Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐẾN NĂM 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.71 KB, 24 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG
LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
ĐẾN NĂM 2015
3.1. NHỮNG CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI
TRONG LĨNH VỰC NN VÀ PTNT ĐẾN NĂM 2015
3.1.1. Cơ sở khoa học
Xu thế tất yếu có tính quy luật của xã hội đó là vốn đầu tư luôn được di
chuyển từ nơi có khả năng sinh lời thấp (hoặc khó có khả năng sinh lời) đến nơi
có khả năng sinh lời cao (hoặc dễ có khả năng sinh lời). Vốn đầu tư nước ngoài
theo nghĩa rộng gồm cả vốn bằng tiền, công nghệ, kỹ thuật, lao động kỹ thuật
cao, kỹ năng quản lý.... Sự di chuyển này thường sảy ra theo 3 hướng: Hướng
thứ nhất, di chuyển theo không gian: trong cùng một lĩnh vực nhưng nhà đầu tư
của quốc gia này quyết định đầu tư ở quốc gia khác, trường hợp này thường từ
các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Hướng thứ hai, di chuyển
khỏi lĩnh vực: các nhà đầu tư rút một phần vốn (hoặc toàn bộ vốn) từ lĩnh vực
này sang đầu tư ở lĩnh vực khác có khả năng sinh lời cao hơn. Ví dụ, rút vốn từ
lĩnh vực công nghiệp sang đầu tư ở lĩnh vực dịch vụ, giải trí, nông nghiệp, môi
trường... Hướng thứ ba, tổng hợp: đây là sự kết hợp cả xu hướng thứ nhất và thứ
hai. Ví dụ, các nhà đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước có nền nông
nghiệp hiện đại sang đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước có nền nông
nghiệp truyền thống.
Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tăng hoặc giảm ở những giai
đoạn khác nhau; tăng hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố xuất phát từ nhiều
phía, không riêng gì từ phía nước đầu tư và nước nhận đầu tư.
Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được các nhà
đầu tư nước ngoài đánh giá là một điểm đến có nhiều điều kiện thuận lợi cho
việc bảo toàn và sinh lời của vốn. Các điều kiện được các nhà đầu tư đánh giá
cao đó là môi trường luật pháp thông thoáng hơn (thủ tục hành chính được cải
cách đơn giản hơn, chỉ số bảo vệ các nhà đầu tư cao hơn so với các nước Đông
Nam Á), chính trị ổn định, lực lượng lao động dồi dào, tài nguyên đa dạng (đặc
biệt là tài nguyên đất và tài nguyên sinh vật), có giao thông đường thuỷ (hiện


nay có tới 85% khối lượng hàng hoá từ nước này sang nước khác được vận
chuyển bằng đường thuỷ) và là cửa ngõ để vào các nước Đông Nam Á khác.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang bị suy giảm mạnh như hiện nay,
mức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn sẽ giảm mạnh trong những năm tới. Khi nền kinh
tế thế giới được phục hồi, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ tăng mạnh, có thể tăng trở lại vào năm
2010. Với xu thế như vậy, việc chuẩn bị các yếu tố để thu hút và hấp thụ hiệu
quả FDI là điều phải được tính trước.
3.1.2. Cơ sở pháp lý
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn
diện và to lớn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém
bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nông nghiệp và nông thôn phát
triển thiếu quy hoạch, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn
còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao.
Khắc phục những hạn chế, tăng lực cho giai đoạn từ nay đến năm 2020,
tại Hội nghị lần thứ 7 khoá X, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn (Tam nông). Nội dung Nghị quyết đã khẳng định mục tiêu đến năm
2020 là "Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất
nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết
hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ
bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với
hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao
động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn,

trước hết là hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích
đất lúa 2 vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có
hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo...".
Thực hiện đường lối chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã có Nghị quyết số
24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 về ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong Chương
trình hành động, Chính phủ đã đưa ra 5 nhiệm vụ chủ yếu. Trong đó, có nội
dung thực hiện công tác quy hoạch (có 9 vấn đề cần phải thực hiện), xây dựng
mới các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020 (có 3 chương trình được
xây dựng mới), xây dựng các đề án đến năm 2020 (có 36 đề án sẽ được thực
hiện). Nguồn kinh phí để thực hiện các nội dung trong Chương trình của Chính
phủ được đánh giá là vô cùng lớn, chiếm khoảng 40% tổng GDP. Trong đó,
nguồn vốn nước ngoài như vốn ODA và vốn FDI có vai trò rất quan trọng. Vì
thế, Chính phủ đã có Nghị quyết số 13/NQ - CP ngày 07 tháng 4 năm 2009 về
định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
thời gian tới. Nội dung Nghị Quyết đã chọn lọc các lĩnh vực quan trọng cần thu
hút đầu tư nước ngoài, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn có
2 lĩnh vực gồm: phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực; chế biến
nông sản, phát triển các vùng khó khăn, nông nghiệp và nông thôn.
Để cụ thể hoá kế hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn ban hành "Chương trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Nội dung chính của
Chương trình hướng vào phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây,
con có năng suất, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là các sản phẩm
có giá trị kinh tế cao (cà phê, chè, rau quả, hoa cây cảnh, chăn nuôi, tô, cá và
các loại nhuyễn thể); sử dụng công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch để
nâng cao giá trị và mức độ vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm, tạo ra thị
trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Bên cạnh,

