Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HOÀNG THỊ NGỌC LINH

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MẪU
TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

HUẾ, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HOÀNG THỊ NGỌC LINH

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MẪU
TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học môn Văn - Tiếng Việt
Mã số: 60 14 0111

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


TS. TRẦN HỮU PHONG

HUẾ, 2017
i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác
giả cho phép sử dụng và chưa được công bố trong bất kì một công trình
nào khác.

Huế, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn

HOÀNG THỊ NGỌC LINH

ii


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng tri ân
sâu sắc đến thầy giáo - Tiến sĩ Trần Hữu Phong đã dành thời
gian quý báu tận tình giảng dạy, hướng dẫn và dìu dắt tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến các giáo sư, tiến sĩ đã tham gia
giảng dạy lớp Cao học Ngữ văn khóa XXIV nói chung, đặc
biệt lớp Lý luận và Phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt nói

riêng đã tạo mọi điều kiện để tôi học tập, giúp đỡ và thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Nhân đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Huế, tháng 9 năm 2017
Hoàng Thị Ngọc Linh

iii


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................................... i
Lời cam đoan ...............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
Mục lục ........................................................................................................................1
Danh mục các chữ viết tắt ...........................................................................................4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
I. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................5
II. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................7
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................9
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giới hạn của đề tài .......................................10
V. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................10
VI. Giả thuyết khoa học ............................................................................................11
VII. Cấu trúc luận văn ...............................................................................................11
NỘI DUNG ..............................................................................................................12
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...........................12
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài .......................................................................................12
1.1.1. Vấn đề “Mẫu” trong lí luận dạy học ...............................................................12

1.1.2. Mẫu và việc rèn luyện theo mẫu trong dạy học môn Ngữ văn .......................13
1.1.3. Đặc thù văn nghị luận và vấn đề sử dụng mẫu trong dạy học văn nghị luận ..........17
1.1.3.1. Khái niệm văn nghị luận ..............................................................................17
1.1.3.2. Đặc thù văn nghị luận ..................................................................................19
1.1.3.3. Vấn đề sử dụng mẫu trong dạy học văn nghị luận .......................................25
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................28
1.2.1. Nội dung dạy học các bài văn nghị luận trong chương trình và sách giáo khoa
Ngữ văn ở THPT .......................................................................................................29
1.2.2. Thực trạng sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT ............. 31
1.2.2.1. Thực trạng việc sử dụng mẫu trong dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học
làm văn nghị luận nói riêng .......................................................................................31

1


2.2.2.2. Thực trạng việc sử dụng mẫu của học sinh THPT .......................................34
2.2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng ......................................................................35
Chƣơng 2. CÁCH THỨC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MẪU TRONG DẠY
HỌC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN Ở TRƢỜNG THPT ...........................................40
2.1. Định hướng xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở
trường THPT .............................................................................................................40
2.1.1. Xây dựng và sử dụng mẫu làm văn nghị luận cần tuân thủ các yêu cầu khoa
học và sư phạm ..........................................................................................................40
2.1.2. Tổ chức xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận phải theo
đúng định hướng giao tiếp ........................................................................................42
2.2. Cách thức xây dựng và sử dụng mẫu vào dạy học làm văn nghị luận ở trường
THPT .........................................................................................................................47
2.2.1. Cách xây dựng hệ thống mẫu cho quá trình dạy học làm văn nghị luận ........47
2.2.1.1. Quy trình xây dựng mẫu ..............................................................................47
2.2.1.2. Hệ thống các loại mẫu ..................................................................................48

2.2.2. Cách sử dụng mẫu vào dạy học lý thuyết làm văn..........................................58
2.2.2.1. Quy trình sử dụng mẫu .................................................................................58
2.2.2.2. Hiện thực hóa quy trình sử dụng mẫu ..........................................................59
2.2.3. Cách sử dụng mẫu vào dạy học thực hành luyện tập thực hành làm văn nghị
luận ............................................................................................................................66
2.2.3.1. Quy trình sử dụng mẫu .................................................................................67
2.2.3.2. Hiện thực hóa quy trình luyện tập theo mẫu ................................................70
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ..............................................................76
3.1. Mục đích và yêu cầu của việc thực nghiệm .......................................................76
3.1.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................76
3.1.2. Yêu cầu của việc thực nghiệm ........................................................................76
3.2. Tiến trình thực nghiệm .......................................................................................77
3.2.1. Nội dung thực nghiệm .....................................................................................77
3.2.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm .................................................77
3.2.3. Phương pháp thực nghiệm ..............................................................................78

2


3.2.3.1. Thực nghiệm thăm dò ..................................................................................78
3.2.3.2. Thực nghiệm dạy học ...................................................................................78
3.2.4. Thiết kế giáo án thực nghiệm ..........................................................................79
3.2.5. Tổ chức thực nghiệm.......................................................................................79
3.2.6. Thiết kế các biểu mẫu .....................................................................................79
3.2.7. Tiến hành thực nghiệm....................................................................................79
3.2.8. Thu thập kết quả thực nghiệm .........................................................................80
3.2.8.1. Về định tính ..................................................................................................80
3.2.8.2. Về định lượng...............................................................................................81
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm ...........................................................................82
3.3.1. Đánh giá tiết học thực nghiệm và đối chứng ..................................................82

3.3.2. Tổng hợp và nhận xét kết quả học tập của học sinh. ......................................82
3.5.3. Tổng hợp và nhận xét về sự hứng thú của học sinh ........................................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................90
PHỤ LỤC

3


MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCGD

:

Cải cách giáo dục

ĐC

:

Đối chứng

ĐHSP

:

Đại học sư phạm

GD


:

Giáo dục

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

NL

:

Nghị luận

NLXH

:

Nghị luận xã hội

NLVH


:

Nghị luận văn học

NXB

:

Nhà xuất bản

PPDH

:

Phương pháp dạy học

SGK

:

Sách giáo khoa

SL

:

Số lượng

THCS


:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

TL

:

Tỉ lệ

TN

:

