Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thiết kế và tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ NGUYỆT QUẾ
THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4

Chuyên ngành:

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VĂN THỊ THANH NHUNG

Thừa Thiên Huế, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong một công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nguyệt Quế


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến
PGS.TS.VĂN THỊ THANH NHUNG đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu.


Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học trường
Đại học Sư phạm Huế, trường Tiểu học Nghĩa Lộ thành phố Quãng Ngãi đã tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực nghiệm.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, gia đình, đồng nghiệp đã quan tâm, động viên,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Nguyễn Thị Nguyệt Quế


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết là

Đọc là

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

HĐTN

Hoạt động trải nghiệm


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1: Cách tiếp cận với HĐTN của giáo viên
Bảng 1.2: Nhà trường thực hiện triển khai các HĐTN

Bảng 1.3: Các phương pháp dạy học được sử dụng trong giờ lên lớp
Bảng 1.4: Nhận định mức độ đáp ứng của HĐTN đối với mục tiêu môn học
Bảng 1.5: Nhận định về mức độ đáp ứng của HĐTN trong thực tiễn
Bảng 2.1: Các tiêu chí đánh giá chung của hoạt động trải nghiệm
Bảng 2.2: Phương pháp và công cụ đánh giá hoạt động trải nghiệm
Bảng 3.1: Mức độ hứng thú với các hoạt động trải nghiệm đã tổ chức
Bảng 3.2: Mức độ lĩnh hội kiến thức bài học
Bảng 3.3: Mong muốn của HS về các hoạt động trải nghiệm


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới chủ động hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, trước sự đổi mới
ngày càng toàn diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, nền giáo dục cũng có nhiều
đổi mới theo hướng tích cực. Chúng ta đã quan tâm nhiều đến việc đổi mới dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập
và ý thức vươn lên trong học tập nhằm đào tạo một nguồn nhân lực đầy đủ phẩm
chất, trí tuệ góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong tiến
trình đổi mới đó, việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong quá trình dạy học các
môn học có vai trò rất quan trọng.
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (dự thảo) được công bố vào những
ngày giữa tháng 4/2017 thêm một lần nữa khẳng định sự hiện diện của hoạt động
trải nghiệm ở nhà trường tiểu học với tư cách một môn học bắt buộc. Đây là hoạt
động có tính chất xuyên suốt, được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12. Sau một hành
trình dài, với những cách định danh khác nhau, hoạt động trải nghiệm được đề xuất
như một biện pháp giúp người học “dựa trên sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh
vực giáo dục và nhóm kĩ năng khác nhau để trải nghiệm thực tiễn”, qua đó “hình
thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc

trưng”. Đối với học sinh tiểu học, hoạt động trải nghiệm luôn có sức hấp dẫn đặc
biệt và từ đó, năng lực người học được hình thành, phát triển một cách linh hoạt,
mềm dẻo và khoa học.
Cùng với môn Toán và môn Tiếng Việt, Khoa học là một trong những môn
học có tầm quan trọng nhất của chương trình Tiểu học. Môn Khoa học lớp 4 tích
hợp các nội dung của khoa học tự nhiên với khoa học về sức khỏe với các chủ đề:
Con người và sức khỏe, Vật chất và năng lượng, Thực vật và động vật. Các nội
dung, kiến thức chủ yếu gần gũi với cuộc sống thực tiễn của các em nên rất phù hợp
với việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm. Đồng thời, để giải phóng được những tố
chất tiềm ẩn ở những “người tiếp nhận, lĩnh hội đặc biệt” - học sinh tiểu học và khai


thác hết những lợi thế của hoạt động trải nghiệm thì đề tài vẫn thực sự là một hướng
đi mới, mang đến giá trị giáo dục trong thời điểm hiện nay.
Thực tế cho thấy rằng có nhiều hình thức, phương pháp dạy học được vận
dụng trong quá trình dạy học Khoa học lớp 4 ở nhà trường tiểu học và cho đến nay,
các phương pháp, hình thức tổ chức đó đều đã gặt hái được những thành công nhất
định. Song, việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm đã và đang được thực hiện
nhưng còn hạn chế và chưa thực sự mang lại những kết quả như mong đợi. Nhiều
giáo viên tiểu học vẫn còn lúng túng và trăn trở: làm thế nào để học sinh tích cực, tự
giác tham gia các hoạt động trải nghiệm để giúp các em học tập tốt hơn, để những gì
học được tác động vào chính cuộc sống của các em?
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Thiết kế
và tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế và tổ chức các hoạt động trải nghiệm nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế và tổ chức được các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn
Khoa học 4 phù hợp thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Khoa học

4, đồng thời giúp học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực học tập và phát triển
toàn diện các năng lực, phẩm chất cho các em.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, dạy học môn Khoa học 4 tại Trường Tiểu học Nghĩa
Lộ - Thành phố Quảng Ngãi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ chức các hoạt động trải
nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4.