mục tiêu chính, Chương trình đã nêu cụ thể 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn FDI
gồm:
1) Ngành trồng trọt, bảo quản và chế biến lương thực:
- Lúa, ngô: trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung thu hút các dự án ĐTNN vào
khâu bảo quản, chế biến lương thực ở các địa phương đạt trình độ công nghệ
tiên tiến để giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp
với nhu cầu xuất khẩu.
- Rau đậu và hoa các loại: theo quy hoạch đến năm 2010 diện tích rau đậu, hoa
các loại dự kiến đạt 1 triệu ha và đến năm 2020 đạt khoảng 1,1 - 1,2 triệu ha;
sản lượng đến năm 2010 ước đạt 15,2 triệu tấn và năm 2020 ước đạt 20,7 triệu
tấn. Để đạt mục tiêu đó, cần thu hút các dự án ĐTNN vào các vùng sản xuất rau
chất lượng cao, tập trung theo công nghệ sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm; phát triển trồng nấm cho tiêu dùng trong nước; phát triển các loại hoa,
cây cảnh đáp ứng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các dự án đầu tư này
có thể bố trí chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên,
Đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng khác có khí hậu mát, lạnh quanh
năm.
2) Ngành chế biến (nông sản, hải sản và thực phẩm)
- Mía đường: đến nay cả nước có đến 38 nhà máy mía đường, trong đó có 5 nhà
máy có vốn ĐTNT. Như vậy có thể nói số lượng nhà máy và công suất của các
nhà máy đã đủ, không cần đầu tư thêm. Do đó, ngoài việc thu hút khuyến khích
các nhà mày sử dụng hết công suất, cần xem xét đến khả năng thu hút vốn
ĐTNN vào việc chết biến đường kết hợp với sản xuất ethanol (cồn) và phát
điện, đồng thời tiếp tục đầu tư thâm canh; nghiên cứu và sử dụng giống mía có
năng suất và trữ lượng đường cao. Các vùng dự án cần bố trí vùng nguyên liệu
tại duyên hải Nam Trung Bộ, duyên hải Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu
Long.
- Cà phê: Trong vong năm 5 tới (đến năm 2015) không cần thiết huy động vốn
đầu tư trồng mới đặc biệt là cà phê robusta, nên ổn định ở diện tích 450.000 -
500.000 ha, với sản lượng 1 triệu tấn. Do đó, với lĩnh vực này cần thu hút vốn

đầu tư nước ngoài vào việc chế biến đặc biệt là chế biến cà phê hoà tan, cà phê
rang xay... để đến 2015 đạt sản lượng từ 10.000 - 15.000 tấn/năm, trong đó xuất
khẩu chiếm 50%.
- Chè: Mục tiêu chung của ngành chè đến năm 2010 - 2015 là trồng mới và thay
thế dần diện tích chf cũ đạt mức ổn định khoảng 130.000 ha (đến năm 2020 ổn
định ở diện tích 140.000 ha); sản lượng chè bút tươi đến năm 2015 ước đạt 900
ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, giải quyết việc làm cho
khoảng 1,5 triệu lao động trên cả nước. Để đạt được mục tiêu này, ngoài việc
mở rộng các cơ sở chế biến trong nước, cà thu hút ĐTNT vào ngành này để cải
thiện chất lượng giống chè, kiểm soát ngặt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong
chè, nâng cao năng suất và chất lượng đạt hiệu quả xuất khẩu cao. Các dự án
ĐTNT có thể thực hiện tại một số tỉnh miền núi như Hà Giang, Tuyên Quang,
Lai Châu, Yên Bái, Sơn La và Lâm Đồng.
- Cao su: Định hướng đến năm 2015 và lâu hơn nữa của ngành cao su là nâng
cao chất lượng cao su, phát triển nhanh công nghiệp chế biến mủ cao su xuất
khẩu. Theo định hướng đó, cần tập trung thu hút ĐTNN vào đầu tư các nhà máy
công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực chế biến mủ cao su lu tâm (latex); phát
triển các sản phẩm công nghiệp cao su dùng làm nguyên liệu ngành giày dép và
may mặc; xây dựng các cơ sở chế biến các sản phẩm gỗ cao su công nghệ hiện
đại như máy ván sợi (MDF), ván ép, gỗ đúc... để nâng cao giá trị gỗ cao su.
- Rau quả: cần thu hút đầu tư ĐTNN để thực hiện các mục tiêu sau: xây dựng
các vùng nguyên liệu cây ăn qủa chủ lực, có lợi thế cạnh tranh, tập trung cho
các nhà máy theo hướng chủ yếu là thâm canh, xây dựng các vườn giống đạt
tiêu chuẩn và kiểm soát chất lượng; hiện đại hoá công nghệ bảo quản rau, quả
tươi phù hợp với vùng nguyên liệu và thị trường tiêu thụ; xây dựng hệ thống thu
hái, tuyển chọn, bảo quản, đóng gói những loại rau quả có chất lượng cao phục
vụ xuất khẩu.
3) Ngành chăn nuôi và chế biến thức ăn chăn nuôi
- Chăn nuôi: thu hút FDI để phát triển các loại gia súc gia cầm theo hướng sản
xuất hàng hoá, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung dưới hình thức trang