Thực nghiệm

4


MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong xu hướng chung giáo dục ngày càng gắn chặt với cuộc sống, với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, không chỉ riêng nước ta mà ở hầu hết các nước
tiên tiến, vấn đề chất lượng giảng dạy khoa học nhân văn, đặc biệt là môn văn ngày

càng trở thành mối quan tâm của các nhà quản lí giáo dục và xã hội. Văn học là loại
hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời sống tinh thần của con
người ngay từ thuở xa xưa, là phương tiện giáo dục con người nhạy bén hiệu quả
nhất. Ở đâu có con người và giáo dục thì ở đó không thể thiếu văn học. Bởi vì đó là
môn học bồi dưỡng vốn sống thực tế, vốn tri thức nhiều mặt cho học sinh giúp các
em rất nhiều trong giao tiếp xã hội, gia đình và bạn bè, giúp con người sống tự lập
có năng lực cảm thụ, có lòng say mê, nhiệt tình đem tài trí của mình cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.2. Bất cứ bộ môn nào trong nhà trường phổ thông cũng có giá trị trong việc
cung cấp kiến thức và hoàn thiện sự phát triển về nhân cách cho học sinh. Riêng
đối với môn Ngữ văn thì giá trị này có một vị trí hết sức đặc biệt so với các bộ
môn khoa học khác. Bởi “Văn học là nhân học”, học văn là để hình thành nhân
cách hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với nỗi khổ đau
của mình trong đời sống, biết hướng tới cái chân - thiện - mĩ, biết sống một cách
chân thật nhân ái và cao thượng; và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học
sinh có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Để phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, hứng thú trong học tập của người học; khơi gợi đánh thức niềm
đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn của con người và nâng
cao năng lực học tập; giúp học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp mỗi một tác
phẩm văn chương; biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc
đời thông qua mỗi trang sách và qua từng tác phẩm là vấn đề rất cần thiết. Như
vậy, có thể khẳng định rằng vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung và
phương pháp dạy học văn nói riêng đang là một vấn đề bức xúc đặt ra cho giáo
dục nước ta.

5


1.3. Riêng phân môn Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong quá trình định hướng, hình thành và phát triển toàn diện về tư

duy sáng tạo và nhân cách của học sinh. Làm văn có mục đích rèn luyện các loại
văn bản trong cuộc sống, tất cả những kiến thức mà các em tiếp nhận trong quá
trình học thường được thể hiện rõ qua bài viết của mình. Một bài văn hay phải là bài
văn truyền đạt đầy đủ ý và tình của người viết đến người đọc. Xét trên bình diện
kiểu Bài văn nói chung kiểu bài nghị luận nói riêng đều là sản phẩm tổng hợp tất cả
kiến thức trong đời sống cũng như trong học tập. Văn nghị luận là dùng lí lẽ của
mình để bàn bạc, để thuyết phục người đọc về một vấn đề nào đó, nếu xem ý kiến là
lý thì thái độ là tình. Hiểu và nắm vững quá trình phương pháp làm văn nghị luận sẽ
giúp ta có được một tư duy sắc bén, chuẩn xác, đồng thời có thể trình bày luận điểm
một cách sâu sắc, có sức thuyết phục mạnh mẽ.
1.4. Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận chính là khung thiết
kế cơ bản nhất tương ứng với từng kiểu dạng đề làm văn mà HS phải định hình
trước khi triển khai thành những dàn ý tương ứng với từng đề văn cụ thể. Hơn nữa,
qua thực tế giảng dạy và thực nghiệm điều tra, người viết nhận thấy một trong
những khó khăn, lúng túng lớn nhất của HS khi viết văn nghị luận không chỉ là làm
thế nào để xác định được những ý cơ bản của một đề văn cụ thể mà còn ở chỗ làm
thế nào để xác định được một khung ý cho một kiểu dạng đề nhất định. Vì vậy, để
nâng cao ý thức, hướng các em vào các chuẩn mực, trong việc dạy phân môn làm
văn, giáo viên cần quan tâm đến phương pháp rèn luyện theo mẫu. Đây là một
trong những phương pháp đặc thù trong dạy tiếng Việt và làm văn giúp cho học
sinh có thói quen rèn luyện, năng lực sử dụng ngôn ngữ lành mạnh, đúng chuẩn,
có văn hóa.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học Làm văn hiện nay và vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học đã trở thành mục tiêu quan trọng được đặt lên hàng đầu. Chúng tôi mong
muốn đưa phương pháp dạy học theo mẫu vào các giờ làm văn nghị luận để vận
dụng các ưu thế của phương pháp này trong việc phát triển năng lực làm văn cho
các em.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy

6



học làm văn nghị luận ở trường THPT” hy vọng đáp ứng phần nào yêu cầu đổi mới
phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn nói chung và nâng
cao chất lượng làm văn nghị luận ở trường THPT nói riêng.
II. Lịch sử vấn đề
Có thể nói rằng với trường trung học phổ thông, dạy học văn nghị luận có vai trò vô
cùng quan trọng. Tuy nhiên, nghiên cứu về kĩ năng làm văn nghị luận, đặc biệt là
cách sử dụng mẫu chưa nhiều. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi chưa thấy có
công trình nào nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng mẫu vào dạy học cho bài văn
nghị luận. Tuy nhiên, trong các tài liệu viết về văn nghị luận, nhất là bàn về dạy học
văn nghị luận từ trước đến nay thì các nhà nghiên cứu cũng đã đặt ra một số vấn đề
liên quan với việc sử dụng mẫu như sử dụng phương pháp trực quan; lựa chọn dẫn
chứng; cách mở bài theo lối trực tiếp, gián tiếp... Ngoài những tài liệu của Bộ Giáo
dục - Đào tạo như Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo
khoa lớp 10, 11, 12, về đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trung học phổ
thông... giới thiệu những định hướng trong quá trình dạy học làm văn nói chung,
văn nghị luận nói riêng đã có nhiều tài liệu tham khảo khác. Đó là cuốn: Làm văn
(NXB Giáo dục – 1987) của hai tác giả Đình Cao và Lê A. Kỹ năng làm bài văn
nghị luận phổ thông (NXB Giáo dục – Hà Nội 1985) của Nguyễn Quốc Siêu;
Phương pháp làm văn nghị luận của Thẩm Thệ Hà; Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị
luận (NXB Giáo dục 2002) của Bảo Quyến; Nâng cao kỹ năng làm văn nghị luận
(NXB Giáo dục của nhiều tác giả); hay Cẩm nang làm văn nghị luận trung học của
Bùi Thúc Phước. Làm văn nghị luận - lý thuyết và thực hành (Hà Thúc Hoan), Kĩ
năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu), Rèn kỹ năng làm văn nghị
luận (Trần Thị Thành), Phân loại và hướng dẫn giải đề thi Đại học - Cao Đẳng
môn Ngữ văn (Triệu Thị Huệ), Hướng dẫn làm văn lớp 12 (Hoàng Thị Phi Hồng),
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn (Vũ Nho chủ biên), Phương pháp
giải nhanh Ngữ văn trọng tâm (Phùng Ngọc Kiếm) v.v. cũng đề cập đến nhiều nội
dung hết sức bổ ích về rèn luyện kỹ năng phân tích đề, lập luận, kỹ năng lập dàn ý,

