Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Xu hướng nghề sư phạm của học sinh, sinh viên ngành mầm non trường cao đẳng bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.6 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ HỒNG PHÚ

XU HƯỚNG NGHỀ SƯ PHẠM
CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN NGÀNH MẦM NON
TRƯỜNG CAO ĐẲNG BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN BẮC

Thừa Thiên Huế, năm 2016
i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Tác giả

Phạm Thị Hồng Phú



ii


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Văn
Bắc – người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô Khoa Tâm lý – Giáo
dục, Phòng Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế đã tạo
điều kiện thuận lợi nhất để tác giả được học tập và nghiên cứu tại trường.
Qua đây, tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, quý thầy, cô
giáo, các em học sinh sinh viên ngành mầm non Khoa Sư phạm trường Cao đẳng
Bình Định đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
nghiên cứu.
Dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, vì
thế, tác giả rất mong nhận được sự góp ý từ quý nhà khoa học, quý thầy, cô giáo.
Tác giả

Phạm Thị Hồng Phú

iii


MỤC LỤC
Trang phụ bìa....................................................................................................................i
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn iii

Mục lục

1

Danh mục chữ viết tắt

4

Danh mục các bảng 5
Danh mục biểu đồ 7
MỞ ĐẦU

8

1. Lý do chọn đề tài 8
2. Mục đích nghiên cứu

10

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

10

5. Giả thuyết khoa học

10

10


6. Phương pháp nghiên cứu10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
8. Phạm vi nghiên cứu

11

9. Cấu trúc của luận văn

11

11

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XU HƯỚNG NGHỀ SƯ PHẠM CỦA
SINH VIÊN 12
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề 12
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài

12

1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam

14

1.2. Một số khái niệm, thuật ngữ có liên quan
1.2.1. Xu hướng

16

16


1.2.2. Nghề nghiệp 23
1.2.3. Nghề sư phạm

25

1.3. Xu hướng nghề sư phạm của sinh viên

30

1.3.1. Đặc điểm tâm lý, nhân cách của sinh viên có liên quan tới xu hướng nghề
30

1


1.3.2. Khái niệm xu hướng nghề sư phạm của sinh viên33
1.3.3. Biểu hiện của xu hướng nghề ở sinh viên 36
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới xu hướng nghề sư phạm
1.4.1. Yếu tố khách quan

40

1.4.2. Yếu tố chủ quan

42

39

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 44
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


45

2.1. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu 45
2.1.1. Địa bàn nghiên cứu 45
2.1.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu
2.2. Tổ chức nghiên cứu

46

47

2.2.1.Giai đoạn nghiên cứu lý luận

47

2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực trạng

47

2.2.3. Giai đoạn thực nghiệm

47

2.3. Phương pháp nghiên cứu

48

2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận


48

2.3.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

48

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 53
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU XU HƯỚNG NGHỀ SƯ PHẠM CỦA
HỌC SINH, SINH VIÊN MẦM NON TRƯỜNG CAO ĐẲNG BÌNH ĐỊNH
54
3.1. Lý do chọn nghề sư phạm của HSSV mầm non

54

3.2. Đánh giá về mức độ yêu thích nghề sư phạm của HSSV mầm non

60

3.3. Mức độ xu hướng với nghề sư phạm của HSSV mầm non 64
3.3.1. Mức độ xu hướng nghề sư phạm qua trắc nghiệm

64

3.3.2. Mức độ xu hướng nghề sư phạm qua bảng khảo sát

67

3.4. Các yếu tố tác động đến xu hướng nghề sư phạm của HSSV mầm non 85
3.5. Các biện pháp tác động nâng cao xu hướng nghề sư phạm cho HSSV mầm non
87

3.5.1. Các cơ sở đề xuất giải pháp 87

2


3.5.2. Các biện pháp đề xuất

88

3.5.3. Thử nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao xu hướng nghề sư phạm cho
HSSV 90
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 93
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

94

94

2. Kiến nghị 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

98


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


Nghĩa đầy đủ



Cao đẳng

CĐBĐ

Cao đẳng Bình Định

ĐC

Đối chứng

ĐH

Đại học

ĐLC

Độ lệ chuẩn

ĐTB

Điểm trung bình

GV

Giáo viên


GVMN

Giáo viên mầm non

HS

Học sinh

NXB

Nhà xuất bản

SV

Sinh viên

STT

Số thứ tự

XHN

Xu hướng nghề

XHNSP

Xu hướng nghề sư phạm

TB


Trung bình

TC

Trung cấp

TBK

Trung bình khá

TN

Thực nghiệm

4


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3.
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9

Bảng 3.10
Bảng 3.11
Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14
Bảng 3.15

Tên bảng
Lý do chọn nghề sư phạm của HSSV ngành mầm non
nhìn tổng thể
Lý do chọn nghề sư phạm của HSSV mầm non dưới lát
cắt hệ đào tạo
Lý do chọn nghề sư phạm của HSSV mầm non dưới lát
cắt kết quả học tập
Mức độ yêu thích nghề sư phạm của HSSV mầm non
dưới góc nhìn tổng thể
Mối quan hệ giữa yêu thích nghề sư phạm với mong
muốn được học tập tốt để trở thành GV
Mức độ yêu thích nghề sư phạm của HSSV mầm non
dưới lát cắt hệ đào tạo
Mức độ yêu thích nghề sư phạm của HSSV mầm non
dưới lát cắt kết quả học tập
Mức độ xu hướng với nghề sư phạm của HSSV mầm
non dưới góc nhìn tổng thể
Mức độ xu hướng nghề sư phạm của HSSV mầm non
dưới lát cắt hệ đào tạo
Xu hướng nghề sư phạm của HSSV mầm non dưới lát
cắt kết quả học tập
Nhận thức của HSSV trong học tập, rèn luyện nghề sư
phạm qua góc nhìn tổng thể

