Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.19 KB, 33 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của Thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm của Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế (TMQT) là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các
quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới tuân theo nguyên tắc trao
đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên.
TMQT là một trong những hoạt động chính và cơ bản của quan hệ kinh tế
quốc tế. TMQT ra đời từ rất sớm, ban đầu đó chỉ là sự trao đổi hàng hóa đơn
thuần giữa các thương gia mang quốc tịch khác nhau. Nguồn gốc của nó liên
quan đến việc giảm chi phí sản xuất, mở rộng sản xuất, chuyên môn hóa sản
xuất dựa trên cơ sở lợi thế so sánh.
Trong thế giới hiện đại, TMQT giữ vai trò hết sức quan trọng và cần
thiết cho việc thực hiện chuyên môn hóa để đạt hiệu quả kinh tế cao
trong nền công nghiệp hiện đại. Có thể nói hiện nay, TMQT giữ một vị trí
trung tâm trong quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của Thương mại quốc tế
TMQT có những đặc điểm nổi bật khác với thương mại trong nước những
điểm cơ bản sau:
Một là, TMQT là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia.
Hàng hóa có thể di chuyển từ nước này qua nước khác. Nhưng khái niệm này
cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi mua bán hàng hóa cho người nước ngoài
đang sinh sống ở một quốc gia cũng có thể coi là hoạt động xuất khẩu.
Hai là, tham gia vào TMQT là những người có quốc tịch khác nhau, tuy
nhiên khái niệm này cũng không chính xác tuyệt đối vì trong điều kiện hiện nay,
ở các nước trên thế giới, để phân biệt TMQT và kinh doanh trong nước, người
ta sử dụng yếu tố lãnh thổ, nơi cư trú hoặc trụ sở thay vì yếu tố quốc tịch.
Ba là, đồng tiền thanh toán trong TMQT là ngoại tệ đối với một bên hoặc
cả hai bên.
Trong thời đại ngày nay, không có nền kinh tế quốc gia nào có thể
tồn tại độc lập mà bắt buộc phải tham gia TMQT. Hoạt động TMQT bao


gồm những hoạt động sau:
 Xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị,
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng).
 Xuất nhập khẩu hàng hoá vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng phát minh
sáng chế, phần mềm vi tính dịch vụ lắp đặt, chuyển giao công nghệ, du lịch,…).
 Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công.
 Tái xuất khẩu (nhập hàng rồi xuất sang nước thứ 3, hoặc chỉ thực hiện các dịch
vụ vận tải quá cảnh, lưu kho bãi, bảo quản…).
 Xuất khẩu tại chỗ như cung cấp hàng hoá dịch vụ cho ngoại giao đoàn, khách
du lịch quốc tế…
1.2. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Ngày nay, sự phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của hệ thống
tài chính ngân hàng. Có thể xem ngân hàng là mạch máu quan trọng
của nền kinh tế. Một nền kinh tế mạnh đồng nghĩa với một hệ thống
ngân hàng vững mạnh, và một nền kinh tế trì trệ, kém phát triển một
phần bởi hệ thống ngân hàng yếu kém.
Trong hệ thống ngân hàng, ngân hàng thương mại (NHTM) là một
trong những ngân hàng ra đời từ rất sớm, tầm khoảng cuối thế kỷ 18.
Ban đầu đó là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, xuất phát từ nhu
cầu chuyển đổi, dịch vụ bảo quản và cho vay vàng bạc cổ xưa. Ngày
nay, các NHTM đã có những bước tiến vượt bậc so với xuất xứ ban
đầu, với nghiệp vụ kinh doanh phong phú và cơ cấu tổ chức rộng lớn, …
Theo www.saga.vn, NHTM được định nghĩa là tổ chức tín dụng
thực hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng, đó là huy động và cho
vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi
nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của NHTM nhằm mục
đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt là “vốn – tiền”, trả lãi suất huy
động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó

chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của NHTM phục vụ mọi nhu
cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, mọi loại hình doanh nghiệp và
các tổ chức khác trong xã hội.
Theo PGS.TS Phan Thị Lưu Hà, giáo trình “Ngân hàng thương
mại”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2007 “Ngân hàng thương mại là
các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh trong nền kinh tế”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997 ban hành ngày
12/12/1997 thì “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có
liên quan. Trong đó tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được
thành lập theo luật này và các quy định khác của pháp luật liên quan để
hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
Tóm lại, qua các khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại đã
được đề cập ở trên, ta có thể khái quát lại như sau: “ NHTM là doanh
nghiệp đặc biệt, kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ, thông
qua hoạt động tín dụng, thanh toán, tiết kiệm… nhằm mục đích chính là
đáp ứng nhu cầu về vốn của dân cư để thu lợi nhuận.
1.2.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Trung gian tài chính
Có thể nói, đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM, thể hiện tầm
quan trọng của nó đối với nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện chức năng
trung gian tài chính bằng cách huy động nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội
nhằm mục đích kích thích quá trình luân chuyển vốn để tái sản xuất mở
rộng, đồng thời đưa tiết kiệm đến với đầu tư trên phạm vi toàn xã hội.
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là chuyển tiết kiệm thành đầu tư