kỹ năng diễn đạt, liên kết, truyền đạt trực tiếp các khái niệm, phân tích các đoạn
mẫu, phương pháp thực hành, phương pháp ra đề , phương pháp chấm, trả bài và

7


một số kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh.
Một số tài liệu nghiên cứu sâu về làm văn nghị luận như: Kĩ năng làm văn nghị luận
phổ thông, Nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận, Muốn viết được bài văn hay
…lại chủ yếu bàn về các vấn đề lý thuyết làm văn nghị luận hoặc phương pháp làm
bài nghị luận và thực hiện một số kĩ năng như: xác định luận điểm bài văn, cách lựa
chọn và vận dụng luận cứ, các phương pháp lập luận, sắp xếp cấu trúc lôgích hoặc
những yêu cầu của bài văn nghị luận …nhưng lại chưa đặt vấn đề về bài tập thực
hành theo các phương pháp, theo những cách làm ấy. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần
phải tiếp tục tiếp cận, nghiên cứu một cách toàn diện đối với việc dạy học theo mẫu.
Trong hoạt động ngôn ngữ nói chung và dạy học làm văn nói riêng, mọi người đều
nhận thấy có những hoạt động nếu không có mẫu thì không thể thực hiện được hoặc
nếu có thực hiện được thì kết quả không cao. Bởi vậy, việc dùng mẫu để định
hướng nhận thức để định hướng kết quả cần đạt được là điều hết sức quan trọng đối
với nhà trường phổ thông khi vốn sống của học sinh chưa nhiều thì việc làm theo
mẫu là hết sức cần thiết. Việc dạy học Làm văn, muốn tạo lập văn bản phải có mẫu
và làm theo mẫu. Đó là phương pháp giáo viên đưa ra một mẫu ngôn ngữ rồi chỉ ra
những đặc điểm của mẫu và sau đó tổ chức cho học sinh luyện tập theo mẫu.
Các công trình nghiên cứu dạy học rèn luyện theo mẫu như các giáo trình Phương
pháp dạy học tiếng Việt của Lê A (chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán.
Bản chất của giáo trình này theo các tác giả là “phương pháp mà thầy giáo chọn và
giới thiệu các mẫu hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích để hiểu rồi
nắm vững cơ chế của chúng và bắt chước mẫu đó một cách có sáng tạo vào lời nói
của mình” [3, tr 69]; tiểu luận Thử vận dụng mẫu vào việc rèn luyện năng lực lập
luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh THPT qua dạy học làm văn (Đậu Minh

Long – ĐHSP Huế 1999); khóa luận Sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu
trong các giờ thực hành tiếng Việt lớp 10 theo định hướng phát triển năng lực ngôn
ngữ cho học sinh (Cao Thị Gái – ĐHSP Huế 2007); hay luận văn thạc sĩ Vận dụng
phương pháp rèn luyện theo mẫu trong dạy học tiếng việt ở các trường THCS thuộc
quận 6 thành phố Hồ Chí Minh (Bùi Thị Liễu Trang – Nghệ An, 2014) hay luận văn
Rèn luyện kĩ năng lập dàn ý mẫu cho đề văn nghị luận ở THPT (Đoàn Thị Ngọc

8


Lan – Thành phố Hồ Chí Minh, 2013)… các đề tài này chỉ đề cập một cách chung
chung, đơn tuyến, chứ chưa có giải pháp cụ thể và các phương pháp này được sử
dụng phổ biến trong dạy học làm văn.
Trên đây là một số công trình, tài liệu nghiên cứu về lý thuyết, kỹ năng và các bài
thực hành dạy văn bản nghị luận. Từ đó có thể thấy vai trò của dạy học theo mẫu,
trong dạy học làm văn đã được xác định đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu vào việc vận dụng mẫu cho bài văn nghị luận cho HS THPT. Đề tài này
vẫn là một hướng đi mới sáng tạo và có giá trị thực tiễn cao đặc biệt phương pháp
rèn luyện theo mẫu chưa được trình bày cụ thể và chưa đưa ra bàn nhiều. Vì thế,
việc triển khai đề tài: “Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở
trường THPT” cho học sinh theo chúng tôi vẫn là vấn đề cấp thiết và hoàn toàn mới
mẻ.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích
Thấy rõ tầm quan trọng của việc sử dụng mẫu đối với học sinh, đề tài nhằm nghiên
cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để đưa ra một số biện pháp, đề xuất cách thức sử dụng
mẫu nhằm giáo dục kỹ năng viết văn nghị luận cũng như kỹ năng sống cho các em
hướng đến mục tiêu tích hợp kiến thức và qua đó nâng cao chất lượng dạy học Ngữ
văn hiện nay lên một bước.
2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi xác định một số nhiệm vụ
cần phải thực hiện, cụ thể như sau:
Nghiên cứu lý thuyết về dạy học văn nghị luận và cách sử dụng mẫu.
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn về dạy học văn nghị luận, cụ thể chương
trình làm văn THPT. Từ đó rút ra những đánh giá và kết luận sư phạm làm cơ sở
đưa ra những định hướng về sau.
Nghiên cứu và đưa ra những định hướng tổ chức dạy học hướng tới rèn luyện theo
mẫu cho học sinh THPT.
Tổ chức dạy học thực nghiệm nhằm triển khai và kiểm tra tính khả thi của đề tài
trong thực tiễn.