Nhận thức của HSSV trong học tập, rèn luyện nghề sư
phạm dưới lát cắt hệ đào tạo
Nhận thức HSSV trong học tập về nghề sư phạm dưới
lát cắt kết quả học tập
Nhu cầu, mong muốn học tập, rèn luyện đối với nghề
sư phạm của HSSV mầm non
Tương quan giữa nhận thức về các mặt hoạt động của
nghề với nhu cầu, mong muốn đối với nghề của HSSV

5

Trang
54
56
58
61
62
63
63
64
66
67
68
69
70
72
73


Bảng 3.16

Bảng 3.17
Bảng 3.18
Bảng 3.19

Bảng 3.20

Bảng 3.21
Bảng 3.22
Bảng 3.23
Bảng 3.24
Bảng 3.25

mầm non
HSSV mầm non có nhận thức và nhu cầu tích cực
trong XHNSP
Nhu cầu, mong muốn học tập, rèn luyện nghề ởHSSV
mầm non dưới dưới lát cắt hệ đào tạo
Nhu cầu, mong muốnhọc tập, rèn luyện nghề ởHSSV
ngành mầm non dưới góc độ kết quả học tập
Hành động học tập, rèn luyện nghề của HSSV ngành
mầm non dưới góc nhìn tổng thể
Hành động học tập, rèn luyện nghề của HSSV mầm
non ngành dưới lát cắt hệ đào tạo dưới lát cắt kết quả
học tập
Hành động học tập, rèn luyện nghề của HSSV
dưới lát cắt kết quả học tập
Tương quan giữa các yếu tố thể hiện XHNSP của
HSSV mầm non
Những yếu tố ảnh hưởng đến XHNSP của HSSV mầm
non

Kết quả khảo sát xu hướng nghề của nhóm ĐC và
nhóm TN khi chưa tiến hành thực nghiệm
Kết quả khảo sát xu hướng nghề của nhóm ĐC và
nhóm TN sau tiến hành thực nghiệm

6

74
75
76
78

82

84
85
86
90
91


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
Biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.3
Biểu đồ 3.4
Biểu đồ: 3.5
Biểu đồ 3.6


Tên biểu
Mức độ yêu thích nghề sư phạm của HSSV
mầm non dưới góc nhìn tổng thể
Mức độ xu hướng nghề sư phạm của HSSV
mầm non dưới góc nhìn tổng thể
HSSV mầm non có nhận thức và nhu cầu tích
cực trong XHNSP
Nhu cầu, mong muốn học tập, rèn luyện nghề ở
HSSV mầm non dưới góc độ kết quả học tập
Các yếu tố ảnh hưởng đến XHNSP của HSSV
mầm non
Các mặt biểu hiện của XHNSP của nhóm ĐC
và nhóm TN sau tiến hành thực nghiệm

7

Trang
61
65
74
77
86
91


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người không thể tách rời sự
hình thành phát triển nhân cách của nghề. Để phát triển nhân cách nghề, mỗi người

phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện lâu dài trong đó yếu tố xu hướng với nghề
có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách nghề. Các nghiên cứu
cho thấy, xu hướng với nghề có quan hệ chặt chẽ với phẩm chất, năng lực nghề của
mỗi cá nhân [20]. Mặc dù công tác hướng nghiệp và định hướng nghề đã được triển
khai nhằm giúp cho học sinh lựa chọn nghề phù hợp với phẩm chất và năng lực của
bản thân nhưng hoạt động này vẫn còn chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Ngay cả sinh viên khi đã đỗ vào các trường đại học, cao đẳng nhưng vẫn không có
được nhận thức và định hướng đúng trong ngành nghề của mình.
Nghề sư phạm từ xưa đến nay luôn được đánh giá là nghề cần thiết, quan trọng
và cao quý. Nhà giáo dục người Tiệp Khắc - Comenxki đã từng nói: “Dưới ánh mặt
trời, không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”. Ông cha ta cũng đã từng răn
dạy con cháu “Không thầy đố mày làm nên”.
Tuy nhiên trước đây, do chế độ ưu đãi đối với người thầy chưa đảm bảo, cuộc
sống của người thầy nghèo khó, thanh bần; sự quan tâm chưa thỏa đáng của xã hội
còn tồn tại, sự đánh giá chưa đúng của mọi người về vai trò của người thầy giáo…
điều đó đã thực sự tác động không nhỏ tới xu hướng chọn nghề sư phạm của học
sinh. Thời gian gần đây một số ngành trước kia khan hiếm thí sinh theo học thì giờ
trở nên tăng lên khá nhiều. Một trong những ngành đó chính là ngành sư phạm
mầm non.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên có vị
trí quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn lực con người. Trong quá trình giáo
dục con người thì giáo viên giữ vai trò quan trọng nhất. Đội ngũ giáo viên là lực
lượng cốt cán biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực, giữ vai trò quyết định
chất lượng và hiệu quả giáo dục [26]. Trong nhà trường, giáo viên là người trực tiếp
đưa những nội dung giáo dục đến với trẻ theo từng độ tuổi. Phẩm chất đạo đức,
trình độ nhận thức, khả năng tư duy sáng tạo của trẻ không chỉ phụ thuộc vào
8


