam tại Toạ đàm chuyên đề mô hình Hội,
CLB DNT ngày 11/9/1999.
11- Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi,
Nhà xuất bản Thanh niên, 1997.
12- Tập hợp, đoàn kết thanh niên thông qua phong trào hành động cách mạng trong

thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Thanh niên, 1997.
13- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
14- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
15- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
16- Văn kiện Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ VIII, Nhà xuất bản Thanh
niên, 2003.
17- Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ IV khoá VIII, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, 1998.
18- Trang Web Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam www.dntvn.org.vn
19- Điều lệ Hội các nhà Doanh nghiệp trẻ Việt Nam.
20- Hiệp hội doanh nghiệp trước thềm thế kỷ 21 – Sách biên dịch do Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam phát hành.
21- Trang Web Hiệp hội nhựa Việt Nam www.vpas.vn
22- Cổng thông tin phát triển Việt Nam www.vietnamgateway.org
23- Kỳ yếu Đại hội Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam lần thứ 2.
24- Kỳ yếu Đại hội Hiệp Hội phần mềm Việt Nam lần thứ 2.
25- Luật Doanh nghiệp – 2005.
26- Báo cáo nhu cầu hội viên của Công ty tư vấn MCG.
27- Luật về Hội – 2006
28- Trang Web của Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn
29- Trang Web của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam www.vcci.com.vn
30- Trang Web www.saovangdatviet.org.vn
31- Trang Web Hội doanh nghiệp trẻ Hà Nội www.hanoiba.org.vn
32- Trang Web Hiệp hội phần mềm Việt Nam www.vinasa.org.vn
33- Kinh tế Việt Nam năm 2006, 2007 – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
34- Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
- Sách tham khảo – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2003.
PHỤ LỤC 1
BÁO CÁO
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

150 NHÀ DOANH NGHIỆP TRẺ VIỆT NAM.
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu mã số KTN 98-05 tháng 6/1999. Nhóm khảo sát đã tiến
hành điều tra xã hội học 150 nhà doanh nghiệp trẻ (DNT) thuộc 8 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Lạng
Sơn, Nam Định, Thanh Hoá, Hải Phòng, tp. Hồ Chí Minh, Đăk Lăk, Long An trên các vấn đề:
1. Tình hình phát triển và những khó khăn, thuận lợi của các DNT hiện nay ?
2. Tiềm năng, nhu cầu, xu hướng, vai trò của các DNT ?
3. Sự cần thiết thành lập Hội, CLB DNT đối với các DNT ra sao ?
4. Nội dung phương thức hoạt động nên theo hướng nào ?
5. Vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam đối với Hội DNT ?
6. Tổ chức Đoàn và Hội LHTN Việt Nam cần phải làm gì ?
7. Vai trò của giới DNT đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cuối
cùng là những kiến nghị của họ đối với Đảng, Nhà nước, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội LHTN
Việt Nam.
* Kết quả đã được các nhà DNT có ý kiến như sau:
1/ Với câu hỏi: Theo đánh giá chủ quan thì tình hình phát triển của doanh nghiệp quý vị
hiện nay như thế nào? Trả lời câu hỏi có:
- 34 doanh nghiệp trả lời đang phát triển tốt = 22,67%
- 63 doanh nghiệp trả lời phát triển bình thường = 42 %
- 53 doanh nghiệp trả lời gặp nhiều khó khăn = 35,33%
Điều này chứng tỏ các DNT phát triển bình thường và tốt chiếm tới 64,67% như thế nhìn
chung là tốt.
Trong các DNT gặp khó khăn có tới 50,94% là các doanh ngiệp kinh doanh dịch vụ thương
mại, điều này cũng nói lên ảnh hưởng của sự biến động tài chính các nước có tác động đến nước ta
mà trực tiếp là các DNT trong kinh doanh dịch vụ thương mại.
Trong khó khăn thì lớn nhất là khó khăn về vốn và thị trường tiêu thụ, chiếm tới 63,33% số
doanh nghiệp, tiếp đó là khó khăn về hệ thống pháp lý chưa thông thoáng, có tới 34,67% doanh
nghiệp băn khoăn về vấn đề này.
Đứng thứ ba là khó khăn về cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước, chiếm 21,33% và khó
khăn cuối cùng là Luật Lao động chưa phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh hiện nay 19,33%.
* Có thể xếp thứ tự khó khăn mà các DNT đang gặp phải là:

- Vốn và thị trường tiêu thụ: 63,33%
- Hệ thống pháp luật chưa đáp ứng: 34,67%
- Sự cản trở về cơ chế quản lý: 21,33%
- Luật Lao động chưa phù hợp: 19,33%
Tuy vậy, các DNT cũng cho rằng có nhiều thuận lợi cho sự phát triển các doanh nghiệp
hiện nay đó là:
- Chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước: 61,33%
- Nguồn lao động dồi dào, chi phí thấp: 61,33%
- Môi trường pháp lý thuận lợi: 38,67%
Điều này cho thấy đường lối, chính sách về phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta
ngày càng đúng đắn, nhất là môi trường pháp lý ngày càng được cải thiện, nếu tới đây Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực, nghị quyết lần thứ IV của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được thực hiện
triệt để thì sẽ có nhiều thuận lợi hơn nữa cho các nhà doanh nghiệp nói chung và DNT nói riêng có
điều kiện phát triển hơn nữa.
2/ Về tiềm năng và nhu cầu phát triển của các DNT đã cho biết:
- Thị trường trong nước là tiềm năng lớn nhất 86,67% các nhà DNT được hỏi cho là như
vậy.
- Tiềm năng thứ hai là nguồn lao động dồi dào 63,33%.
- Nguồn nguyên liệu đa dạng cần được khai thác 50%. Tiềm năng thị trường nước ngoài
chỉ có 34,67% các DNT dám nghĩ tới, điều này chứng tỏ doanh nghiệp nào thật mạnh mới dám
vươn ra thị trường nước ngoài. Riêng việc huy động vốn đầu tư của nước ngoài tuy chỉ có 23,33%
cho rằng đây là tiềm năng vì các doanh nghiệp cho rằng việc huy động vốn vẫn là khó khăn nhất.
3/ Về nhu cầu với câu hỏi "nhu cầu cấp bách hiện nay của quý vị là gì ?":
Đã có 59,33% cho rằng có thị trường tiêu thụ sản phẩm là nhu cầu cao nhất. Tiếp đến là các
nhu cầu vốn, công nghệ mới, môi trường kinh doanh đều 58%. Cuối cùng là nhà nước cần có chính
sách bảo hộ hàng nội địa 48%.
Như vậy, về nhu cầu của các doanh nghiệp khá tập trung và họ thấy rằng muốn tồn tại và
phát triển được phải đầu tư chiều sâu (76,67%), phải đáp ứng khoa học - công nghệ cao, phải vươn
ra thị trường quốc tế (56%) đó là xu hướng tất yếu mà các DNT đều nhận thức được.
4/ Về vai trò của các DNT trong tương lai:

- Có tới 82,67% các DNT cho rằng họ sẽ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước
nhà.
- Có 56% cho rằng họ phải xung kích trong các công nghệ mũi nhọn.
- Có thế lực đáng kể trong giới doanh nghiệp khu vực (48%).
- Vai trò của họ được khẳng định trên thị trường quốc tế (46%).
5/ Về mô hình Hội, CLB DNT: có tới 90% các DNT cho là cần thiết. Chỉ có 10% các nhà
DNT được hỏi cho rằng có cũng được không có cũng được, không có ai cho rằng không cần thiết.
Điều này có thể khẳng định việc thành lập Hội, CLB DNT là đáp ứng nguyện vọng của các nhà
DNT.
6/ Về nội dung hoạt động của các Hội và CLB DNT nên hoạt động theo hướng nào?
- Đã được 82,67% các nhà DNT cho rằng phải tạo môi trường cho các nhà DNT giao tiếp
với nhau.
- 78,67% cho rằng phải tăng cường thông tin kinh tế đến các nhà DNT.
- Phải bằng mọi cách nâng cao vị trí của các nhà DNT trong xã hội (65,33%).
- 59,33% có mong muốn Hội phải tạo điều kiện để các nhà DNT được tiếp xúc với các nhà
DNT lãnh đạo chính quyền để họ phản ánh những nguyện vọng, nắm bắt chủ trương của Nhà nước
để kịp thời điều chỉnh hướng kinh doanh cho phù hợp.
- Cuối cùng là họ muốn Nhà nước, Hội tạo điều kiện để họ được hội nhập thị trường khu
vực và thế giới. Điều này càng chỉ rõ tới đây Hội, CLB cần phải hoạt động theo 5 hướng trên, có
như vậy Hội, CLB mới đáp ứng nhu cầu của họ và mới có sức thu hút họ vào Hội. Đoàn và Hội cần
tạo điều kiện cho các nhà DNT hoạt động xã hội (76,67%) đồng thời là chỗ dựa về chính trị cho các
nhà DNT (61,33%). Có như vậy Đoàn và Hội mới làm tròn vai trò là cầu nối với Đảng, Nhà nước
và các tổ chức chính trị xã hội khác (52%) cũng như giúp cho các DNT có điều kiện học tập nâng
cao trình độ (71,33%).
7/ Về những kiến nghị của các nhà DNT họ đề nghị 10 điểm sau:
7.1) Quan tâm hơn nữa đến các Hội DNT ở các địa phương nhất là kinh nghiệm hoạt động
để ngày càng thu hút đông đảo các DNT vào Hội.
7.2) Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho các DNT về kinh nghiệm quản lý, công
nghệ mới, thị trường mới.
7.3) Nhà nước cần có chính sách kích thích thanh niên dám bỏ vốn đầu tư lập doanh

nghiệp, phát triển và mở rộng doanh nghiệp cả về bề rộng và chiều sâu.
7.4) Nhà nước cần có biện pháp loại trừ "ô dù", "bạo lực đen tối" để cho họ những nhà
DNT phát triển dưới ánh sáng của mặt trời.
7.5) Đề nghị Nhà nước cho lập "quỹ bảo trợ" và "ngân hàng thanh niên" để hỗ trợ các nhà
DNT khi gặp khó khăn, hoặc muốn mở rộng về quy mô, cũng như đào tạo, nâng cao trình độ cho
họ: "Có thể mất hàng nghìn tỷ đồng của Nhà nước để có một đội ngũ những nhà DNT giỏi, nhưng
không thể để một doanh nghiệp đánh mất hàng nghìn tỷ đồng của Nhà nước".
7.6) Đảng và Nhà nước cần có chính sách ưu tiên, nâng đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
các DNT mới thành lập.
7.7) Hội cần làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với các DNT.
7.8) Nhanh chóng ban hành quy chế, điều lệ hoạt động của Hội, đặc biệt là chương trình
hoạt động thống nhất trên quy mô cả nước.
7.9) Cần xin phép Nhà nước cho ra đời tạp chí DNT Việt Nam để tạo điều kiện cho các nhà
DNT trao đổi, học tập, phản ánh tâm tư với Đảng và Nhà nước làm cho xã hội ngày càng quan tâm
đến vị trí của các nhà DNT hiện tại và tương lai.
7.10) Đảng và Nhà nước cần thường xuyên theo dõi, uốn nắn kịp thời giúp đỡ các nhà
DNT phát triển đúng hướng, cần có chính sách ưu tiên các DNT đầu tư vào sản xuất hàng hoá, các
DNT thu hút nhiều lao động trẻ.
Người thực hiện
Trần Đức Mã
VIỆN NGHIÊN CỨU THANH NIÊN
PHỤ LỤC 2:
BÁO CÁO
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NĂM 2006 VÀ CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC NĂM 2007
CỦA HỘI CÁC NHÀ DOANH NGHIỆP TRẺ VIỆT NAM
*****

×