9


Thực nghiệm kiểm tra đánh giá để đưa ra kết luận về tính hiệu quả, khả thi, giải
pháp mà đề tài đề xuất.
IV. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và giới hạn của đề tài
1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài chúng tôi lấy việc đề xuất cách thức sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị
luận ở trường THPT làm đối tượng nghiên cứu.
2. Phạm vi nghiên cứu
2.1. Về lý thuyết: Đề tài nghiên cứu những lý thuyết làm văn nghị luận và vấn đề sử
dụng mẫu được đưa vào chương trình giảng dạy chính (không kể đọc thêm) theo
chương trình Cơ bản ở THPT.
2.2. Về thực tiễn: Do điều kiện và thời gian nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trên đối tượng học sinh các trường THPT Trần văn Kỷ, THPT Nguyễn Đình
Chiểu, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để nghiên cứu, phân tích, các văn bản, tài liệu
có liên quan đến vấn đề được đặt ra. Từ đó liên kết, sắp xếp và tổng hợp thành một
hệ thống lý thuyết đầy đủ và sâu rộng, tạo tiền đề cơ sở vững chắc của đề tài.
2. Phương pháp quan sát, điều tra
Phương pháp này chủ yếu dùng để khảo sát chương trình, sách giáo khoa nhằm tìm
hiểu thực tiễn dạy học Làm văn ở trường THPT, đặc biệt chất lượng dạy học theo
mẫu để từ đó đề xuất cách thức tổ chức hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức thể
loại văn nghị luận.
3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Đây là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài để kiểm
tra, đánh giá hiệu quả các tiết dạy học làm văn THPT qua các thiết kế thử nghiệm,
nhằm rút ra những kết luận về kết quả và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý, khả thi
của đề tài.

10


4. Phương pháp thống kê
Sử dụng phương pháp này nhằm để xử lý các số liệu điều tra, số liệu thực nghiệm,
số liệu kiểm tra, từ đó làm cơ sở để đánh giá, kết luận.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như so sánh, đối chiếu, mô
hình hóa bằng sơ đồ, bảng biểu để làm sáng tỏ những nhận định đưa ra.
VI. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu, xây dựng, đề xuất được các nguyên tắc, biện pháp thích hợp, khả
thi trong việc dạy học làm văn nghị luận theo mẫu thì không chỉ nâng cao kỹ năng
sử dụng văn bản nghị luận mà còn đem lại hiệu quả, nâng cao chất lượng dạy học
môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay.
VII. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, phần Nội

dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Cách thức xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở
trường THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

11


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Cơ sở lí luận và thực tiễn chính là tiền đề, là nền tảng để chúng tôi tìm hiểu và
nghiên cứu về đối tượng một cách cụ thể, được biểu hiện qua các phần như sau:
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Vấn đề Mẫu trong lí luận dạy học
Mẫu có vai trò quan trọng trong dạy học nên từ lâu được nhiều người tìm hiểu đề
xuất và vận dụng. Trong dạy học thực hành, mẫu là yếu tố hàng đầu, từ mẫu đi đến
ý thức và sau đó thực hành có ý thức, thực hành sáng tạo. Có người nói: “Hãy đọc
trước rồi viết sau”, “Phải đọc rất nhiều, đọc gấp mấy mươi lần những điều giảng
dạy ở lớp” (Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Trong một số lĩnh vực lao động, học tập,
giao tiếp chúng ta thường được hướng dẫn thực hiện theo mẫu. Dạy theo mẫu chỉ là
chuẩn bị tiền đề cho học sinh đến với phương pháp hoạt động khác, hướng đến
khám phá năng lực vận động, năng lực sáng tạo của các em trong quá trình học tập.
Theo Từ điển tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất bản Đà Nẵng
(1997) thì mẫu được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất là “cái theo đó để tạo ra hàng
loạt những cái khác cùng một kiểu” ví dụ như mẫu đồ chơi cho trẻ em, làm động tác
mẫu, mẫu thêu, mẫu thiết kế… thứ hai là “cái có thể cho người ta hiểu biết về hàng
loạt những cái khác cùng một kiểu” ví dụ như hàng bày mẫu, vở kịch đưa lên sân
khấu, nhiều mẫu người đặc biệt, mẫu quặng… Mẫu còn được hiểu là: (1) “Cái được

nêu lên để người ta bắt chước (mẫu kế toán). (2) “Vật trình bày cho người ta biết
những đặc điểm, thành phần, công dụng và những vật đồng nhất với nó, sản xuất và
tồn tại trong tự nhiên trên quy mô lớn (mẫu áo, mẫu quặng). (3)Vật có cùng hình
dáng với vật khác nhưng có kích thước nhỏ hơn (mẫu máy bay). Người có tới mức
hoàn chỉnh những tính chất, đặc điểm các kiểu loại và được nêu lên làm tiêu biểu
(nhà giáo kiểu mẫu) 5. Người nghệ sĩ vẽ hay tạc lại hình dạng (ngồi làm mẫu)
[49,tr.381].
Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về mẫu trong dạy học
12


đó là các dạng mẫu do giáo viên chuẩn bị từ trước như các đồ dùng dạy học trực
quan hay các ví dụ cụ thể, có tác dụng giúp cho học sinh nắm bắt được vấn đề mà
giáo viên cần truyền đạt một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn. Rèn luyện theo mẫu
là phương pháp hoạt động có ý thức, trong đó giáo viên chọn và giới thiệu mẫu hoạt
động lời nói để học sinh hiểu và nắm vững cơ chế của chúng, rồi bắt chước nó một
cách sáng tạo vào lời nói của mình. Cách hiểu cho thấy, trong các lĩnh vực hoạt động
con người có thể đưa ra các mẫu để nhận thức và thực hành. Trong dạy học làm văn,
các mẫu để chúng ta thực hành là mẫu để dạy học.
Quá trình học tập của con người nói chung có 5 kiểu tổng quát sau: học bằng bắt
chước, sao chép, không có hoặc ít có tính chủ định…Làm mẫu là chức năng phổ
biến nhất của PPDH trong các học trình bộ môn, suốt từ bậc mẫu giáo cho đến Đại
học. Những mô hình phổ biến của phương pháp dạy học làm theo mẫu tái tạo
thường bao gồm: Làm mẫu trực tiếp - giáo viên trực tiếp trình bày mẫu, tức là
những kỹ năng, thao tác, quy tắc, hành vi, hành động cần thiết mà mẫu chuẩn đòi
hỏi, kết hợp với giải thích, phân tích, mô tả bằng lời, sau đó yêu cầu người học làm
lại những gì mà mình đã làm cho đến khi làm đúng mẫu; hành động của người học
có thể lặp đi lặp lại; sau khi đã làm đúng mẫu, người học có thể chuyển sang luyện
tập - làm mẫu gián tiếp, giáo viên không trực tiếp làm mẫu. Làm mẫu là phương
pháp dạy học trong đó giáo viên trực tiếp biểu diễn các thao tác, động tác mẫu hoặc