5.2. Phân tích mục tiêu, cấu trúc, nội dung môn Khoa học lớp 4 để làm cơ sở
cho việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm thông qua các nội dung kiến thức.
5.3. Điều tra, khảo sát thực trạng để đánh giá nội dung, cách thức, kết quả tổ
chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học Khoa học lớp 4 ở nhà trường tiểu học
hiện nay.
5.4. Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
5.5. Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi, hiệu quả việc tổ chức
cho học sinh học tập môn Khoa học lớp 4 qua một số hoạt động trải nghiệm đã thiết
kế, đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước liên quan đến đổi mới cách
dạy và học hiện nay theo hướng tích cực hóa hoạt động học của học sinh.
- Nghiên cứu các công trình có liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học,
các tư liệu, sách, báo, tạp chí, luận văn và các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài để xây dựng các hoạt động trải nghiệm.
6.2. Điều tra thực trạng

Điều tra thực trạng dạy học Khoa học 4 ở trường Tiểu học Nghĩa Lộ - Thành
phố Quảng Ngãi bằng các phiếu điều tra liên quan tới nội dung nghiên cứu trên đối
tượng học sinh và giáo viên.
6.3. Phương pháp chuyên gia
Trao đổi, xin ý kiến của các nhà nghiên cứu, chuyên gia có nhiều kinh
nghiệm về lĩnh vực đang nghiên cứu, lắng nghe sự tư vấn của các chuyên gia để
định hướng cho việc triển khai đề tài.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm tổ chức một số hoạt động trải nghiệm trong dạy môn Khoa học
cho học sinh lớp 4 đã đề xuất để đánh giá tính khả thi của đề tài.
7. Lược sử vấn đề nghiên cứu
7.1. Trên thế giới


Trên thế giới, hoạt động trải nghiệm đã sớm được các đã được nhiều nhà
chuyên môn và các tổ chức thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm và tập trung
nghiên cứu. Hiện nay, chúng tôi đã tiếp cận được một số công trình nghiên cứu sau:
Một trong những lý thuyết nghiên cứu trực tiếp đến hoạt động trải nghiệm
sáng tạo trong dạy học là Lý thuyết học từ trải nghiệm của David A Kolb. Trong
Lý thuyết học từ trải nghiệm, Kolb cũng chỉ ra rằng “Học từ trải nghiệm là quá
trình học theo đó kiến thức, năng lực được tạo ra thông qua việc chuyển hóa kinh
nghiệm. Học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm những khác ở chỗ là
nó gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân”. Đồng thời, chúng tôi cũng thu nhận
được những thông tin hữu ích từ những nghiên cứu của David A. Kolb trong cuốn
“Experiential learning, experience as the source of learning and development”
(1984). Cuốn sách đã đề xuất một “chu trình học trải nghiệm” và được xem là cơ sở
nền tảng cho việc xây dựng quy trình tổ chức những hình thức trải nghiệm sáng tạo
được các nhà giáo dục quan tâm và áp dụng. [25]
Tại Hàn Quốc (một trong những quốc gia có nền giáo dục phát triển nhất
của khu vực), trong cuốn “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” – Bộ KH - KT và GD

Hàn Quốc, 2009, đã nói tới một trong những chương trình đổi mới của giáo dục
Hàn Quốc là hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là
những hoạt động nằm ngoài các hệ thống các môn học trong nhà trường, đó là
những hoạt động tự chủ, hoạt động câu lạc bộ, hoạt động từ thiện và hoạt động định
hướng. Hoạt động trải nghiệm sáng tại Hàn Quốc không tách rời hệ thống các môn
học trong nhà trường mà có quan hệ tương tác, bổ trợ nhau để hình thành và phát
triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, kĩ năng sống và năng lực cần có trong xã
hội hiện đại. Hoạt động này mang tính thực tiễn rất cao, gắn bó với đời sống và
cộng đồng, có tính tổng hợp nhiều lĩnh vực giáo dục.
Tài liệu tiếng Anh về vấn đề cho trẻ tham gia các hoạt động trải nghiệm thực
tiễn nhằm phát triển khả năng sáng tạo, khơi dậy hứng thú và đam mê học tập. Tiêu
biểu có “Adventure Learning for Primary school” (2012), “Adventure Learning
Professional Development for teacher” (2012). Nếu “Adventure Learning for
Primary school” giúp kiến giải những vấn đề cơ bản về hoạt động trải nghiệm sáng


tạo như “Why Adventure?”, “Working with you” (cụ thể là nêu bật lí do tại sao đưa
trải nghiệm vào quá trình giáo dục, giới thiệu một số chương trình - khóa học trải
nghiệm có ích dành cho lứa tuổi học sinh tiểu học) thì “Adventure Learning
Professional Development for teacher” là tài liệu tham khảo và là công cụ hỗ trợ
đắc lực cho giáo viên về việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà
trường sao cho hiệu quả nhất. Cả hai tài liệu có điểm chung là đều nhấn mạnh vai
trò của hoạt động trải nghiệm sáng tạo, xem đó là những “vận động có lợi” tạo ra cơ
hội cho học sinh áp dụng những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn, mở rộng
vốn hiểu biết trên tất cả mọi lĩnh vực, phát triển vốn kinh nghiệm sống cũng như
năng lực sử dụng từ ngữ [30]
Như vậy, có thể thấy vấn đề về việc học tập qua trải nghiệm được các nhà
khoa học, nhà giáo dục nước ngoài quan tâm nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác
nhau: bản chất, vai trò, hình thức, chu trình học trải nghiệm,… Đây chính là tiền đề
quan trọng hỗ trợ cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.