chương trình và sách giáo khoa, vào môi trường học tập mà còn phụ thuộc nhiều

vào phẩm chất nhân cách, trình độ chuyên môn, năng lực tay nghề của giáo viên.
Điều này đã được khẳng định tại Hội nghị quốc tế “Bàn về giáo dục cho thế kỷ
XXI” tại Giơnevơ “Muốn có nền giáo dục tốt cần phải có những giáo viên tốt” [8,
tr.39]. Sự trau dồi về phẩm chất đạo đức, sự thành thạo các kỹ năng sư phạm giúp
GVMN đạt được các mục tiêu giáo dục mầm non như điều 22 – Luật giáo dục, 2005
quy định: “Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, hình thành yếu tố ban
đầu về nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1” [8].
Trong bức tranh toàn cảnh về giáo dục mầm non hiện nay, hầu hết những
người GVMN luôn âm thầm cống hiến cho sự nghiệp trồng người, họ không những
hết lòng quan tâm, lo lắng chăm sóc cho trẻ mà còn hy sinh thời gian, tình yêu, sức
khỏe cho đàn con thân yêu của mình… họ xứng đáng được mệnh danh là “người mẹ
thứ 2” của trẻ. Bên cạnh đó, có một bộ phận giáo viên tha hóa về nhân cách, họ
không tận tụy, tận tâm với nghề, thậm chí còn đánh đập, nhục mạ, xúc phạm gây tổn
thương về thể chất và tinh thần trẻ… Trong thời gian gần đây, đã có không ít những
vụ bạo hành trẻ mầm non nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã gây phẫn nộ trong dư
luận làm ảnh hưởng đến uy tín, nhân cách của người GVMN nói riêng và nghề giáo
nói chung, làm mất lòng tin của xã hội về giáo dục nước nhà.
Mặt khác, đối với SV chuyên ngành Mầm non của Khoa Sư phạm, Trường
CĐBĐ xu hướng với nghề sư phạm, động cơ chọn nghề chủ yếu của các em do có
hoàn cảnh kinh tế gia đình eo hẹp, khi ra trường có thể xin việc làm ngay thậm chí
xem ngành này như là nơi trú tạm, chờ cơ hội để kiếm nghề có thu nhập cao hơn...
Vì thế các em còn lơ là trong học tập, chưa thấy được tầm quan trọng cũng như
trách nhiệm lớn lao của cô giáo mầm non trong công tác giáo dục.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác đào tạo GVMN đáp ứng yêu cầu
nghề nghiệp mà xã hội yêu cầu, tác giả chọn đề tài “Xu hướng nghề sư phạm của
học sinh, sinh viên ngành Mầm non Trường Cao đẳng Bình Định” làm luận văn
thạc sĩ của mình với mong muốn tìm ra một số biện pháp tác động nhằm nâng cao
XHNSP cho SV ngành mầm non và qua đó góp phần nâng chất lượng đào tạo SV sư
phạm của nhà trường.


9


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng XHNSP của SV ngành Mầm non
Trường Cao đẳng Bình Định và từ đó đề xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng
cao XHNSP ở SV ngành mầm non.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu XHNSP của SV ngành Mầm non Trường Cao đẳng Bình Định.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể khảo sát thực trạng gồm 300 SV (120 SV năm 1, SV 120 năm 2, 60
SV năm 3) hệ chính quy ngành Mầm non thuộc Khoa Sư phạm Trường Cao đẳng
Bình Định.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của XHNSP của SV mầm non.
4.2. Nghiên cứu thực trạng XHNSP của SV Mầm non Khoa Sư phạm, Trường
Cao đẳng Bình Định.
4.3. Đề xuất biện pháp và tiến hành thực nghiệm một số biện pháp tác động
nâng cao XHNSP của SV ngành Mầm non Trường Cao đẳng Bình Định.
5. Giả thuyết khoa học
SV ngành Mầm non Khoa Sư phạm Trường Cao đẳng Bình Định bước đầu
đã có XHNSP tuy nhiên do tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên
XHNSP chưa cao do vậy nó ảnh hưởng tới kết quả học tập và chất lượng đào tạo
của nhà trường và nếu có biện pháp tác động khoa học thì sẽ nâng cao XHNSP cho
SV đồng thời góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để luận văn đảm bảo kết quả khách quan, khoa học tác giả lựa chọn các nhóm
phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nhằm xây dựng cơ sở lý luận

của luận văn.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6. 2.1. Phương pháp quan sát

10


6. 2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (anket)
6.2.3. Phương pháp trắc nghiệm
6.2.4. Phương pháp chuyên gia
6.2.5. Phương pháp phỏng vấn
6.2.6. Phương pháp thực nghiệm tác động
6.2.7. Phương pháp thống kê toán học
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Luận văn tiếp cận các quan điểm, tư tưởng của các nhà khoa học về XHN
và qua đó góp phần làm phong phú thêm lý luận tâm lý học về XHN, XHNSP của
SV ngành mầm non.
7.2. Đề xuất được một số biện pháp tác động nhằm tích cực hóa XHNSP ở SV
ngành Mầm non Trường Cao đẳng Bình Định.
8. Phạm vi nghiên cứu
8.1. Đề tài tập trung tìm hiểu thực trạng XHNSP của học SV ngành Mầm non
Trường Cao đẳng Bình Định.
8.2. Đề tài đưa ra các biện pháp tác động nâng cao XHNSP của SV ngành
Mầm non Trường Cao đẳng Bình Định.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn có cấu trúc 3 phần và 3 chương:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về xu hướng nghề sư phạm của sinh viên
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả nghiên cứu xu hướng nghề sư phạm của học sinh, sinh
viên mầm non Trường Cao Đẳng Bình Định
Phần kết luận và kiến nghị