gián tiếp biểu hiện chúng thông qua các phương tiện dạy học có kết hợp với việc
giải thích để giúp học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Là phương pháp thông
qua mẫu cụ thể về lời nói hay mô hình lời nói, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm
hiểu đặc điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu, qua đó học sinh biết cách tạo ra những lời
nói theo định hướng của mẫu. Mục đích chính của việc dùng mẫu là giúp học sinh
hiểu được các thao tác và trình tự thực hiện các thao tác để có cơ sở hình thành kĩ
năng trên cơ sở của một nội dung luyện tập nào đó.
1.1.2. Mẫu và việc rèn luyện theo mẫu trong dạy học môn Ngữ văn
Quan điểm đổi mới phương pháp dạy học chương trình Ngữ văn THPT là phải biết
kết hợp nhiều phương pháp trong dạy học. Đã có nhiều bài báo, các hội thảo khoa
học và những phương tiện thông tin bàn bạc về nội dung SGK, về việc cần phải đổi

13


mới cách dạy. Tuy nhiên, đổi mới PPDH không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn tính
tích cực của PPDH truyền thống. Người GV sẽ phải “tích hợp nhiều phương pháp
trong bài học, tiết học và trong cả quá trình tổ chức hoạt động trên cơ sở xác định
phương pháp chính gắn với đặc trưng của môn học. Tổ chức hoạt động dạy học theo
hướng tích cực nhằm phát huy năng lực chủ động, sáng tạo ở cả người dạy lẫn
người học, chú trọng khái quát nội dung kiến thức tạo thuận lợi để HS lĩnh hội và
phát triển các thao tác tư duy khoa học” [27. tr.6]. Bên cạnh phương pháp truyền
thống như: diễn giảng, gợi mở thì những phương pháp như: đọc-hiểu, thảo luận
nhóm, nêu vấn đề, khai thác mẫu... được xem là những phương pháp hiện đại.
Trong dạy học môn Ngữ văn, để đảm bảo sự thành công người giáo viên không thể
không sử dụng các loại mẫu. Đó có thể là đồ dùng trực quan như bản đồ, biểu đồ,
biểu mẫu hoặc là các bài toán mẫu, đoạn văn mẫu…Vậy vì sao phải vận dụng việc
rèn luyện theo mẫu trong dạy học?
Xuất phát từ bản năng sinh tồn, nhu cầu khám phá cuộc sống, con người tiếp xúc
với thế giới xung quanh sẽ dần bộc lộ khả năng học hỏi, bắt chước. Cuộc sống có

bao nhiêu bình diện là có bấy nhiêu cách mô phỏng bắt chước làm theo. Chúng ta
hiểu đọc để bắt chước không phải bằng cách ghép lại, chép lại nguyên văn trong bất
cứ tình huống giao tiếp nào mà là để học hỏi sự tương ứng giữa nội dung và hình
thức trong văn bản của mình. Bắt chước theo mẫu như vậy là sáng tạo. Goochiee
nhà thơ Pháp nói: “Ai không bao giờ bắt chước, không bao giờ có thể độc đáo”. Bắt
chước là một thuộc tính bản năng quan trọng của con người, nhờ bắt chước mà con
người mới có thể tồn tại được và các giá trị của loài người được truyền từ đời này
sang đời khác. Trong dạy học, bắt chước là con đường giúp học sinh tiếp thu bài
học một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Sử dụng mẫu trong dạy học là hình
thức dạy cho học sinh bắt chước để nắm bắt vấn đề. Vì vậy việc học sinh đọc, cảm
thụ, phân tích, lĩnh hội các mẫu theo phong cách vẫn là điều cần thiết. Tác dụng dễ
nhìn thấy nhất của việc xây dựng mẫu trong dạy học là giúp cho học sinh củng cố lí
thuyết và rèn luyện thực hành. Đã có người cho rằng, củng cố lí thuyết bằng mẫu và
rèn luyện thực hành bằng mẫu là cách làm có hiệu quả nhất. Bởi vì khi chúng ta sử
dụng các mẫu cho học sinh rèn luyện sẽ có tác dụng là giúp học sinh có thể phân

14


tích xác định rõ được cấu trúc, bản chất của vấn đề. Mặt khác, nếu sử dụng mẫu một
cách có hệ thống và thường xuyên sẽ giúp cho học sinh có kỹ năng vận dụng thành
thạo vấn đề ở trong những trường hợp khác. Và như vậy có nghĩa là việc sử dụng
mẫu trong dạy học sẽ làm tăng hiệu quả của việc truyền thụ tri thức cho học sinh
nên việc sử dụng đó rất cần thiết.
Đối với dạy học làm văn việc rèn luyện theo mẫu là quan trọng và thiết thực hơn
nhiều. Bởi vì đặc thù của dạy học làm văn chủ yếu là thực hành. Theo tác giả
Trương Dĩnh: “ý nghĩa của việc dùng một mẫu trước hết là để giải quyết mâu thuẫn
về thời gian với dung lượng lý thuyết. Một mẫu hoàn chỉnh, tiêu biểu có thể là chỗ
dựa để hình thành toàn bộ lý thuyết về một kiểu văn, kể cả khái niệm và cách làm.
Thế nhưng, nhiều người hay nghi ngờ việc dùng mẫu với lý do tạo nên thói quen bắt