thông qua sự tiếp xúc giữa hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế.
Đó là những cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, cần bổ sung
vốn và những cá nhân, tổ chức thặng dư chi tiêu, có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức này hoàn toàn độc lập đối với
ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm những người tiết
kiệm sang nhóm những người đầu tư. Nhưng quan hệ tín dụng trực tiếp
này bị giới hạn do ràng buộc về quy mô, thời gian, không gian… Từ đó
nảy sinh trung gian tài chính. Trung gian tài chính làm tăng thu nhập cho
người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín
dụng cho người đầu tư, từ đó cũng khuyến khích đầu tư. Trung gian tài
chính đã tập hợp được người tiết kiệm và đầu tư, giải quyết được mâu
thuẫn của tín dụng trực tiếp bằng cách sử dụng kĩ thuật nghiệp vụ để
hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng
bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo của hệ thống tài chính. Chẳng hạn
các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia nhỏ để tất cả mọi
người đều có thể mua thì ngân hàng cung cấp dịch vụ, nhằm chia nhỏ
chứng khoán đó thành những khoản nhỏ hơn, phục vụ cho hàng triệu
người.
Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản vay, cho vay rủi ro và
phát hành chứng khoán ít rủi ro để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của
khách hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện tốt chức năng trung gian tài
chính bởi khả năng thẩm định tốt thông tin, từ đó có thể đánh giá và lựa
chọn các thị trường, công cụ mang lại lợi nhuận hấp dẫn nhất cho cả
khách hàng và ngân hàng.
1.2.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền - vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh
toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng
thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với

khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất
định đã trở thành phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên
số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ
của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và
phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có
đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền
lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính là ngân
hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo
ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển nhanh toán qua ngân hàng, các khách
hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu
cầu.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ.
Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi
các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng
khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng
khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư
tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra
các khoản cho vay mới.
1.2.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay của
hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh
toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận
tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình
thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ

thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các
quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực
hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc
thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua các
ngân hàng càng đạt được hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ
đó càng được mở rộng. Bởi vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua
ngân hàng thường được các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều hình
thức thanh toán được chuẩn hóa đã góp phần tạo tính thống nhất trong
thanh toán, không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn
giữa các ngân hàng trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế
được thiết lập góp phần làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân
hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có
hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế.
1.3. Hoạt động Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm và điều kiện về hoạt động Thanh toán quốc tế
1.3.1.1. Khái niệm
Trong thời đại hiện nay, quan hệ quốc tế giữa các quốc gia bao
gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, khoa học
kĩ thuật… nhưng trong đó quan hệ kinh tế vẫn chiếm vai trò chủ đạo và
là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quan hệ
kinh tế quốc tế ngày càng phát triển, nhu cầu chi trả và thanh toán giữa
các chủ thể ở các nước khác nhau càng tăng, từ đây hình thành hoạt
động thanh toán quốc tế (TTQT), mà ngân hàng là cầu nối giữa các bên.
Hoạt động TTQT ra đời, trở thành một trong những dịch vụ quan trọng
nhất trong mảng kinh doanh đối ngoại của NHTM.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, giáo trình “Thanh toán quốc tế và
tài trợ ngoại thương”, NXB Thống kê, 2007 thì TTQT được định nghĩa
là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát
sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá
nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia

với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ ngân hàng của các nước liên
quan.
Nếu chỉ đề cập đến các quan hệ thanh toán phát sinh trong lĩnh vực
kinh tế và tài chính ta có thể định nghĩa TTQT như sau:
TTQT là việc chi trả các nghĩa vụ yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các
quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế
quốc tế, giữa các hãng, giữa các cá nhân của các nước khác nhau để
kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng
các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân
hàng.
TTQT giữ chức năng ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương
mại. Nó được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại
thương của một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao
cho độc quyền làm công tác thanh toán này. Do vậy, các giao dịch thanh
toán trong ngoại thương đều phải thông qua ngân hàng. Đây là nghiệp
vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn, ứng dụng công nghệ ngân hàng, tạo sự
an toàn và hiệu quả đối với NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
1.3.1.2. Vai trò của Thanh toán quốc tế của NHTM trong TMQT
TTQT là khâu then chốt cuối cùng khép kín một chu kỳ mua bán
hàng hóa hay trao đổi dịch vụ. Việc thanh toán tiền hàng được nhanh
chóng, chính xác, an toàn là đảm bảo giải quyết được mối quan hệ lưu
thông hàng hóa - tiền tệ giữa người mua - người bán. Về mặt kinh
doanh, thanh toán tiền hàng thể hiện chất lượng kinh doanh, nói lên hiệu
quả kinh tế về tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với NHTM, TTQT thể hiện những vai trò quan trọng như sau:
Một là: TTQT tạo điều kiện thu hút khách hàng, mở rộng thị trường.
Khách hàng tìm đến ngân hàng với mong muốn được thỏa mãn các
nhu cầu về dịch vụ tài chính. Trong điều kiện hiện nay, buôn bán kinh
doanh, du lịch, đầu tư,… đã vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, nhu cầu
TTQT đối với các cá nhân, tổ chức ngày càng lớn hơn. Mặt khác, trong

cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, việc đáp ứng kịp thời, đầy
đủ nhu cầu của khách hàng là một trong những mục tiêu mà các ngân
hàng hướng đến, nhằm thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị trường.
Hai là: TTQT tạo khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận.
Khi khách hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều thì lợi ích của
ngân hàng ngày càng tăng. Không những doanh thu của ngân hàng
tăng lên tuyệt đối mà những khoản thu phí cũng tăng do cung cấp được
nhiều hơn các dịch vụ cho khách hàng, điều đó hỗ trợ cho hoạt động
khác của ngân hàng thêm phát triển. Từ đó ngân hàng có điều kiện tăng
thêm nguồn vốn huy động, tạo điều kiện mở rộng quy mô tín dụng.
Trong quá trình tham gia hoạt động TTQT, khách hàng còn phát sinh
thêm những nhu nhu cầu dịch vụ khác của ngân hàng như: bảo lãnh
thanh toán, tài trợ các hợp động xuất nhập khẩu, thực hiện hợp đồng,
mua bán ngoại tệ, tiền mặt ngoại tệ… góp phần phát triển hoạt động
TTQT của ngân hàng, tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.
Ba là: TTQT tạo điều kiện phân tán rủi ro.
Kinh doanh ngân hàng là một trong những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều
rủi ro, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu, kinh tế
khu vực và kinh tế mỗi quốc gia luôn có nhiều biến động. Diễn biến
phức tạp của kinh tế thế giới và các thủ đoạn lừa đảo tinh vi dẫn đến
nguy cơ rủi ro ngân hàng phải gánh chịu ngày càng nhiều. Những rủi ro
đó là rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản,
rủi ro hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ hoạt động và rủi ro quốc
gia.
Với thực tế đó thì việc kinh doanh nhiều lĩnh vực, dịch vụ là phương
thức hiệu quả nhất để phân tán rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Lợi
nhuận thu được từ hoạt động TTQT góp phần hỗ trợ cho ngân hàng khi
thị trường biến động, giúp ngân hàng giữ vững được sự ổn định.
Bốn là: Góp phần mở rộng quy mô và mạng lưới Ngân hàng.
Hoạt động TTQT giúp cho hoạt động của ngân hàng vượt ra khỏi

phạm vi quốc gia, hòa nhập cộng đồng ngân hàng thế giới, nâng cao uy
tín trên quốc tế. Trên cơ sở đó, ngân hàng phát triển các quan hệ đại lý,
khai thác nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn
trên thị trường tài chính quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để phát
triển kinh tế xã hội.
Năm là: Góp phần tạo dựng và nâng cao uy tín của ngân hàng trên
thị trường tài chính quốc tế
Sự phát triển của hoạt động TTQT tại các ngân hàng mà đặc biệt là
sự phát triển của các dịch vụ TTQT, trình độ xử lý nghiệp vụ của cán bộ
TTQT… đã góp phần tạo dựng niềm tin đối với ngân hàng và cả khách
hàng nước ngoài. Vậy hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng mở rộng
trên lĩnh vực kinh doanh đối ngoại, hòa nhập hệ thống tài chính ngân
hàng toàn cầu, giúp ngân hàng tạo dựng được uy tín đối với quốc tế.
Vậy hoạt động TTQT của các NHTM trong thương mại quốc tế nói
riêng và kinh tế đối ngoại nói chung có một vị trí hết sức quan trọng. Nó
là mắt xích không thể thiếu trong toàn bộ dây chuyền bắt đầu từ khi
chuẩn bị những bước đầu tiên để sản xuất hàng hóa và bước cuối khi
thu đồng tiền về tay người xuất khẩu.
1.3.1.3. Điều kiện hoạt động TTQT
Thanh toán quốc tế liên quan đến thanh toán tiền hàng trong ngoại
thương nên các bên phải thỏa thuận những điều kiện về thanh toán,
gồm: điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm thanh toán, điều kiện về
thời gian thanh toán và điều kiện về phương thức thanh toán.
a, Điều kiện về tiền tệ
Trong điều kiện về tiền tệ, các bên thỏa thuận những vấn đề như:
đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán và bảo đảm rủi ro tỷ giá.
Trước hết, ta chú ý đến vấn đề phân loại tiền tệ trong TTQT. Để
phân loại tiền tệ, có một số tiêu chí như:
- Căn cứ phạm vi sử dụng: tiền tệ bao gồm
+ Tiền tệ quốc gia (National currency): đồng tiền của một nước do