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XU HƯỚNG NGHỀ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Xu hướng nghề nghiệp là một vấn đề rộng và có ý nghĩa lớn về lý luận và
thực tiễn. Vấn đề này đã được nghiên cứu khá nhiều trên thế giới, đặc biệt ở Liên
Xô cũ vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX tuy nhiên mỗi công trình nghiên cứu lại
xem xét XHN ở một góc độ khác nhau. Khi nghiên cứu về XHN, các nhà tâm lý học
đã đi theo nhiều hướng nhằm giải quyết các vấn đề lớn sau: nhận thức về nghề,
hứng thú nghề nghiệp; dự định nghề nghiệp; động cơ lựa chọn nghề nghiệp...
Nghiên cứu về nhận thức nghề nghiệp có các tác giả như: I.S.Côn, V.V
Têbưsêva...Trong đó, I.S Côn cho rằng: Thanh niên hãy còn biết rất ít cả những
thuộc tính thực tế của những nghề hấp dẫn họ và cả những yêu cầu mà các nghề đó
đề ra cho người lao động, lẫn những khả năng tiềm tàng của bản thân mình [31, tr.42].
Các tác giả V.N Supkin, V.P Gribanov, X.N Trixtaicôva, N.N Dakhacos, M V
Giuvanov, V.I Giucôpxkaia... nghiên cứu về hứng thú nghề nghiệp của học sinh đã
đi đến kết luận: Hứng thú nghề nghiệp nảy sinh và phát triển ngay từ khi trẻ em còn
học ởtrường phổ thông, chịu ảnh hưởng của tâm lý lứa tuổi và đặc điểm giới tính.
Nhìn chung học sinh thích những nghề công nghiệp hơn là nông nghiệp và phục vụ.
Nhiều tác giả như: V.N Supkin, V.P Gribanov, X.N Trixtaicôva, N.N Dakhacos,
A.A Barbinova... đã nghiên cứu về dự định nghề và đưa ra nhận xét: học sinh phổ
thông trung học thường có dự định mong muốn được tiếp thu nền học vấn cao,
không thích đi làm ngay.

Sự lựa chọn nghề của học sinh do nhiều động cơ khác nhau thúc đẩy. Các tác
giả như: I.S Côn, A.V Petrovxki, V.A Cruchetxki,.... đều có những công trình nghiên
cứu về vấn đề này.
Theo I.S Côn thì các nguyên nhân hấp dẫn học sinh lựa chọn một nghề nào đó
là do tính chất sáng tạo của lao động, ý nghĩa xã hội của nghề nghiệp và quy mô
tiền lương [11].
Bên cạnh đó, V.A Cruchetxki cho rằng nghề được chọn phù hợp với nguyện
12


vọng cá nhân khuynh hướng cá nhân đối với một dạng lao động nhất định, các năng
lực đối với dạng lao động ấy và sự đánh giá các ý nghĩa xã hội của nó được kết hợp
nhuần nhuyễn với nhau mang lại sự thoả mãn về mặt đạo đức cho con người và lợi
ích tối đa cho xã hội. Theo ông sự kết hợp giữa nguyện vọng, khả năng của cá nhân
với ý nghĩa xã hội của nghề nghiệp trong sự lựa chọn nghề là những yếu tố giúp cho
quá trình chọn nghề đạt hiệu quả tốt [12].
Khi nghiên cứu về XHNSP các nhà tâm lý học đã đi theo các hướng sau: bản
chất và cấu trúc của XHNSP; đặc điểm nguồn gốc của XHNSP; các giai đoạn và
điều kiện hình thành XHNSP.
- Khi nghiên cứu về bản chất và cấu trúc của XHNSP, các tác giả: A.K Marcova,
G.A Tomilova, X.A Zimicheva... cho rằng là thái độ cảm xúc - giá trị đối với nghề giáo
viên, là biểu hiện nhận thức dương tính về công việc của người giáo viên. Còn đối
với: Ph.N Gonobolin, V.A Spastenhin, A.N Leonchiev, cho rằng bản chất XHNSP là
phẩm chất có ý nghĩa nghề nghiệp của nhân cách người giáo viên.
Cùng với việc xác định bản chất, cấu trúc của XHNSP các tác giả cũng đưa ra
các cách phân chia các kiểu XHNSP: Như I.V Fastoves đã phân chia các kiểu
XHNSP gồm các thành phần sau: Xu hướng công việc, xu hướng vị tha, xu hướng
cá nhân. Sự chú ý đặc biệt trong công trình được dành cho nghiên cứu xu hướng vị
tha của giáo viên.
- Nghiên cứu đặc điểm nguồn gốc của XHNSP, các tác giả cho rằng nguồn gốc

của XHNSP là động cơ hoạt động sư phạm. Hiệu quả hoạt động sư phạm phần lớn
phụ thuộc vào cường độ và cấu trúc động cơ nghề nghiệp của người thầy giáo. Khi
nghiên cứu động cơ hoạt động sư phạm A.K Baimetov đã gộp sự đa dạng của chúng
thành ba nhóm: Động cơ nghĩa vụ; động cơ hứng thú say mê môn học; động cơ say
mê giao tiếp với trẻ em - “Tình yêu đối với trẻ em”.
- Nghiên cứu về các giai đoạn và điều kiện hình thành XHNSP. Theo ý kiến
của nhiều nhà nghiên cứu, người ta phân chia bốn giai đoạn phát triển xu hướng:
+ Bộc lộ hứng thú đối với nghề nghiệp như là sự phản ánh nhu cầu có nghề.
+ Hình thành hứng thú ổn định đối với hoạt động nghề nghiệp.
+ Hình thành khát vọng, mục đích nắm vững các cơ sở của tài nghệ sư phạm.