chước, thiếu tính sáng tạo. Có thể xem đó chỉ là suy nghĩ phiến diện, một chiều.
Nếu ta xem mẫu dưới khía cạnh rèn luyện tư duy nghiên cứu, tiết kiệm thời gian, sử
dụng trực quan, ta sẽ thấy mẫu rất có lợi” [10, tr.32]. Bản thân mỗi GV sẽ có những
cách triển khai bài giảng, cách đánh giá, kiểm tra khác nhau trong cùng một bài dạy.
Thế nhưng, mỗi GV vẫn phải tuân theo một chuẩn mực chung mà SGV hoặc sách
Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn quy định. Mẫu trong giáo dục
nhận thức, mẫu trong giáo dục là sản phẩm mà học sinh sẽ phải làm ra. Chương
trình học bao gồm nhiều mẫu phát triển trong thời gian, mỗi mẫu đều chứa sự kế
thừa và phát triển của một mẫu trước đó. Mỗi mẫu đều chứa đựng một khái niệm
cần hình thành. Hệ thống mẫu chính là hệ thống các khái niệm” (Tầm quan trọng
của việc nắm mẫu - Dự thảo chương trình môn Tiếng việt trường PTCS, Hà Nội
1986, trang 2). Tác dụng dễ nhìn thấy nhất của việc xây dựng mẫu trong dạy học là
giúp cho học sinh củng cố lí thuyết và rèn luyện thực hành. Đã có người cho rằng,
củng cố lí thuyết bằng mẫu và rèn luyện thực hành bằng mẫu là cách làm có hiệu
quả nhất. Bởi vì khi chúng ta sử dụng các mẫu cho học sinh rèn luyện sẽ có tác
dụng là giúp học sinh có thể phân tích xác định rõ được cấu trúc, bản chất của vấn
đề. Mặt khác, nếu sử dụng mẫu một cách có hệ thống và thường xuyên sẽ giúp cho
học sinh có kỹ năng vận dụng thành thạo vấn đề ở trong những trường hợp khác. Và
như vậy có nghĩa là việc sử dụng mẫu trong dạy học sẽ làm tăng hiệu quả của việc

15


truyền thụ tri thức cho học sinh nên việc sử dụng đó rất quan trọng và cần thiết.
Nhưng chúng ta cần nhận thức rằng, hoạt động độc lập của học sinh theo mẫu và
việc học thuộc lòng có sự khác nhau rất cơ bản. Việc sử dụng mẫu luôn luôn đòi hỏi
tính tích cực nhận thức của học sinh, tính độc lập của các em. Mẫu chỉ là một
phương tiện đắc lực cho nhà sư phạm mà thôi. Nếu chúng ta biết sử dụng phương
pháp có khoa học, rèn luyện theo mẫu sẽ trở thành phương pháp dạy học trực quan.
Mẫu trong dạy học làm văn là mẫu để dạy học các câu văn, đoạn văn hay những bài

văn mẫu, do giáo viên chuẩn bị nhằm giúp cho học sinh có cái nhìn cụ thể và nhanh
chóng tiếp cận hiện thực hóa được các khái niệm. Tuy nhiên, muốn việc sử dụng
mẫu có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải có một sự nhận xét đúng đắn về
trình độ mọi mặt của học sinh như vốn ngôn ngữ, kiến thức văn học, tư duy…để từ
đó mà đưa ra các dạng mẫu vừa sức và ngang tầm với học sinh. Có như vậy thì hiệu
quả dạy học mới được đảm bảo, học sinh mới nắm bắt được nội dung bài học một
cách dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Do đó, làm văn có tác dụng như một môn kiểm tra nên trình độ làm văn của học
sinh là cơ sở căn bản nhất để đề xuất các loại mẫu. Thực tế đối với HS THPT hiện
nay là các em đã biết cách viết một bài văn nghị luận tương đối hoàn chỉnh với đầy
đủ ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng hạn chế lớn nhất ở các em là có thể bài
viết đủ ý và các ý đều đúng nhưng các em chưa biết cách sắp xếp các ý sao cho bài
viết trở nên có logic, chặt chẽ, các câu văn trong đoạn chưa có sự nhuần nhuyễn
khiến cho tính thuyết phục của bài văn chưa cao. Đa số các em thường viết văn theo
cảm tính, tức là nghĩ sao viết vậy, thích gì viết nấy, nghĩ được ý nào trước viết
trước, ý nào nghĩ sau viết sau, nên nhiều bài viết bị thiếu ý và các ý chưa chính xác.
Trong làm văn, nếu GV chỉ giảng cho HS nghe: thế nào là văn bản phân tích văn
học, bình giảng thơ... mà không hề chỉ cho HS thấy một mẫu cụ thể đang tồn tại
xung quanh các em để các em có thể nhìn tận mắt hình dung cụ thể của loại văn bản
đó thì chắc chắn hiệu quả giờ giảng không cao. Chính những mẫu văn bản, mẫu
phân tích... được GV sử dụng trong những giờ lên lớp có giá trị như những “giáo cụ
trực quan”. Bởi vậy, có thể nói mẫu trong làm văn là những mẫu thực, không xa lạ
với HS [1, tr.205]. Vì thế việc sử dụng mẫu trong dạy học nói chung và trong dạy

16


học làm văn nói riêng là quan trọng, cần thiết và đó là hướng đi đúng của phương
pháp dạy học hiện đại.
1.1.3. Đặc thù văn nghị luận và vấn đề sử dụng mẫu trong dạy học văn nghị luận

