Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.97 KB, 23 trang )

Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương
mại
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh
tế. Tùy thuộc vào tính chất và mục tiêu hoạt động cũng như sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại,
ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế. NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế. Ở Việt nam, theo khoản 2 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng do
Quốc hội khóa 10 thông qua vào ngày 12/12/1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004, định nghĩa: NHTM là một loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có
liên quan. Theo khoản 1 điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung cũng quy định: Tổ chức tín dụng
là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động ngân hàng, và khoản 7 điều 20 luật này định nghĩa: Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán.
NHTM thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là
một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế.
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, NHTM thực sự đóng một vai trò rất quan
trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu
thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của nền kinh tế thị trường còn
non kém.
1.1.2. Phân loại NHTM


1.1.2.1. Theo hình thức sở hữu
- NHTM quốc doanh: Là NHTM được hình thành bằng 100% vốn của ngân sách
nhà nước.
- NHTM cổ phần: Là NHTM hình thành dưới hình thức công ty cổ phần, trong
đó một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ
do NHNN quy định.
- NHTM nước ngoài: Đúng ra là chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Là ngân hàng
được thành lập theo pháp luật nước ngoài, là cơ sở của ngân hàng nước ngoài tại Việt
nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
- NHTM liên doanh: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân
hàng Việt nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt nam, hoạt động theo pháp
luật Việt Nam.
1.1.2.2. Theo tính chất hoạt động
Theo hoạt động chuyên doanh và đa năng:
- NHTM chuyên doanh: Là loại hình NHTM chỉ tập trung cung cấp một số dịch
vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông
nghiệp…
- NHTM đa năng: Là loại hình NHTM cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi
đối tượng, đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các NHTM.
Theo hoạt động bán buôn và bán lẻ:
- NHTM bán buôn: Là loại hình NHTM cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng,
các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn. Thường là những ngân
hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn.
- NHTM bán lẻ: Là loại hình NHTM cung cấp dịch vụ trực tiếp cho doanh
nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân với các khoản tín dụng nhỏ.
1.1.2.3. Theo cơ cấu tổ chức
- NHTM sở hữu công ty: Là ngân hàng nắm giữ phần vốn chi phối của công ty,
cho phép ngân hàng tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty.
- NHTM thuộc sở hữu công ty: Các tập đoàn kinh tế thường tổ chức thành lập
ngân hàng nhằm cung ứng dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và

ngoài tập đoàn.
1.1.3. Chức năng của NHTM
- Trung gian tài chính
Các tổ chức như NHTM, công ty tiết kiệm và cho vay, ngân hàng tiết kiệm
tương trợ, liên hiệp tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ tương trợ, quỹ trợ cấp và những
công ty tài chính là những trung gian vay vốn của những người đã tiết kiệm được tiền
rồi ngược lại cho những người khác vay. Ngân hàng, nhất là NHTM là trung gian tài
chính mà một người bình thường thường xuyên giao dịch nhất.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh
tế. Thứ nhất là cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Thứ hai
là cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại lớn hơn các khoản
chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Tuy nhiên, quan hệ
trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian… tạo
điều kiện nảy sinh và phát triển của trung gian tài chính. Ngân hàng có thể làm tăng thu
nhập cho người tiết kiệm đồng thời giảm phí tổn cho người đi vay so với quan hệ trực
tiếp. Trung gian tài chính đã tập hợp người tiết kiệm và người đầu tư, vì vậy mà giải
quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm
định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được
gọi là tình trạng thông tin không cân xứng làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng
tạo ra một khả năng sinh lời cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh
giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro,
lợi nhuận hấp dẫn nhất.
- Tạo phương tiện thanh toán
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy
nếu họ có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng
hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Mặt khác, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc

cho vay( hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo
M1).
- Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa, dịch vụ. Để
việc thanh toán diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra
cho khác hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy
khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán
qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở
rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản
lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo
tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong nước mà còn giữa
các ngân hàng trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng
hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.2. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của NHTM
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Theo ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu
Nợ xấu trong các NHTM bao gồm:
* Những khoản nợ không thể thu hồi được:
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi
thường từ nợ
- Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc
không thể tìm được người mắc nợ.
- Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản
hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
* Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.

Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ
trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh
toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như:
- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng
phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được
chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ trang trải toàn bộ khoản nợ.
- Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nợ
nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận.
- Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp
ở ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không thể trả
nợ ngân hàng đầy đủ.
- Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi
hoàn ít hơn dư nợ.
1.2.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc
Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn
hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc cac khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có
lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về cơ
bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng
trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) hiện
đang được áp dụng phổ biến trên thế giới.
1.2.1.3. Theo định nghĩa của Việt Nam
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và quyết định số 18/2007 QĐ – NHNN ngày
25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì Nợ xấu được
định nghĩa như sau:
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu theo định nghĩa của
Việt Nam cũng được xác định dựa theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả

năng trả nợ đáng lo ngại.
Qua định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái quát nợ xấu là
các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả nợ như đã
cam kết dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng.
1.2.2. Phân loại
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và quyết định số18/2007 QĐ – NHNN ngày
25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định 493 thì Nợ xấu được xác định dựa trên
cả yếu tố thời hạn nợ và khả năng thu hồi.
a. Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b khoản này.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao nhất.
Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là 20% dư nợ của nhóm.
b. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với
các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân
hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc nhóm

này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
c. Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần hai.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập
dự phòng rủi ro tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập
dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
1.2.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ
khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó, nợ
không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và như
vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu hồi của
ngân hàng
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ
rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì
có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không
thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro
càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất lượng tín dụng
yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, các khoản cho
vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời
điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân
hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh
chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những

chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ
này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có
khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ
mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt
hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của ngân hàng và ngược lại.
Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong từng
thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu
nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu
1.2.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng
Nợ xấu làm giảm doanh thu của ngân hàng, làm giảm hình ảnh của ngân hàng
đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt động của cả hệ thống. Do vậy, dự
báo nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và định lượng là một công việc có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Đó là:
- Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng.
- Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lai, ví dụ
như sáp nhập.
- Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng.
- Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ.
- Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang ngân
hàng khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro.
- Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực nóng
trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản…
1.2.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng
Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ chậm hơn dự
tính.
Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền liên tục trả nợ không

đúng hạn. Kì hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi, khách hàng luôn yêu cầu được gia
hạn nợ.
Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai
chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho ngân hàng
như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
thuyết minh báo cáo tài chính… liên tục bị trì hoãn một cách bất thường. Số liệu kê
khai, hay số liệu về doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có sự chênh lệch khá
lớn so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay.
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn so với khi
định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao đổi hoặc bị
mất.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người vay (tỷ lệ nợ/ vốn chủ sở hữu), khả
năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên tục,
đặc biệt thể hiện qua các chỉ số ROA, ROE hay thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT).
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư
tiền gửi của khách hàng.
1.2.5. Tác động của nợ xấu
1.2.5.1. Đối với ngân hàng thương mại
Nợ xấu ảnh hưởng hầu hết tới các hoạt động của NHTM, thậm chí số dư nợ xấu
lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng.
Trước hết, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả năng
mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi nợ xấu tăng
cao, thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi nhuậ do không thu hồi được
nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các
chi phí khác liên quan.
Thứ hai, nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao,
vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM trong nước và
quốc tế giảm sút nghiêm trọng.

Thứ ba, nợ xấu làm ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh
doanh của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Nếu
các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn, không thu

×