13


+ Hình thành tổ hợp các phẩm chất có ý nghĩa nghề nghiệp đối với lao
độngcủa giáo viên.
Như vậy, việc nghiên cứu về vấn đề XHN đã được nhiều tác giả nước ngoài
nghiên cứu. Riêng về lĩnh vực XHNSP, một phạm vi của xu hướng nghề còn ít được
chú ý. Từ các công trình nghiên cứu trên của các tác giả chúng tôi nhận xét một
cách khái quát về tình hình nghiên cứu XHNSP như sau:
- Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, trọn vẹn và chuyên sâu
về XHNSP về cả lý luận và thực tiễn, mà đi theo các hướng như: xác định bản chất
và cấu trúc của XHNSP; nghiên cứu đặc điểm nguồn gốc của nó; nghiên cứu các
giai đoạn và điều kiện hình thành XHNSP.
- Các công trình nghiên cứu hầu như chưa nghiên cứu tổng thể về các biểu
hiện của XHNSP, chưa vạch ra được một cách rõ ràng con đường, biện pháp hình
thành, phát triển XHNSP.
- Các công trình chưa đi sâu nghiên cứu về XHNSP của SV sư phạm, đặc biệt
chưa có công trình nào nghiên cứu về XHNSP của SV sư phạm mầm non.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam việc nghiên cứu XHN, XHNSP đã được xem xét ở nhiều góc độ
khác nhau như: nguyện vọng lựa chọn nghề nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, dự định
nghề nghiệp, động cơ nghề nghiệp...
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết nghiên cứu sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
lớp 10 (cũ) và tìm ra mối quan hệ của đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh lớp
10 với nguyện vọng lựa chọn nghề nghiệp, mối quan hệ của vấn đề nhận thức vị trí
của các nghề trong xã hội với nguyện vọng lựa chọn nghề nghiệp, mối quan hệ của
ước mơ lý tưởng với sự hình thành nguyện vọnglựa chọn nghề nghiệp [42].
Sau đó, tác giả Phạm Tất Dong và các cộng sự đã nghiên cứu về nhiều khía
cạnh khác nhau của xu hướng nghề như: nguyện vọng chọn nghề, hứng thú nghề
nghiệp sự lựa chọn nghề nghiệp, dự định nghề nghiệp, những nhân tố tác động đến
sự hình thành xu hướng nghề của học sinh cấp 3. Kết quả nghiên cứu cho thấy: đa
số học sinh có xu hướng muốn có trình độ học vấn đại học trước khi đi vào lao động
phục vụ. Xu hướng chọn nghề ở HS nam và nữ là khác nhau đo đặc điểm lứa tuổi,

14


giới tính và nó cũng ảnh hưởng đến sự phân hoá hứng thú nghề nghiệp [14].
Các tác giả Nguyễn Mạnh Trang, Trần Thế Linh, Bùi Thị Phương Mai, Đỗ Thị
Hậu đã nghiên cứu XHN của học sinh phổ thông và ảnh hưởng của nó đến tính tích
cực học tập.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu của các tác giả khác như:
- Đề tài “Xu hướng nghề nghiệp” của tác giả Nguyễn Quang Uẩn và cộng sự
đã nghiên cứu về đặc điểm XHN của HS thành phố và kết luận: Nhận thức về nghề
của HS còn yếu, số nghề và các trường chuyên nghiệp được HS biết đến chưa
nhiều. Hứng thú nghề nghiệp của HS hình thành muộn, chưa tập trungvà chưa rõ
nét [30].
- Công trình của tác giả Đỗ Mộng Tuấn nghiên cứu về động cơ và xu hướng
nghề nghiệp của SV có nhận xét: Các động cơ mang ý nghĩa xã hội là động cơ chọn

nghề chủ yếu của đa số SV sư phạm và xu hướng nghề nghiệp của SV sư phạm
tương đối ổn định... trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hình
thành xu hướng nghề nghiệp cho SV [39].
- Tác giả Đỗ Thị Châu tìm hiểu “Xu hướng sư phạm của thanh niên trong tình
hình đổi mới kinh tế - xã hội” đã nhận xét: Xu hướng sư phạm của thanh niên vẫn
chưa ổn định do chủ yếu là vấn đề chế độ đãi ngộ (trong đó có vấn đề tiền lương)
đối với giáo viên vẫn chưa thỏa đáng [9].
- Tác giả Phan Thị Tố Oanh đã tiến hành nghiên cứu “Nhận thức nghề và dự
định chọn nghề của học sinh phổ thông trung học”. Nghiên cứu cho thấy: Nhận thức
về nghề của học sinh mới dừng ở những biểu hiện bên ngoài của nghề mà chưa đi
sâu tìm hiểu những đặc trưng riêng của từng nghề và đối chiếu yêu cầu đó với
những đặc điểm cá nhân [30].
- Tác giả Đào Thị Oanh nghiên cứu về “Xu hướng nghề nghiệp của học sinh
trung học” đã nhận xét: Nhìn chung học sinh trung học chưa định hình một khuynh
hướng nghềnghiệp cụ thể. Các hứng thú mới chỉ dừng lại ở chỗ thỏa mãn nhu cầu
thích hiểu biết. Một số nghề hiện nay xã hội đang có nhu cầu cao về nhân lực lại
chưa được học sinh định hướng vào do sự thiếu thông tin, thiếu gắn bó với những
lĩnh vực tri thức về các ngành nghề đó [29].
Nhìn chung, việc nghiên cứu XHN, XHNSP đã được nhiều tác giả trong nước
15


nghiên cứu. Tuy nhiên từ các công trình nghiên cứu trên của các tác giả chúng tôi có
nhận xét khái quát sau:
- Hầu như chưa có công trình nghiên cứu sâu, trọn vẹn về XHN, mà chỉ
nghiên cứu từng góc độ khác nhau của XHN như: nguyện vọng lựa chọn nghề
nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, dự định nghề nghiệp, động cơ nghề nghiệp...
- Các công trình nghiên cứu về XHNSP rất ít, chưa có một nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu tổng thể về XHNSP với các mặt biểu hiện của nó.
- Các công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu trên khách thể là HS, việc