1.1.3.1. Khái niệm văn nghị luận
Nghị luận là một thuật ngữ trong làm văn. Nghị luận được hiểu theo nghĩa rộng có
thể chỉ một quá trình bàn luận, thuyết phục một tư tưởng nào đó. Hiểu theo nghĩa
hẹp hơn là chỉ một phương pháp. Theo nghĩa hoàn chỉnh thì bao gồm ba yếu tố:
luận điểm, luận cứ, luận chứng. Văn nghị luận chưa hoàn chỉnh có thể chỉ một phán
đoán, một suy lí, một chứng minh hay một đoạn bình luận.
Văn nghị luận được ra đời từ rất lâu, ở Trung Hoa văn nghị luận có từ thời Khổng
Tử (551 – 479 TCN). Ở Việt Nam, là một thể loại có truyền thống lâu đời có giá trị
và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử của công cuộc dựng nước và giữ
nước. Tác phẩm Chiếu dời đô (1010) của Lí Công Uẩn, Đại Cáo bình Ngô (1428)
của Nguyễn Trãi, Chiếu cầu hiền (1788) của Nguyễn Trường Tộ, Hịch tướng sĩ
(1825) của Trần Quốc Tuấn ...và đặc biệt thế kỉ XX, văn nghị luận phát triển mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Hàng loạt tên tuổi các nhà chính luận xuất sắc với những áng
văn nghị luận bất hủ mà tiêu biểu nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tuyên ngôn độc
lập (1945) và với biết bao nhà văn, nhà phê bình viết nghị luận nổi tiếng sau này:
Hoài Thanh, Xuân Diệu, Đặng Thai Mai...
Trong thời kì phong kiến, văn nghị luận được tiến hành chủ yếu theo cách: thầy đưa
ra các bài văn mẫu; từ những bài văn mẫu này, thầy căn cứ vào đặc điểm về nội
dung và hình thức của thể loại mà phân tích và giảng giải cho trò, học trò cứ thế mà
luyện tập theo. Có thể thấy thực chất của việc học thời phong kiến ở một bài văn
nghị luận là giúp người học nắm vững đặc điểm và những yêu cầu về bố cục của
từng loại văn mà thôi. Ở thời kì Pháp thuộc, việc dạy văn nghị luận cũng chủ yếu là
cung cấp bài mẫu, người học cứ theo đó mà làm luyện tập. Với yêu cầu đổi mới dạy
và học Ngữ văn trong đó có phân môn làm văn thì kĩ năng sử dụng mẫu chỉ chú
trọng đến nghị luận văn học mà ít về nghị luận xã hội. Văn nghị luận là loại văn viết
ra để phát biểu ý kiến, bày tỏ nhận thức đánh giá thái độ đối với cuộc sống bằng
những luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đấy, thông qua cách thức bàn

17



luận để người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến và hành động của mình. Nếu tác
phẩm văn học nghệ thuật phát biểu ý kiến bày tỏ thái độ cuộc sống bằng những hình
tượng nghệ thuật gợi cảm thì văn nghị luận điễn đạt bằng những mệnh đề, phán
đoán lôgic thuyết phục. Từ những điều nói trên, có thể hiểu: Văn nghị luận là loại
văn trong đó người viết (người nói) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào
đó và thông qua cách thức bàn luận thuyết phục được người nghe. Văn nghị luận là
loại văn chương nghị sự, gồm các luận chứng, quá trình phân tích lí lẽ. Đó là tên gọi
chung của một số thể loại văn vận dụng các hình thức tư duy logic như khái niệm,
phán đoán, suy lý và thông qua việc nêu sự thật, trình bày lí lẽ, phân biệt đúng sai
để tiến hành phân tích luận chứng khoa học. Theo đó, đặc điểm của văn nghị luận:
là hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng tư duy logic; là sự nhận thức logic lí thuyết về
các hiện tượng có ý nghĩa xã hội và hướng tới mục đích thuyết phục. Là thể loại
văn: “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau:
chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa… Mục đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo
luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm
phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định… Đặc trưng
cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết khác với văn học nghệ thuật, văn
chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập
luận, lý lẽ…(Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) - Từ điển thuật
ngữ Văn học – NXB Đại học Quốc gia, 4, 1999).
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) sử dụng lí luận, bao gồm
lí lẽ dẫn chứng, trình bày những ý kiến của mình để làm rõ một vấn đề nào đó nhằm
thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin theo những ý kiến đó. Văn nghị luận
bao gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
- Về chức năng: Văn nghị luận trực tiếp trình bày các luận điểm, thể hiện tư tưởng
về chính trị, triết học, đạo đức, xã hội, hay giải bày quan điểm, đạo lí ở đời…
- Về kết cấu: bài văn nghị luận thường gồm ba phần chính dưới dạng tổng phân - hợp: Vấn đề nghị luận; nội dung nghị luận; khái quát, bày tỏ quan điểm
tư tưởng.
- Về tổ chức lời văn: Văn nghị luận đòi hỏi sự chặt chẽ của lập luận, sự xác đáng


18


của các luận cứ, sự thuyết phục của luận chứng.
Tóm lại, “Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng
cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học,
đạo đức). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là
bàn về đúng sai, phải trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra
chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức mạnh của
văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của suy
nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận; vận dụng các thao tác như giải thích,
phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” (Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 2).
1.1.3.2. Đặc thù văn nghị luận
Đặc trưng của văn nghị luận là thuyết phục người đọc, người nghe bằng việc lập
luận, đưa ra bằng chứng, lí lẽ. Vì thế, văn nghị luận có những điểm đặc thù sau
đây.
a. Văn nghị luận đƣợc tạo lập nhằm giải quyết một vấn đề nào đó đặt ra trong
cuộc sống.
Trong cuộc sống hằng ngày luôn có những vấn đề đặt ra đòi hỏi mỗi người phải giải
quyết. Mỗi bài văn nghị luận là một ý kiến đề xuất, là sự trình bày tư tưởng của
người viết trước một vấn đề của văn học, của cuộc sống. Vẻ đẹp của văn nghị luận
trên phương diện này chính là chất trí tuệ. Trong đời sống nhu cầu nghị luận sẽ sinh
ra khi và chỉ khi một vấn đề nào đó sinh ra, vấn đề càng có ý nghĩa xã hội sâu rộng
thì văn bản nghị luận càng có giá trị. Văn nghị luận sử dụng ngôn từ nhưng không
phải là lời lẽ áp đặt, mệnh lệnh của quyền uy hay sự rao giảng khô khan, sức mạnh
của văn nghị luận chính là lẽ phải và sự thật. Văn nghị luận là hoạt động chiếm lĩnh
thế giới bằng tư duy lôgic, sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp nhưng ngôn
từ trong văn nghị luận được sử dụng sao cho nội dung khái niệm được hiện lên trên
bề mặt. Ngôn ngữ đó tác động mạnh mẽ đến lí trí, nhận thức của người tiếp nhận, từ

đó định hướng cho họ nhận thức về vấn đề và hành động thực hiện. Nó mang những
đặc điểm riêng mà ta có thể dựa vào những đặc điểm này để phân biệt được với các
văn bản khác. Văn nghị luận hàm chứa chất trí tuệ của người viết rất cao và đọc lên
ta có thể hiểu được suy nghĩ, tư tưởng của họ đối với đối tượng đang được nói đến.