trại, nuôi công nghiệp gắn với sơ chế giết mổ và chế biến công nghiệp.
- Chế biến thức ăn chăn nuôi: mục tiêu của ngành chế biến thức ăn chăn nuôi
công nghiệp đến năm 2020 là đưa tỷ lệ sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp
từ 42% lên trên 70%. Để thực hiện mục tiêu đó, vai trò của ĐTNN rất quan
trọng. Do đó, mục tiêu thu hút ĐTNN tập trung vào xây dựng và cung ứng
nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi (như: ngô, đậu tương, cỏ...) và đầu
tư hạ tầng, thiết bị bốc dỡ, kho cảng biển nước sâu chuyên cho xuất - nhập
nguyên liệu, thức ăn chăn nuôi.
- Chế biến sản phẩm chăn nuôi: Hiện nay, tỷ trọng thịt được giết mổ, chế biến
công nghiệp còn rất khiêm tốn do công nghệ lạc hậu. Do vậy, cần thu hút
ĐTNN để thực hiện các dự án giết mổ, chế biến công nghiệp nhằm góp phần
tăng tỷ trọng thịt được giết mổ, chế biến công nghiệp từ 4% năm 2006 đến
khoảng 25% năm 2015 và 37% năm 2020.
4) Ngành trồng rừng - chế biến gỗ
- Ngành trồng rừng, chế biến bột giấy: Đến năm 2007, Việt Nam có khoảng 2,1
triệu ha đất trống phù hợp cho trồng rừng sản xuất nguyên liệu, cùng với tổng
diện tích 3 loại rừng 16,24 triệu ha, trong đó rừng sản xuất là 8,4 triệu ha. Để sử
dụng hiệu quả tài nguyên này, định hướng thu thút ĐTNN vào các nội dung sau:
+ Sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng
rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.
+ Trồng lại diện tích rừng trồng sản xuất hiện có (khoảng 840 nghìn ha) và áp
dụng các biện pháp kĩ thuật lâm sinh tiên tiến để đầu tư trồng mới loại cây mọc
nhanh, năng suất cao cung cấp nguyên liệu gỗ cho công nghiệp chế biến ván
nhân tạo, giấy.
+ Khuyến khích các dự án trồng rừng nguyên liệu ở những nơi phù hợp với các
giống cây có năng suất, chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của
ngành chế biến gỗ. Khuyến khích các chủ đầu tư xin cấp chứng chỉ quản lý rừng
bền vững cử FSC cho các khu rừng trồng mới này.
- Ngành chế biến gỗ, lâm sản: Trong những năm gần đây, ngành chế biến và
xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc với kim

ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng cao, năm 2007 đạt gần 2,4 tỷ USD, tăng gấp
hơn 10 lần so với năm 2000 (219 triệu USD). Hiện có khoảng hơn 900 doanh
nghiệp tham gia chế biến gỗ xuất khẩu, trong đó có gần 300 doanh nghiệp
ĐTNN quy mô lớn. Định hướng thu hút ĐTNN để thực hiện các dự án sau:
+ Phát triển các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao như đồ gỗ nội thất, đồ gỗ
ngoài trời, đồ mộc mỹ nghệ và sản phẩm mây tre.
+ Xây dựng, mở rộng các khu công nghiệp chế biến lâm sản ở các vùng có khả
năng cung cấp đủ nguyên liệu, ổn định, thuận lợi về cơ sở hạ tầng, đảm bảo có
lợi nhuận và cạnh tranh được trên thị trường khu vực và quốc tế.
+ Xây dựng các cơ sở sản xuất, chế biến tổng hợp gỗ rừng trồng và lâm sản
ngoài gỗ; chế biến ván nhân tạo và bột giấy, giảm dần chế biến dăm gỗ xuất
khẩu.
+ Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, ít nguyên liệu song
đạt giá trị cao...
5) Ngành thủy sản
- Khai thác thủy sản: Việt Nam có chiều dài bờ biển 3260 km với trên 1000
km
2
vùng đặc quyền kinh tế; trữ lượng hải sản khoảng 5 triệu tấn với khả năng
khai thác bền vững, tối đa 2 triệu tẩn/năm. Định hướng thu hút ĐTNN trong
ngành này là tập trung vào các dự án sử dụng công nghệ khai thác nghề cá có
trách nhiệm, khai thác loài cá có giá trị kinh tế cao, giảm tối đa khai thác loài cá
phụ, đồng thời không làm xáo động ngư dân ở vùng khai thác.
- Nuôi trồng thủy sản: Việt Nam có tiềm năng nuôi thủy sản lớn với trên 2 triệu
ha, trong đó 500000 ha mặn lợ, 400000 ha hồ ao, ruộng trũng và 500000 ha
vịnh đầm nuôi biển. Định hướng thu hút ĐTNN vào ngành này trong tời gian
tới là khuyến khích các dự án sản xuất giống và nuôi các loài giá trị cao (như
giống cá biển các loại, các loại giống bố mẹ sạch bệnh); sản xuất thức ăn hữu
cơ, vi sinh phục vụ phương pháp nuôi GAP, nuôi trồng thủy sản trên biển và hải
đảo...

- Chế biến và xuất khẩu thủy sản: Định hướng thu hút ĐTNN tập trung vào việc
đổi mới công nghệ chế biến phù hợp với tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm,
có chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế HACCP, GMP, SSOP; mở rộng
chủng loại và khối lượng hàng thủy sản có giá trị gia tăng, hàng phối chế, hàng
ăn liền đạt tỷ trọng 60 - 65% sản phẩm giá trị gia tăng trong cơ cấu giá trị xuất
khẩu thủy sản.
Như vậy có thể thấy, cơ sở pháp lý cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được xây dựng
một cách có hệ thống và chặt chẽ; nhiệm vụ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài được Đảng và Chính phủ đánh giá là nhiệm vụ quan trọng góp phần thực
hiện thành công công cuộc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn giai
đoạn tới.
3.1.3. Cơ sở thực tiễn
Qua việc phân tích thức tế hiệu quả FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn ở Chương 2 cho thấy, FDI đã có vai trò rất lớn trong việc
thúc đẩy phát triển nông nghiệp và thông thôn giai đoạn qua. FDI đã góp tăng
thu cho ngân sách Nhà nước; từ năm 1998 đến nay, nộp ngân sách của khu vực
có vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 200 triệu USD, và tăng dần qua các
năm. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, một yếu tố nền
tảng đổi mới nông nghiệp nông thôn. đem vào Việt Nam nhiều thiết bị, công
nghệ tiên tiến, nhiều giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu
chuẩn quốc tế. FDI đã góp phần hình thành các khu công nghiệp mới trong
nông thôn. FDI góp phần tạo việc làm, nâng cao mức sống dân cư nông thôn;
đến nay các dự án ĐTNN vào lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp đã thu hút khoảng
140000 lao động trực tiếp, chưa kể số lượng lớn các lao động thời vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế thu hút và sử
dụng FDI còn có nhiều mặt hạn chế. Tỷ trọng ĐTNN còn thấp và thiếu ổn định;
chưa phát huy huy đầy đủ tiềm năng, thế mạnh trong ngành trồng trọt và chế
biến nông sản, ĐTNN có xu hướng tập trung vào việc khai thac tiềm năng, nguồn
lực sẵn có về đất đai, lao động. Phân bổ nguồn vốn ĐTNN không đồng đều giữa

các địa phương, chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi như miền
Đông Nam Bộ (54%), trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi
phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%). Đối tác nước ngoài tham gia đầu tư
trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn thiếu tính đa dạng; cho đến nay, đã có
các nhà đầu tư từ trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam nhưng đối tác nước ngoài trong lĩnh vực
này vẫn chủ yếu là các nhà đầu tư từ châu Á.
Như vậy có thể thấy, việc thu hút, quản lý và sử dụng FDI trong lĩnh vực
nông nghiệp và phát triển nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy
phát triển nền nông nghiệp nhưng chưa thực sự hiệu quả và tương xứng với vai
trò của nền nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế này thì nhiều, tuy nhiên có thể thấy một số nguyên nhân chính
như sau:
- Thủ tục hành chính, hành lang pháp lý trong việc thu hút và quản lý FDI
còn quá phức tạp, rườm rà nhiều khi gây khó hiểu thậm chí gây hiểu
nhầm cho các nhà đầu tư; một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa

×