7.2. Trong nước
Bắt nhịp với xu thế chung đồng thời hỗ trợ tích cực cho việc xây dựng
chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực học sinh giai
đoạn sau 2015, các nhà khoa học trong nước đã công bố khá nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu về hoạt động trải nghiệm. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu sau:
Tiểu biểu là bài viết của PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống nghiên cứu “Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo từ kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam”. Tác giả
giới thiệu kinh nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong giáo dục phổ
thông nước Anh và Hàn Quốc. Đây đều là những nước đã đưa hoạt động trải
nghiệm sáng tạo vào chương trình đào tạo từ sớm và đạt được những kết quả to lớn.
Đồng thời tác giả cũng cho rằng chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ
giúp nhà trường gắn liền với cuộc sống, xã hội; giúp học sinh phát triển hài hòa giữa
thể chất và tinh thần. Việc thực hiện chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo ở
nhà trường phổ thông được các nước phát triển thực hiện một cách linh hoạt, có
nước do nhà trường tổ chức, có nước do tổ chức xã hội kết hợp với nhà trường để tổ


chức chương trình này một cách hài hòa vừa giúp học sinh trải nghiệm thực tiễn vừa
học tốt các môn học chính khóa. [20]
Bài viết “Hình thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà
trường phổ thông” của ThS. Bùi Ngọc Diệp đã trình bày một số hình thức tổ chức
các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông bao gồm: Hoạt động
câu lạc bộ; tổ chức trò chơi; tổ chức diễn đàn; sân khấu tương tác; tham quan dã
ngoại; hội thi/ cuộc thi; tổ chức sự kiện; hoạt động giao lưu; hoạt động chiến dịch;
tình nguyện, nhân đạo[6]....
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Liên - Nguyễn Thị Hằng - Tưởng Duy Hải - Đào
Thị Ngọc Minh với cuốn sách “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà
trường phổ thông” cũng đưa ra khá đầy đủ cơ sở khoa học của tổ chức hoạt động
trải nghiệm sáng tạo, những nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức và định

hướng đánh giá hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông. Các
nhà khoa học cũng đã đề xuất những mẫu thiết kế hoạt động trải nghiệm với các yêu
cầu cơ bản: (1) Đảm bảo khung logic của các hoạt động trong một chủ đề Hoạt
động trải nghiệm ; (2) Đảm bảo sự trải nghiệm của học sinh; (3) Đảm bảo môi
trường để học sinh trải nghiệm. [14]
Trong dự thảo “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể sau năm 2015”, kế
hoạch giáo dục bao gồm các môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm
sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được chú trọng và đề cao trong vai trò
hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực cho người học. “Hoạt động trải nghiệm
sáng tạo, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong
môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn
và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất, nhân
cách, các năng lực,... từ đó tích lũy kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng
sáng tạo của mình” [1, tr10].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã mang đến một nguồn tư liệu
phong phú cho việc thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy học từ theo hình thức trải
nghiệm. Mặc dù chưa có một đề tài nào đề cập trực tiếp đến việc thiết kế và tổ chức
các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4, song nhờ những


thành tựu nói trên, chúng tôi đã phần nào có những cơ sở vững chắc về lí luận cho
quá trình nghiên cứu.
8. Những đóng góp mới của đề tài
8.1. Góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận về bản chất, vai trò và những đặc
trưng của hoạt động trải nghiệm trong dạy học nói chung và trong dạy học Khoa
học nói riêng để vận dụng vào quá trình dạy học Khoa học lớp 4.
8.2. Điều tra thực trạng về việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy
học nói chung và trong dạy học môn Khoa học lớp 4 trong các nhà trường Tiểu học
hiện nay. Trên cơ sở đó, xác định nguyên nhân gây ra thực trạng để có thể thiết kế
và tổ chức các hoạt động trải nghiệm một cách hiệu quả hơn.

8.3. Thiết kế được một số các hoạt động trải nghiệm theo hướng phát triển tích
cực chủ động của học sinh trong dạy học các nội dung, kiến thức của môn Khoa học
lớp 4.
9. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thiết kế và tổ chức các hoạt động trải nghiệm
trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc thiết kế và tổ chức các hoạt
động trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
Chương 2: Thiết kế và tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn
Khoa học lớp 4.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm hoạt động trải nghiệm
Trước sự phát triển của nền khoa học giáo dục hiện đại, nền giáo dục nước ta
cũng đang trên đà đổi mới căn bản và toàn diện. Với những xu hướng phát triển
giáo dục mới để bắt kịp với sự phát triển của xã hội thì việc xuất hiện các hình thức
tổ chức dạy học, phương pháp giáo dục mới dựa trên sự kế thừa và phát huy từ các
nền giáo dục hiện đại trên thế giới là điều tất yếu. Trong các hình thức đổi mới đó,
phải kể đến hình thức dạy học thông qua các hoạt động trải nghiệm, với nhiều cách
hiểu khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử như: hoạt động giáo dục tổng hợp hay
hoạt động giáo dục đặc biệt, hoạt động trải nghiệm sáng tạo.

Để hiểu rõ được về khái niệm “hoạt động trải nghiệm”, cần xuất phát từ hai
thuật ngữ “hoạt động” , “trải nghiệm” và mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng.
 Hoạt động
Cuộc sống cá nhân hằng ngày là một “dòng hoạt động”, nói cách khác, cá
nhân là chủ thể của các hoạt động thay thế nhau. Hoạt động là quá trình cá nhân
thực hiện các quan hệ giữa họ với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản thân.
Đó là quá trình chuyển hóa năng lực lao động (cùng với các phẩm chất tâm lí) của
bản thân thành sự vật, thành thực tế và quá trình ngược lại chính là sự “tách những
thuộc tính sự vật của thực tế quay trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần
của chủ thể” [13].
 Trải nghiệm
Trong cuộc sống hằng ngày, thuật ngữ trải nghiệm được dùng một cách
thường xuyên và phổ biến, nên cũng có những cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau
về trải nghiệm này.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết, từng
chịu đựng”, còn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế nhận thấy điều đó đúng”. Như