Ngân hàng Trung ương phát hành theo luật pháp nước đó.
+ Tiền tệ quốc tế (International currency): được hình thành trên
cơ sở các hiệp định của các tổ chức tài chính, các khối kinh tế như:
SDR, EUR, XOF …
+ Tiền tệ thế giới (World currency): đồng tiền đuợc tất cả các
nước trên thế giới công nhận và sử dụng làm phương tiện TTQT. Hiện
nay, mới chỉ có vàng được xem là tiền tệ thế giới.
- Căn cứ tính chất chuyển đổi: chúng ta có
+ Đồng tiền tự do chuyển đổi (Freely convertible currency):
đồng tiền được tự do chuyển đổi không hạn chế sang các đồng tiền
khác và ngược lại trong các giao dịch giữa người cư trú và người không
cư trú.
+ Chuyển đổi đối nội (Internal convertible): chuyển đổi nội tệ ra
ngoại tệ và ngược lại, áp dụng hạn chế cho người cư trú.
+ Chuyển đổi toàn phần (Exterbak convertible): chuyển đổi tự
do nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại, cho tất cả giao dịch giữa người cư
trú và người không cư trú.
+ Chuyển đổi từng phần: là việc chuyển đổi nội tệ sang các ngoại tệ và
ngược lại chỉ áp dụng hạn chế cho một hay một nhóm các giao dịch giữa người
cư trú và người không cư trú.
+ Đồng tiền không chuyển đổi (Non - convertible): đồng tiền không được
chuyển đổi sang bất kỳ đồng tiền nào khác. Nhưng thực tế, đồng tiền như thế
không tồn tại theo nghĩa tuyệt đối.
- Căn cứ vào hình thái tồn tại của tiền tệ:
+ Tiền mặt (cash): gồm tiền giấy và tiền kim loại của từng quốc gia, nhưng
trong TTQT ngày nay tiền mặt ít được sử dụng, thay vào đó người ta sử dụng
tiền điện tử.
+ Tiền tín dụng (Credit currency): là loại tiền vô hình tồn tại dưới dạng
những con số ghi trên tài khoản, sổ sách của ngân hàng, nó được áp dụng rộng
rãi trong TTQT.

- Căn cứ mức độ sử dụng trong dự trữ và TTQT:
+ Đồng tiền mạnh (Hard currency): đồng tiền tự do chuyển đổi, có giá trị
ổn định và đứng sau nó là một nền kinh tế phát triển. Những đồng tiền mạnh
hiện nay như: USD, EUR, GBP, JPY …
+ Đồng tiền yếu (Weak currency): đồng tiền không được tự do chuyển đổi,
giá trị không ổn định và đứng sau nó là nền kinh tế nhỏ hoặc phát triển chậm.
Đồng tiền này chủ yếu lưu thông nội địa và ít được sử dụng trong TTQT như:
VND, LAK…
- Căn cứ vào mục đích sử dụng trong TTQT:
+ Tiền tệ tính toán (Account currency): là đơn vị tiền tệ dùng để biểu hiện
giá cả hàng hóa và tính toán tổng giá trị trong hợp đồng ngoại thương.
+ Tiền tệ thanh toán (Payment currency): là đơn vị tiền tệ được sử dụng để
thanh toán công nợ, thanh toán giá trị hợp đồng ngoại thương.
Tóm lại, việc phân loại tiền tệ như thế chỉ mang tính tương đối vì trong
thực tiễn hiện nay, việc lựa chọn đồng tiền nào để tính toán và thanh toán phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Ngày nay, việc các bên thanh toán bằng đồng tiền nào
không thật sự quan trọng vì thị trường ngoại hối đang ngày càng phát triển, liên
kết toàn cầu, cho phép chúng ta chuyển đổi đồng tiền này sang đồng tiền khác
một cách nhanh chóng và thuận lợi.

×