nghiên cứu ở lứa tuổi SV còn rất hạn hẹp, đặc biệt SV sư phạm ngành mầm non.
1.2. Một số khái niệm, thuật ngữ có liên quan
1.2.1. Xu hướng
1.2.1.1. Khái niệm xu hướng
Trong sinh hoạt, học tập, lao động, nói chung trong toàn bộ cuộc sống mỗi con
người bao giờ cũng hướng về một mục tiêu nào đó mà mình xem là có nhiều ý
nghĩa đối với bản thân, sự hướng về mục tiêu này thường không phải chỉ diễn ra
trong ngày một, ngày hai, mà trái lại nó có tính chất lâu dài, tương đối ổn định.
Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm xu hướng:
Các nhà khoa học Anh định nghĩa: Xu hướng là con đường mà một người
hoặc một vật hướng tới để trở thành hoặc hành động. Là hướng mà sự vật nào đó
chuyển động hoặc thay đổi [46, tr.940].
Các nhà khoa học Đức cũng định nghĩa: Xu hướng là hướng tới một mục đích
xác định. Là chiều hướng phát triển của một hiện tượng [47, tr.471]
Các nhà tâm lý học Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Trần Trọng Thuỷ,
Nguyễn Quang Uẩn đã khẳng định: Xu hướng nói lên phương hướng, chiều hướng
phát triển của con người, xác định người đó “đi” theo hướng nào, từ đâu [19, tr.74].
Khái niệm này tương đối thống nhất với khái niệm: Xu hướng là sự thiên về
một hướng nào đó trong quá trình hoạt động. Sự thiên hướng về một hoạt động nào
đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài
[32, tr.1118].
Trong cuốn Tâm lý học đại cương của Hội đồng bộ môn tâm lý học có định

16


nghĩa: Xu hướng là ý định hướng tới đối tượng trong một thời gian lâu dài, nhằm
thoả mãn những nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới mục tiêu cao đẹp mà cá nhân
lấy làm lẽ sống cho mình [20, tr.146].
Phân tích định nghĩa này ta thấy xu hướng có ba mặt: Mặt nhận thức trong xu

hướng biểu hiện ở chỗ xu hướng bao giờ cũng có đối tượng nhất định. Đối tượng đó
dù cụ thể hay trừu tượng cũng đều được phản ánh vào đầu óc của cá nhân.
Mặt thái độ của xu hướng biểu hiện ở chỗ, đối tượng hay mục tiêu sẽ làm thoả
mãn những đòi hỏi của mình, nên cá nhân luôn tỏ một thái độ tích cực.
Mặt hành động trong xu hướng biểu hiện ở chỗ, là ý định hướng tới đối tượng
hay mục tiêu. Sự vươn tới đó có khi trở thành một đòi hỏi gay gắt đối với cá nhân,
thôi thúc họ hành động.
Tóm lại, có nhiều định nghĩa khác nhau về xu hướng, trong luận văn này khái
niệm xu hướng được hiểu: Xu hướng là ý định hướng tới đối tượng trong một thời
gian lâu dài, nhằm thoả mãn những nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới mục tiêu
cao đẹp mà cá nhân lấy làm lẽ sống cho mình.
1.2.1.2. Các cách tiếp cận xu hướng
a. Xu hướng với tư cách là một thuộc tính nhân cách
* Quan điểm của một số trường phái tâm lý học phương Tây về xu hướng
nhân cách
Trong nền tâm lý học phương Tây, có thể do nhiều nguyên nhân về thế giới
quan, về phương pháp luận nên việc nghiên cứu nhân cách tuy đã được quan tâm và
đã có những đóng góp nhất định cho nền tâm lý học nói chung. Tuy nhiên, vấn đề
xu hướng nhân cách không được nghiên cứu tách bạch, không được xem như một
thuộc tính của nhân cách.
Trong Phân tâm học, điển hình là S.Freud (1856 – 1939) nghiên cứu nhân cách
theo mô hình cấu trúc 3 bộ phận: “cái nó” (id), “cái tôi” (ego), và cái “siêu tôi”
(superego) và bản năng xâm kích (aggressive), sự trưởng thành “cái tôi” và sự hợp
lý của “cái siêu tôi” mà nhân cách sẽ có động lực thúc đẩy sự phát triển nhân cách
khác nhau.
Tâm lý học hành vi, đại biểu điển hình là J.Watson (1878 – 1958) coi hành vi
17


là nền tảng, là đối tượng nghiên cứu. Hành vi được nảy sinh, phát triển trên cơ sở cá

nhân gắn liền với yếu tố thưởng phạt (theo nguyên tắc S – R). Do đó, nghiên cứu
nhân cách dựa trên việc xem xét hành vi để tìm hiểu động cơ thúc đẩy nhân cách
hành động theo xu hướng “tự do” cá nhân dựa trên những đặc điểm riêng của cá
nhân gắn liền với nhu cầu của họ.
Trong khi đó A.Maslow (1908 – 1970) cho rằng: động lực chính của nhân
cách là mong mong muốn trở thành cái mà nó có thể thực hiện bằng tất cả khả năng,
ý chí của mình. Không phủ nhận động cơ vô thức, khả năng ảnh hưởng của quá
trình học tập, ông còn chỉ rõ động cơ thúc đẩy hành động của nhân cách gắn liền
với việc thỏa mãn các nhu cầu (bậc trên và bậc dưới). Trong đó, ông coi việc tự
khẳng định (self – actualization) là nhu cầu có vị trí cao nhất, có tính quyết định đến
thái độ, hành vi, chiều hướng phát triển của nhân cách.
Hai nhà tâm lý học H.Spencer (1820 – 1903) và W.James (1842 – 1910) cho
rằng trong quá trình tồn tại, cá thể người luôn phải thích nghi với những điều phức
tạp của môi trường tự nhiên và xã hội. Theo đó, con người luôn hướng ý thức và tổ
chức hành động vào việc đạt tới mục đích thực hiện được sự thích ứng với môi
trường. Như vậy, tuy không nghiên cứu xu hướng nhân cách, nhưng khi đề cập đến
khía cạnh thích nghi, thích ứng nghề nghiệp các tác giả đã chỉ ra mối quan hệ của
nhân cách và nghề nghiệp [34].
Có thể kết luận rằng, các nhà tâm lý học phương Tây đã có những phát hiện
đáng trân trọng trong nghiên cứu nhân cách. Tuy nhiên, họ đã không nghiên cứu xu
hướng nhân cách như một thuộc tính quan trọng của nhân cách con người. Đồng
thời, họ lại giải quyết vấn đề trên trên lập trường sinh vật cơ cũng như xu hướng của
nhân cách, chưa thấy được tính tích cực, chủ động trong xu hướng của nhân cách.
* Quan điểm về xu hướng nhân cách của một số nhà tâm lý học Macxit
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, người đặt nền móng cho việc nghiên cứu
chuyên biệt về xu hướng nhân cách là X.L Rubinstein, theo ông “vấn đề nhân cách
trước hết là câu hỏi về khuynh hướng thúc đẩy như là động cơ quy định hoạt động
của con người” [35].
Tuy ở đây chỉ mô tả hiện tượng, chưa nói lên được đầy đủ bản chất vấn đề xu