vậy, trải nghiệm có nghĩa là quá trình chủ thể được trực tiếp tham gia hoạt động và
rút ra những kinh nghiệm cho bản thân. [18]
Theo Từ điển Wikipedia, “Trải nghiệm là tổng quan khái niệm bao gồm tri
thức, kĩ năng có được sau khi quan sát sự vật hoặc sự kiện thông qua sự tham gia,
tiếp xúc trực tiếp đến sự vật hoặc sự kiện nào đó”.
Theo Từ điển bách khoa tâm lí học - giáo dục học Việt Nam, “Trải nghiệm,
theo nghĩa chung nhất, là bất kỳ một trạng thái có màu sắc xúc cảm nào được chủ
thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng với tri thức, ý thức) trong đời
sống tâm lí của từng người. Theo nghĩa hẹp hơn, chuyên biệt hơn của tâm lí học, là
những tín hiệu bên trong nhờ đó có ý nghĩa của các sự kiện đang diễn ra đối với cá
nhân được ý thức, chuyển thành ý riêng của cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các
tác động cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân” [21].

Các nhà nghiên cứu khác cho rằng “trải nghiệm là những tồn tại khách quan
tác động vào giác quan con người, tạo ra cảm giác, tri giác, biểu tượng, con người
cảm thấy có tác động đó và cảm nhận nó một cách rõ nét, để lại ấn tượng sâu đậm,
rút ra bài học vận dụng vào thực tiễn đời sống, hình thành nên các thái độ giá trị”
[16]. Trải nghiệm luôn gắn liền với hoạt động. Con người qua những hoạt động lao
động, vui chơi, học tập hàng ngày, đã tạo ra những trải nghiệm cho chính mình về
cảm xúc, tư duy, kinh nghiệm.
Khi gắn hoạt động và trải nghiệm, chúng ta có thể thấy được mối liên hệ qua
lại giữa chúng. Chính hoạt động tạo ra trải nghiệm và ngay cả trong hoạt động cũng
đã bao hàm trải nghiệm. Nhưng không thể dùng phép cộng đơn giản giữa hai thuật
ngữ là đã hình thành ngay khái niệm “hoạt động trải nghiệm”. Phải hiểu rằng chỉ
những hoạt động giáo dục có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành những năng
lực, phẩm chất cho người học đảm bảo đầy đủ cả hai yếu tố hoạt động và trải
nghiệm mới được gọi là những hoạt động trải nghiệm.
Trong “Tài liệu tập huấn Kĩ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong trường tiểu học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức
của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong


nhà trường hoặc xã hội qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách,
các năng lực và tích lũy kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo
của cá nhân”.[3]
Trong Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể được thông
qua vào tháng 7/2017, các nhà giáo dục, các nhà khoa học đã lược bỏ đi cụm từ
“sáng tạo”, tuy nhiên nó vẫn nêu được những điểm cơ bản nhất và vai trò của hoạt
động trải nghiệm trong trường học. Chương trình quy định rõ Hoạt động trải
nghiệm là một hoạt động giáo dục bắt buộc, nội dung hoạt động trải nghiệm được
thiết kế thành các chủ đề; học sinh được lựa chọn học phần, chủ đề phù hợp với
nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức của nhà trường.

Tác giả Bùi Ngọc Diệp đưa ra quan niệm về hoạt động trải nghiệm trong nhà
trường phổ thông như sau: “Các em được chủ động tham gia vào tất cả các khâu của
quá trình hoạt động: từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết
quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; các em
được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh giá và lựa chọn ý
tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh
giá kết quả hoạt động của bản thân” [6]. Theo tác giả, hoạt động trải nghiệm diễn ra
dưới nhiều hình thức khác nhau: tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác,
tham quan dã ngoại, hoạt động giao lưu,... Nhà nghiên cứu Đinh Thị Kim Thoa
trong một số nghiên cứu của mình đã đề cập đến sự khác biệt giữa học thông qua
làm và học bằng trải nghiệm: “Học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm
nhưng khác ở chỗ là nó gắn với kinh nghiệm và xúc cảm cá nhân” [19] .
Như vậy, có thể hiểu hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục trong đó
dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham
gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà
trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát
triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của
bản thân mình. Mặc dù được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng về bản
chất nó vẫn là hoạt động giáo dục thông qua sự trải nghiệm và sáng tạo của cá nhân,
sự kết nối kinh nghiệm được học trong nhà trường và thực tiễn cuộc sống, nhờ đó


các kinh nghiệm được tích lũy và dần chuyển hóa thành năng lực của người học.
Các mô hình hoạt động trải nghiệm giúp gắn kết người học - người dạy, người học nhà trường và còn tạo cầu nối giúp học sinh phát triển các kĩ năng sống cần thiết,
các loại năng lực để làm hành trang bước vào đời.
1.1.2. Đặc trưng của hoạt động trải nghiệm
1.1.2.1. Nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo mang tính tích hợp
và phân hóa cao
Nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa dạng và mang tính tích
hợp, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực hoạt động và

giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá
trị sống, giáo dục thẩm mĩ, nghệ thuật, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao
thông…..Nội dung giáo dục của hoạt động trải nghiệm sáng tạo thiết thực và gần
gũi với cuộc sống thực tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học sinh, giúp các
em vận dụng những hiểu biết của mình vào trong cuộc sống một cách dễ dàng,
thuận lợi. Các nội dung của hoạt động trải nghiệm thường thuộc 4 nhóm sau đây:
- Nhóm các hoạt động xã hội
- Nhóm các hoạt động học thuật
- Nhóm các hoạt động nghệ thuật và thể thao
- Nhóm các hoạt động định hướng nghiệp.
1.1.2. Hoạt động trải nghiệm được thực hiện dưới nhiều hình thức đa
dạng
Hoạt động trải nghiệm được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như trò
chơi, hội thi, diễn đàn, giao lưu, tham quan du lịch, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát,
múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,...), thể dục thể thao, câu lạc bộ, tổ chức các ngày
hội, các công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật... Mỗi một hình thức hoạt động
trên đều tiềm tàng trong nó những khả năng giáo dục nhất định. Nhờ các hình thức
tổ chức đa dạng, phong phú mà việc giáo dục học sinh được thực hiện một cách tự
nhiên, sinh động, nhẹ nhàng, hấp dẫn, không gò bó và khô cứng, phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý cũng như nhu cầu, nguyện vọng của học sinh. Trong quá trình
thiết kế, tổ chức, đánh giá các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, cả giáo viên lẫn học


sinh đều có cơ hội thể hiện sự sáng tạo, chủ động, linh hoạt của mình, làm tăng
thêm tính hấp dẫn, độc đáo của các hình thức tổ chức hoạt động. Sự đa dạng của
hình thức trải nghiệm cũng tạo cơ hội thực hiện giáo dục phân hóa.
Với nhiều hình thức tổ chức đa dạng, hoạt động trải nghiệm có thể được tổ
chức theo các quy mô khác nhau nhau: theo nhóm, theo lớp, theo khối lớp, theo
trường hoặc liên trường. Với một quy mô khác nhau sẽ tạo được những hiệu quả giáo
dục khác nhau. Tuy nhiên, tổ chức theo quy mô nhóm và quy mô lớp có thế hơn về

nhiều mặt như: tổ chức đơn giản, không tốn kém, mất ít thời gian, học sinh tham gia
được nhà nhiều hơn và có nhiều khả năng hình thành và phát triển các năng lực cho
học sinh hơn.
Địa điểm tổ chức hoạt động trải nghiệm cũng khá phong phú, không gò bó
trong một giờ dạy nhất định, mà có thể tổ chức ở các địa điểm khác nhau cho phù
hợp với từng bày dạy như: thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học tin học, sân
trường… hay các địa điểm ngoài trường như: công viên, nhà máy, xí nghiệp….
Có thể nói, căn cứ vào mục tiêu của hoạt động trải nghiệm mà giáo viên cần
phải biết cách lựa chọn và thiết kế, tổ chức cho phù hợp với bài học, nhu cầu của
học sinh, điều kiện lớp học…
1.1.2.3. Hoạt động trải nghiệm mang tính sáng tạo
Học qua trải nghiệm là quá trình học tích cực, sáng tạo và hiệu quả bởi hoạt
động trải nghiệm sáng tạo sẽ tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ
động, tự giác và sáng tạo của bản thân học sinh. Nó có khả năng huy động sự tham
gia tích cực của học sinh vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: từ thiết kế
hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; tạo cơ hội cho các em được trải nghiệm,
được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động,
được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt
động của bản thân, của nhóm mình và của bạn bè…Từ đó hình thành và phát triển
cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết.
1.1.2.4. Hoạt động trải nghiệm đòi hỏi sự phối hợp, liên kết nhiều lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường


Khác với hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm có khả năng thu hút sự
tham gia, phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
như: Giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên bộ môn, cán bộ Đoàn, tổng phụ trách Đội,
ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương, hội khuyến
học, hội phụ nữ, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội cựu chiến binh, các cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp ở địa phương, các nhà hoạt động xã hội, những nghệ
nhân, những người lao động tiêu biểu ở địa phương, những tổ chức kinh tế… Mỗi
lực lượng giáo dục có tiềm năng, thế mạnh riêng. Tùy nội dung, tính chất từng hoạt
động mà sự tham gia của các lực lượng có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp; có thể là
chủ trì, đầu mối hoặc phối hợp; có thể về những mặt khác nhau (có thể hỗ trợ về
kinh phí, phương tiện, địa điểm tổ chức hoạt động hoặc đóng góp về chuyên môn,
trí tuệ, chất xám hay sự ủng hộ về tinh thần). Do vậy, hoạt động trải nghiệm tạo
điều kiện cho học sinh được học tập, giao tiếp rộng rãi với nhiều lực lượng giáo
dục; được lĩnh hội các nội dung giáo dục qua nhiều kênh khác nhau, với nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Điều đó làm tăng tính đa dạng, hấp dẫn và chất lượng, hiệu quả
của hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
1.1.2.5. Hoạt động trải nghiệm giúp lĩnh hội những kinh nghiệm mà các
hình thức học tập khác không thực hiện được
Mục tiêu quan trọng của hoạt động học tập là lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã
hội loài người và thế giới xung quanh bằng nhiều con đường khác nhau để phát
triển nhân cách. Tuy nhiên, có những kinh nghiệm chỉ có thể lĩnh hội thông qua trải
nghiệm thực tiễn. Học qua hoạt động trải nghiệm giúp lĩnh hội kinh nghiệm đối với
một số lĩnh vực tri thức mà không một hình thức nào thực hiện được. Ví dụ, phân
biệt mùi vị, cảm thụ âm nhạc, tư thế cơ thể trong không gian, niềm vui sướng hạnh
phúc…những điều này chỉ thực sự có được khi học sinh được trải nghiệm với
chúng. Sự đa dạng trong trải nghiệm sẽ mang lại cho học sinh vốn sống kinh
nghiệm phong phú mà nhà trường không thể cung cấp thông qua các công thức hay
định luật, định lí…Qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, học sinh học luôn cả nội
dung của hoạt động và cả con đường, cách tổ chức hoạt động, quản lý hoạt động.