19


Văn nghị luận có đối tượng nhận thức là các hiện tượng xã hội mang nội dung và ý
nghĩa xã hội; là một vấn đề khái quát mang ý nghĩa xã hội chứ không phải là một
hiện tượng có ý nghĩa cá biệt. Do đó mục đích văn nghị luận là nhận thức xã hội
bằng tư duy lôgic nhằm thể hiện thái độ và đánh giá của người cầm bút, làm cho
người đọc hiểu sâu sắc, toàn diện và tin tưởng vào sự đúng đắn của ý kiến, quan
niệm được đưa ra.
Trong dạy học Ngữ văn mà cụ thể là dạy học văn nghị luận, dù sử dụng phương
pháp nào thì giáo viên cũng không được làm mất đi dấu ấn của tác giả trong quá
trình phân tích. Cách tác giả đưa ra các luận điểm, luận cứ và cách lập luận thể hiện
được tư duy, quan điểm, cách nhìn nhận và triển khai vấn đề của tác giả ấy. Là một
trong những phương tiện để con người thực hiện những nhiệm vụ này. Dựa trên các
vấn đề của đời sống xã hội người viết trình bày những tư tưởng, quan điểm của
mình để thuyết phục người khác. Để có thể làm rõ được vấn đề, tác giả phải huy
động vốn hiểu biết, kinh nghiệm thực tế cùng vốn từ vựng của mình nhằm đạt hiệu
quả cao nhất. Với đặc thù này, thuộc tính nghệ thuật không được biểu hiện đậm nét
bằng thuộc tính khoa học hay thuộc tính trí tuệ.
Như vậy, văn nghị luận là quá trình người nói, người viết cố gắng dẫn dắt, cố gắng
thuyết phục đối tượng giao tiếp của mình theo cách giải quyết một vấn đề bằng những
lời nói phù hợp với lẽ phải và sự thật. Với tư cách là một thể loại văn chương phản ánh,
sự nâng cao hiệu quả thuyết phục, sự chuyên môn hóa, nghệ thuật hóa các hoạt động
mà con người vẫn thường xuyên thực hiện ở cuộc đời. Rõ ràng, đây là thể loại không
có gì khác hơn là những ý tưởng, quan điểm của người viết, người nói trước một vấn

đề được đặt ra; là quá trình làm cho một vấn đề không còn là một vấn đề nữa trước
những người mà người nói đang ra sức thuyết phục người đọc ,người nghe.
b. Nghệ thuật cơ bản của văn nghị luận là nghệ thuật lập luận vì vậy lập luận
phải chặt chẽ, hợp lý và toàn diện.
Nếu như văn miêu tả sử dụng hình ảnh, màu sắc để làm rõ đối tượng chính hay văn
tự sự dùng phương thức chính là kể lại sự việc thì đối với văn nghị luận, lập luận là
thao tác chủ đạo. Bởi bản chất của làm văn nghị luận là một cuộc giao tiếp có trao
đi đáp lại với một nhân vật đối thoại ngầm, vì thế người viết cần có lập luận phù

20


hợp để thuyết phục người nghe. Cho nên để thuyết phục người đối thoại ngầm cần
phải có lập luận. Nghệ thuật lập luận là cách trình bày, sắp xếp các luận cứ dẫn đến
luận điểm, sắp xếp các luận điểm bênh vực hay phê phán vấn đề đặt ra. Nghệ thuật
lập luận được thể hiện ở hai cấp độ: Cấp độ bài và cấp độ đoạn. Trong thực tế có rất
nhiều cách lập luận khác nhau như: lập luận theo quan hệ diễn dịch hay quy nạp,
song hành hay đối lập, tương đồng hay tương phản, phân tích hay tổng hợp. Lập
luận trong văn nghị luận nhằm đi đến những luận điểm những kết quả có tính khái
quát, có ý nghĩa đối với xã hội. Nội dung luận điểm có thể khẳng định, tán thành
hoặc phủ định, bác bỏ vấn đề nêu ra. Luận điểm được diễn đạt một cách dễ hiểu,
sáng rõ, giá trị của luận điểm thể hiện ở tính đúng đắn, chân thực phù hợp với thực
tế chỉ khi đó luận điểm mới có sức thuyết phục người đọc. Văn nghị luận không chỉ
cần ý mà cần phải có lí, vì đích của nghị luận là thuyết phục. Kết hợp chặt chẽ giữa
ý và lí là đặc trưng nổi bật của văn nghị luận. Trong khi lập luận, một mặt luận cứ,
kết luận phải được trình bày rõ ràng, tách bạch nhau nhưng mặt khác chúng phải
được liên kết với nhau một cách chặt chẽ để tạo nên một chỉnh thể. Vì vậy các
phương tiện liên kết lập luận giữ một vai trò hết sức quan trọng. Từ những vấn đề
của đời sống văn hóa và xã hội, người viết trình bày những quan điểm, tư tưởng
riêng của mình, có thể bằng nhiều cách thức khác nhau, đó gọi là thao tác lập luận.

Nói đúng hơn, thao tác lập luận là cách thức mà người viết, người nói sắp xếp các
luận điểm, luận cứ theo logic của vấn đề và trình bày sao cho thể hiện đúng mục
đích, ý định của mình về vấn đề đang được trình bày. Luận điểm là tư tưởng, quan
điểm được nêu trong văn bản. Trong văn nghị luận, có luận điểm chính và luận
điểm phụ. Luận điểm chính thường được dùng làm kết luận của văn bản, nó là cái
đích mà nghệ thuật lập luận phải dẫn dắt người đọc phải đạt tới. Các luận điểm phụ
dùng làm các điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng trong quá trình lập luận. Luận
điểm chính trong bài mang nội dung tư tưởng của văn bản, được triển khai bằng
một số luận điểm phụ biểu hiện khía cạnh, chủ đề tư tưởng cho văn bản. Để khẳng
định các luận điểm, người ta dùng các luận cứ. Luận cứ là các lí lẽ và dẫn chứng,
được đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Các luận điểm dù khẳng định hay phủ định
vấn đề nêu ra, các luận cứ dù bác bỏ hay công nhận các luận điểm đều phải đảm bảo

21


×