18


hướng nhân cách song khái niệm này đã phản ánh mục đích, động cơ căn bản của
con người trong hoạt động sống.
Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới một mục tiêu nào đó (một
sản phẩm cụ thể, tri thức khoa học, tư tưởng chính trị...) đồng thời thúc đẩy hoạt
động nhằm từng bước chiếm lĩnh chúng. Sự hướng tới này được phản ánh trong tâm
lý mỗi người như là xu hướng của nhân cách.
Xu hướng nhân cách là một trong những thành phần quan trọng trong cấu trúc
của nhân cách. Nó giữ vị trí điểm nút trong mạng lưới các mối quan hệ giữa các
thuộc tính trong cấu trúc nhân cách. Xu hướng còn làm nhiệm vụ định hướng, điều
khiển, điều chỉnh sự hình thành và phát triển toàn bộ các thuộc tính của nhân cách
(năng lực, tính cách, khí chất...) và làm cho chúng kết hợp hài hòa với nhau trở
thành một chỉnh thể trọn vẹn, một khối thống nhất không thể chia cắt được. Nói đến
xu hướng là nói đến bộ phận hợp thành quan trọng nhất trong cấu trúc của nhân
cách, đóng vai trò chủ đạo trong cuộc sống cá nhân, chi phối mọi sự suy nghĩ, hành
động, lối sống của cá nhân, quy định đường hướng căn bản của toàn bộ cuộc đời
mỗi con người.
A.V Petrovxki định nghĩa về xu hướng nhân cách như sau: “Xu hướng nhân
cách là kết quả của sự nảy sinh những động cơ chiếm ưu thế một cách ổn định của
hành vi” [31]. Xu hướng nhân cách vừa là kết quả vừa là biểu biện của một cấu trúc
có cấp bậc bền vững của động cơ. Xu hướng nhân cách phản ánh bộ mặt đạo đức
của con người, phản ánh toàn bộ hệ thống quan điểm tiến bộ hay lạc hậu của con người.
Khi bàn về những vấn đề tâm lý của tính cách, N.Đ Lêvitốp nêu quan niệm
rằng: “Xu hướng nhân cách là một trong hàng loạt các yếu tố cùng với ý chí cấu
thành tính cách, đó là hệ thống thái độ xác định quan hệ lựa chọn và tính tích cực
của con người” [33, tr.16].
Tóm lại, những thành tựu của các nhà tâm lý học Macxit, đặc biệt là của tâm
lý học Liên Xô trong việc nghiên cứu về xu hướng nhân cách thể hiện trước hết ở

chỗ họ đã từng bước hoàn thiện khái niệm, chỉ ra được mối quan hệ của xu hướng
với các thuộc tính khác trong nhân cách, làm rõ cấu trúc cũng như các giai đoạn và
điều kiện hình thành, phát triển nó.
* Quan điểm của một số nhà tâm lý học Việt Nam về xu hướng nhân cách
19


Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Xu hướng làm nhiệm vụ định hướng, điều
khiển và điều chỉnh sự hình thành và phát triển toàn bộ các thuộc tính của nhân
cách, làm chúng kết hợp hài hòa với nhau thành chỉnh thể trọn vẹn, một khối thống
nhất không chia cắt được và đặc biệt xu hướng có quan hệ chặt chẽ với năng lực”
[19, tr 315].
Trong quyển Tâm lý học quân sự cũng nêu lên quan điểm về xu hướng: “Xu
hướng giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò chủ đạo trong cuộc sống cá nhân, chi
phối mọi suy nghĩ, hành động, lối sống, quyết định đường hướng căn bản của toàn
bộ cuộc đời một con người” [33, tr.186].
Theo tác giả Vũ Dũng, “Xu hướng của nhân cách là thuộc tính khái quát và
tích hợp của nhân cách, là tổng hòa các động cơ ổn định định hướng hoạt động của
nhân cách, tương đối độc lập với các tình huống đang diễn ra” [15, tr.1012].
Như vậy, mặc dù có cách diễn đạt khác nhau, song về cơ bản, các tác giả Việt
Nam đều có những nhận định chung khi nói về xu hướng nhân cách. Trong luận văn
này, tác giả tiếp cận quan điểm xu hướng nhân cách của tác giả Nguyễn Quang Uẩn
“Xu hướng của nhân cách là một thuộc tính điển hình của cá nhân bao hàm trong nó
một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy
định sự lựa chọn thái độ của nó” [43, tr.172] làm cơ sở định hướng trong xem xét
XHNSP của SV.
Một số biểu hiện của xu hướng nhân cách:
Trong cuộc sống hằng ngày, xu hướng được biểu hiện ra bên ngoài ở nhu cầu,
hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin...
- Nhu cầu là đòi hỏi tất yếu của cá nhân về một cái gì đó mà con người thấy

cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu bắt nguồn từ mối quan hệ phụ
thuộc của con người và hoàn cảnh sống cụ thể, không phải do ý thức hay do ý chí
chủ quan sinh ra. C.Mac từng viết: “Đói là nhu cầu tự nhiên, cho nên nó cần tự
nhiên ở bên ngoài nó, cần có đối tượng ở bên ngoài nó để thỏa mãn mình, làm cho
no mình” [23]. Ở con người, nhu cầu không chỉ là sự cần thiết về ăn, mặc, ở... mà
còn là về nhu cầu lao động, nhận thức, thẩm mỹ, hay hoạt động xã hội, giáo dục, tự
giáo dục... Nghiên cứu xu hướng nhân cách không thể không tính đến nhu cầu của