Hoạt động học tập trải nghiệm khuyến khích các hoạt động học tập của học
sinh. Phương pháp này chủ yếu tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm liên tiếp cho học
sinh để các em khám phá từng bước khả năng sáng tạo của mình. Học sinh không
phải học thuộc lòng ý nghĩa hay giá trị của mỗi chủ đề bài học mà các em được rèn

luyện óc quan sát, cách miêu tả hay cách phỏng vấn các chủ đề mà các em đang
quan tâm. Các em làm quen với phương pháp nghiên cứu, thu thập và xử lý thông
tin, trình bày bằng các hình thức đa dạng như triển lãm, thuyết trình, báo tường,
kịch nói….các kết quả tìm hiểu của mình hay của nhóm mình. Sự đam mê, chủ
động khám phá sẽ dẫn các em đến sự sáng tạo. Thông qua hoạt động học tập trải
nghiệm sáng tạo, các em sẽ được rèn luyện nhiều kĩ năng sống mà không một
phương pháp dạy học nào có thể đạt được.
Với hoạt động trải nghiệm đòi hỏi người thầy không nhằm truyền thụ một
chiều cho học sinh những kiến thức hàn lâm, cũng không dừng lại ở việc giúp học
sinh nắm bắt được những gì đề cập đến trong mỗi chủ đề, mà hướng đến việc cung
cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và ý
nghĩa của bài học, từ đó hình thành học sinh phương pháp đọc và quan sát một cách
tích cực, chủ động, có quan điểm và chính kiến cá nhân.
Sự tương tác trong lớp học được đánh giá rất cao. Học sinh được kì vọng sẽ
suy nghĩ về các kiến thức mà mình được dạy rồi liên hệ thực tế, phát triển và trình
bày ý kiến cá nhân
Dạy học trải nghiệm sáng tạo thiên về phương pháp, kĩ năng giúp học sinh
phát triển được năng lực và thái độ tích cực để có thể tự mình tiếp nhận và sử lí
những thông tin được học hay không được học trong chương trình.
Tóm lại, học từ trải nghiệm là một phương thức học hiệu quả, nó giúp hình
thành năng lực cho người học. Học từ trải nghiệm có thể thực hiện với bất cứ lĩnh
vực tri thức nào, khoa học hay đạo đức, kinh tế, xã hội…Học từ trải nghiệm cũng
cần được tiến hành có tổ chức, có hướng dẫn theo quy trình nhất định của nhà giáo
dục thì hiệu quả của việc học qua trải nghiệm sẽ tốt hơn. Hoạt động giáo dục nhân
cách học sinh chỉ có thể tổ chức qua trải nghiệm.


1.1.3. Vai trò của hoạt động trải nghiệm
Ngày nay, giáo dục trải nghiệm đang tiếp tục phát triển và hình thành mạng
lưới rộng lớn trên toàn thế giới. UNESCO đã nhìn nhận: Giáo dục trải nghiệm như

là một triển vọng tương lai tươi sáng cho giáo dục toàn cầu trong các thập kỉ tới.
Edgar Dale (1946) cũng chỉ ra rằng:
Chúng ta nhớ…
20 % những gì chúng ta đọc
20 % những gì chúng ta nghe
30 % những gì chúng ta nhìn
90 % những gì chúng ta làm.
Có thể nói, rõ ràng, hoạt động trải nghiệm sáng tạo có vai trò rất quan trọng
trong quá trình dạy học, bởi lẽ:
Thứ nhất, HĐTN giúp phát huy được tính tích cực, tư duy độc lập sáng tạo
cho học sinh và khai thác tiềm năng của học sinh bằng sự nỗ lực của chính bản
thân mình. Học tập trải nghiệm chú trọng vào việc giúp học sinh khai thác những
tiềm sẵn có, định hình những thói quen, tính cách tốt ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường để tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển tiếp theo. Tổ chức HĐTN
góp phần phát triển khả năng quan sát, tìm tòi suy nghĩ, đặc biệt là khả năng tư
duy đến cao độ…Các HĐTN luôn luôn gắn liền với thực tiễn chính vì thế nó nâng
cao tính cộng đồng, tập thể, có thể coi đây là hoạt động đời thường có ý nghĩa
vượt ra khỏi phạm vi không gian lớp học. Từ đó, hình thành cho các em lòng tự
tin, ý chí quyết tâm đạt kết quả cao trong học tập, lòng trung thực, tinh thần tập
thể, ý thức giúp đỡ nhau trong học tập, khắc phục chủ quan, tự mãn, ỷ lại tạo ra
tâm thế động lực tích cực cho người học, cho HS quen với cách làm việc có tính
hệ thống. Đồng thời, khi tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo, học sinh được
trải qua thực tiễn, được “nhúng” mình trong các tình huống giáo dục, trong các
môi trường giáo dục khác nhau và từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát huy khả
năng sáng tạo của mình một cách tối đa. Phương pháp học này không áp đặt học
sinh mà giáo viên chỉ quan sát và đưa ra các gợi ý, trợ giúp các em, khuyến khích
tối đa sự sáng tạo của học sinh.


Thứ hai, học tập trải nghiệm là mô hình học tập tiên tiến nhằm giúp học

sinh hoàn thiện bản thân mình. Học tập trải nghiệm tạo ra sự tự tin cho học sinh
trong học tập, hình thành năng lực học tập cho học sinh: lập kế hoạch, tổ chức làm
việc nhóm, thu thập và xử lí thông tin, lập báo cáo, thuyết trình, đánh giá và tự
đánh giá. Qua các giờ học đó, học sinh sẽ cảm thấy yêu thích môn học và hiểu
kiến thức một cách sâu sắc hơn. Ngoài ra, học tập trải nghiệm là điều kiện học hỏi
lẫn nhau, nghiên cứu khoa học, làm việc với tài liệu, giúp học sinh phát huy tính
tích cực tự học, sáng tạo, tính tự giác, rèn luyện các kĩ năng, phát triển năng lực
cho HS: năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT). Các bài học gắn với thực tiễn đời sống, tăng thời
gian thực hành đã giúp cho học sinh động não, trải nghiệm và giải quyết những
vấn đề của cuộc sống linh hoạt, hiệu quả hơn. Nội dung môn Khoa học trong nhà
trường tiểu học là những kiến thức cơ bản về cuộc sống con người và các loài
động vật, thực vật; về mối quan hệ giữa thực vật với động vật, giữa động vật, thực
vật với môi trường; môi trường sống của con người, những tác động của con
người tới môi trường tự nhiên… Việc học tập các nội dung trên qua các hoạt động
trải nghiệm hình thành cho học sinh những phẩm chất như sống yêu thương thiên
nhiên, yêu thương con người, yêu quý các loài động vật, bảo vệ môi trường, biết
trân trọng các giá trị do chính bàn tay lao động làm ra, giữ gìn các các giá trị di
sản văn hoá của quê hương, đất nước… Như vậy, học tập trải nghiệm góp phần
giúp các em phát triển các năng lực và tự hoàn thiện bản thân mình, đáp ứng được
mục tiêu giáo dục: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tự
khẳng định mình”.
Thứ ba, dạy học trải nghiệm tạo điều kiện kết nối các kiến thức khoa học
liên ngành. Nội dung học tập trải nghiệm rất phong phú và đa dạng mang tính tổng
hợp kiến thức kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như:
giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ và thể
chất,… chính nhờ đặc trưng này mà học tập trải nghiệm trở nên gần gũi, thiết thực
với cuộc sống, giúp các em vận dụng vào trong cuộc sống một cách dễ dàng và
thuận lợi hơn. Xét trên góc cạnh môn Khoa học có thể tổ chức học tập trải nghiệm



có sự tích hợp liên môn với địa lý, lịch sử…
Thứ tư, HĐTN làm tăng tính hấp dẫn trong học tập. Hình thức dạy học trải
nghiệm là hình thức giáo dục học sinh theo hình thức dạy học ngoài thực tế, trên
các vật thật có vị trí, vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa hoạt động giảng dạy và
học tập trên lớp với giáo dục học sinh ngoài lớp. Các em vận dụng kiến thức học
được vào cuộc sống và các tình huống trong thực tế một cách linh hoạt, tránh
nhàm chán. Chính vì thế học tâp trải nghiệm tạo được sự hấp dẫn, hứng thú cho
học sinh. Theo đó, chất lượng dạy học cũng được nâng cao.
Thứ năm, học tập trải nghiệm gắn kết giữa người dạy và người học. Dạy
học bằng trải nghiệm đòi hỏi người dạy phải tuân theo phong cách người hỗ trợ,
hướng dẫn để giúp người học thu được kiến thức từ những kinh nghiệm thực tế,
đồng thời phải phù hợp với phong cách của người học nhằm phát huy tốt nhất khả
năng và sự sáng tạo ở người học.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, với phương pháp học trải nghiệm,
học sinh có thể rèn luyện được cả về kiến thức và kĩ năng học tập, khả năng tìm
tòi, phân tích và áp dụng bài học lí thuyết vào thực tiễn. Tổ chức các hoạt động
trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Khoa học nhằm phát huy khả năng tìm
tòi, ý tưởng sáng tạo của học sinh là một hướng đi khá mới mẻ và có khả năng
thực hiện hiệu quả.
1.1.4. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 4 khi thực hiện hoạt động trải
nghiệm
Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về
mặt sinh lý, tâm lý, xã hội. Chuyển từ bậc mầm non sang bậc tiểu học là một bước
ngoặt quan trọng trong sự phát triển của trẻ. Nếu như ở bậc mầm non, hoạt động
chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có
sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang các hoạt động đa dạng hơn:
hoạt động học tập, hoạt động lao động, hoạt động xã hội. Đặc biệt, lớp 4 là một
giai đoạn đặc biệt, bởi đây là giai đoạn các em mới bắt đầu có những sự biển
chuyển về biến tâm sinh lí, tư duy và ngôn ngữ. Cho nên việc dạy học và giáo dục