20


họ. Nhu cầu khi gặp đối tượng có khả năng thỏa mãn sẽ trở thành động cơ thúc đẩy
con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
- Động cơ chính là sự phản ánh, sự biểu hiện nhu cầu của con người. Tuy
nhiên, động cơ không phải là bản thân nhu cầu mà là nhu cầu đã được cụ thể hóa.
Trên cơ sở cùng một nhu cầu thường nảy sinh nhiều động cơ. Mặt khác cùng một
động cơ lại đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau. Một động cơ có thể chi phối nhiều
hoạt động, ngược lại, một hoạt động có thể do nhiều động cơ thúc đẩy, định hướng,
trong đó có một động cơ giữ vai trò chủ đạo. Các động cơ khác không chỉ định
hướng và còn thúc đẩy hành động của con người mà còn làm cho các hành vi, hành
động của con người mang một ý nghĩa chủ quan, ý nghĩa cá nhân.
- Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý
nghĩa với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá
trình hoạt động. Như vậy, khi có hứng thú với một đối tượng nào đó thì đối tượng
đó bao giờ cũng được ta ý thức, hiểu rõ ý nghĩa của nó với cuộc sống và ta có một
tình cảm đặc biệt với nó. Do đó, hứng thú lôi cuốn, hấp dẫn con người về phía đối
tượng, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận, đi sâu vào nó. Chính vì vậy, khi được làm
việc phù hợp với hứng thú của mình dù phải vượt qua muôn vàn khó khăn con
người vẫn cảm thấy thoải mái và thu được hiệu quả cao.
- Lý tưởng được xác định như một hình mẫu mà con người cần vươn tới trong

cuộc sống. Theo Lê Khanh, “Lý tưởng được coi là mục tiêu cao đẹp, được phản ánh
vào trong đầu óc con người dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh,
có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong một thời gian
tương đối lâu dài và hoạt động để vươn tới mục tiêu đó” [31]. Lý tưởng hình thành
và phát triển trong sự phụ thuộc thế giới quan và niềm tin của cá nhân. Vì thế, lý
tưởng có tác dụng kích thích, định hướng và điều chỉnh sự phát triển của quá trình
tâm lý cá nhân cho phù hợp với nó. Có thể nói, trong lý tưởng có sự thống nhất hài
hòa giữa nhận thức sâu sắc, tình cảm nồng cháy và ý chí kiên cường.
Thế giới quan cá nhân là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản
thân, xác định phương châm hành động của con người. Thế giới quan đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong đời sống của cá nhân. Có thể nói, thế giới quan chính là

21


kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thế
giới quan quyết định thái độ của con người đối với hiện thực xung quanh. Nó là cơ
sở của đạo đức. Toàn bộ những thuộc tính tâm lý của cá nhân như nhu cầu, hứng
thú, tính cách, năng lực... và đặc biệt là lý tưởng đều được hình thành và phát triển
dưới ánh sáng của thế giới quan cá nhân [31].
Niềm tin chính là những quan điểm đã được cá nhân nhận thức, thể nghiệm
sâu sắc và coi là chân lý chính xác nhất của bản thân. Quan điểm biến thành niềm
tin là quan điểm đã được gắn chặt với tình cảm, có được niềm tin đó là do cá nhân
luôn luôn dựa vào những sự kiện của cuộc sống để rút ra những quan điểm, rồi lại
dùng những quan điểm đó để nhận thức và hành động. Niềm tin tạo cho con người
nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.
b. Xu hướng với tư cách là khuynh hướng hoạt động của cá nhân
Khi nghiên cứu về xu hướng, V.S Merlin đã cho rằng, cần hiểu xu hướng như
một thuôc tính tâm lý xác định khuynh hướng chung của hoạt động tâm lý con
người trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Có thể nói, ở đây ông đã góp

phần giải thích rõ thêm về xu hướng với tư cách là khuynh hướng hoạt động của cá nhân.
G.D. Lucốp chỉ rõ: “Xu hướng là tổng hòa các quan điểm, lý tưởng và niềm
tin chủ đạo trong hoạt động tích cực của con người, hướng họ đến chỗ đạt tới những
mục đích quan trọng nhất của cuộc sống” [33]. Như vậy, ông đã nêu lên một số yếu
tố cấu thành nên xu hướng cũng như vai trò chi phối của những yếu tố đó đối với
khuynh hướng hoạt động của cá nhân.
L.Ph Phêđencô lại cho rằng: Xu hướng là thuộc tính chỉ ra cho con người phấn
đấu tới cái gì và hướng cuộc đời mình tới đâu. Xu hướng dựa trên hoài bão, khát
vọng của cá nhân, là những động cơ, nhu cầu của họ, phản ánh mục đích và động cơ
căn bản của con người trong hoạt động sống”. Với cách diễn đạt như trên, ông đã
chỉ ra rõ ràng hơn “cái” và “cách” tồn tại của xu hướng [33, tr.16]. Chúng tôi cho
rằng, đây là quan điểm phù hợp nhất về xu hướng với tư cách là khuynh hướng hoạt
động của cá nhân.
Tóm lại, trong tâm lý học có hai cách tiếp cận xu hướng: thứ nhất xu hướng
22


×