các em, đặc biệt là hình thức học tập trải nghiệm phải gắn liền với sự phát triển về
tâm lí của trẻ để đảm bảo cho hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao nhất.
Do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi so với bậc
mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học
tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt. Ở cuối tuổi tiểu
học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ
định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động
học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát
dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ
đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng
hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định. Nếu việc tổ chức học tập
cho học sinh không đảm bảo các tiêu chí như môi trường, lượng kiến thức hay thời
gian tiếp nhận thông tin, duy trì hoạt động sẽ có thể để lại những tác động tiêu
cực. Khi tham gia các hoạt động trải nghiệm, các em được giáo viên hay người tổ
chức giao những công việc hoặc những bài tập đòi hỏi sự chú ý có giới hạn thời
gian cụ thể, rõ ràng sẽ rèn luyện cho các em thói quen tập trung chú ý một cách có
chủ định. Ví dụ: giáo viên giao cho nhóm A hoàn thành thí nghiệm trong thời gian
10 phút, các thành viên trong nhóm sẽ cố gắng tập trung chú ý và phân chia công
việc để hoàn thành công việc đúng thời gian. Như vậy, việc tổ chức các hoạt động
trải nghiệm đã góp phần rèn khả năng chú ý cho các em, nhất là giai đoạn cuối
tiểu học. Tuy nhiên, không gian mở của hình thức học tập này cũng có thể là
nguyên nhân của sự phân tán điểm nhìn, sự tập trung chú ý của các em mà giáo
viên và những người tham gia điều hành nên lưu ý.
Ở giai đoạn đầu tuổi tiểu học tri giác của các em thường gắn với hành động
trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan
sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính
mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch
học tập, biết sắp xếp công việc hợp lí, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...). Đồng

thời, ở giai đoạn này ghi nhớ có chủ định ở học sinh được hình thành và phát triển.
Tuy nhiên, ghi nhớ không chủ định vẫn song song tồn tại. Trí nhớ trực quan, hình


tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ, logic. Các em ghi nhớ, giữ gìn và nhớ lại tốt
hơn những gì được trực tiếp tác động lên hơn là những gì được nghe giảng. Nhận
thấy điều này, chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu
sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm
nhận, tri giác tích cực và chính xác.
Tư duy của học sinh tiểu học mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế
ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể
sang tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa
tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Đặc biệt, các em rất thích tư duy,
suy luận, giải thích và tò mò về những hiện tượng trong cuộc sống, nhất là thế giới
tự nhiên và xã hội xung quanh mình. Trong khí các hiện tượng tự nhiên và xã hội
xung quanh vốn là bình thường với người lớn nhưng nó lại là thế giới bí ẩn đối với
lứa tuổi các em tiểu học. Chúng thường hay thắc mắc những vấn đề đại loại như:
Tại sao có mưa? Không khí là gì? Tại sao người ta lại nghe được âm thanh?.... Các
em sẽ sung sướng hơn nữa khi tự mình tìm tòi, thực hành thí nghiệm hoặc trải
nghiệm thực tế vào các họat động để tự giải đáp thắc mắc của chính mình. Đồng
thời, ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình
ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát
triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng vẽ tranh, làm
thơ, ý tưởng sáng tạo khoa học.... Tưởng tượng của các em trong giai đoạn này
còn bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện
tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. Qua đây, chúng ta phải
phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức “khô
khan” thành những hình ảnh có cảm xúc. Thay vì những bài học lí thuyết nhàm
chán, lặp đi lặp lại thì chúng ta nên thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt
động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình

một cách toàn diện. Sử dụng hình thức học tập trải nghiệm trong dạy học môn
Khoa học sẽ phát huy trí tưởng tượng sáng tạo và niềm đam mê khoa học ở các em
Không chỉ về các đặc điểm nhận thức mà tình cảm của các em trong giai
đoạn này cũng có những sự thay đổi và phát triển. Lứa tuổi học sinh tiểu học thì


tình cảm của các em mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện
tượng sinh động, rực rỡ... Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non
nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là dễ khóc mà cũng
nhanh cười, rất hồn nhiên và vô tư. Việc tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động
học tập dựa vào trải nghiệm trong dạy học giúp trẻ được tiếp xúc trực tiếp với đối
tượng học tập, tiếp xúc với thế giới tự nhiên, xã hội để nhận ra những điều mới
mẻ đối với trẻ. Vì thế, có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi, tuy
vậy so với các lớp đầu tiểu học thì các em lớp 4 đã trưởng thành hơn rất nhiều.
Qua việc được tự mình hoạt động, khám phá và phát hiện ra nhứng điều mới lạ thì
sau mỗi hoạt động các em sẽ ghi nhớ lâu hơn kiến thức mình vừa học được. Từ đó
hiệu quả giờ học được nâng cao.
Như vậy, có thể nói, ở giai đoạn cuối tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 4,
tâm lí của trẻ bắt đầu có những thay đổi và phát triển hơn giai đoạn đầu tiểu học.
Việc giáo dục cho các em cần khéo léo, nên dẫn dắt các em tự tìm tòi, khám phá
kiến thức từ những hình thức trải nghiệm đa dạng, phong phú. Nếu dẫn dắt các em
đi đúng hướng sẽ tạo nền móng cho sự phát triển sau này của trẻ.
1.1.5. Điều kiện tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học
lớp 4
1.1.5.1. Đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy
GV là người trực tiếp giảng dạy, giáo dục HS thực hiện chương trình giáo
dục. GV trực tiếp lựa chọn, xác định nội dung tổ chức cho HS trải nghiệm các
hoạt động trong dạy học các môn học ở trường nói chung và dạy học môn Khoa
học lớp 4 nói riêng. Do đó GV phải là người có nhận thức đầy đủ về vai trò của
học tập dựa vào trải nghiệm, cách thức tiến hành các hoạt động học tập thông qua

trải nghiệm, làm sao cho giờ học đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh những hiểu
biết và nhận thức về hình thức học tập trải nghiệm thì người GV cần phải có sự
nhiệt tình, năng động, tâm huyết với nghề, có trách nhiệm, kĩ năng sư phạm.
Bên cạnh các phương pháp dạy học đang được GV sử dụng trong nhà
trường thì dạy học bằng trải nghiệm đang là một hình thức học tập mới, có tác
động tích cực đến quá trình tiếp thu tri thức của các em. Do vậy GV phải có tư


×