Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Ủy Thác Thi Hành Án Dân Sự Theo Pháp Luật Thi Hành Án Dân Sự Việt Nam Hiện Nay Từ Thực Tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.08 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HÙNG

ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HÙNG

ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838 01 07

PGS. TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN

Hà Nội, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học từ công sức,
suy nghĩ, nghiên cứu của tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS Vũ Thị Hồng Vân. Các số liệu, các tư liệu, những kết quả nghiên cứu
được trình bày trong luận văn này là trung thực. Luận văn chưa từng được công bố
dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của
mình.
Tác giả

Nguyễn Văn Hùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..................... 9
1.1 Khái quát chung về ủy thác thi hành án dân sự ........................................................ 9
1.2 Khái quát về pháp luật ủy thác thi hành án dân sự ................................................. 15
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HIỆN
HÀNH VỀ ỦY THÁC THI HÁNH ÁN DÂN SỰ..................................................... 30
2.1 Căn cứ thực hiện ủy thác thi hành án dân sự .......................................................... 30
2.2 Các trường hợp thực hiện ủy thác thi hành án ........................................................ 37
2.3 Thẩm quyền ủy thác thi hành án dân sự .................................................................. 43
2.4 Trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án dân sự............................................................ 45
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,
NÂNG CAO HIỆU QỦA THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI ...................... 50
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại TP. HCM .............. 50
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại
TP. HCM trong thời gian tới ......................................................................................... 68

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 87


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

Từ viết tắt

Từ được viết tắt

01

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

02

CQQLNN

Cơ quan quản lý Nhà nước

03

UBND

Ủy ban nhân dân


04

KTTT

Kinh tế thị trường

05

BA

Bản án

06



Quyết định

07

TA

Tòa án

08

TAND

Tòa án nhân dân


09

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

10

THA

Thi hành án

11

THADS

Thi hành án dân sự

12

CQTHA

Cơ quan Thi hành án

13

CQTHADS

Cơ quan Thi hành án dân sự


14

CHV

Chấp hành viên


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự là công tác phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong
đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của con người (quyền về tài
sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có liên quan). Việc tổ chức thi
hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ của các bên có liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án và theo
quy định của pháp luật.
Để thi hành bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan THADS, CHV phải
thực hiện rất nhiều các biện pháp nghiệp vụ như: Giao quyết định thi hành án; Xác
minh điều kiện thi hành án của đương sự như: Nơi có tài sản, nơi làm việc, nơi cư
trú hoặc nơi có trụ sở; Ủy thác thi hành án…
Thực tế hiện nay, một cá nhân có thể có đăng ký thường trú tại địa chỉ này
nhưng lại tạm trú, sinh sống, làm việc tại một địa chỉ khác, hoặc có tài sản ở nhiều địa
phương khác nhau. Mặt khác, cơ quan hành chính Nhà nước lại được phân quyền
theo lãnh thổ nên chỉ thực hiện hoạt động của mình trên lãnh thổ phân định, việc thực
hiện hoạt động THADS trở nên khó khăn hơn khi tính chất đa lãnh thổ của các vụ
việc trở nên phức tạp hơn, khi đương sự có nhiều nơi cư trú, nhiều nơi có tài sản. Do
đó, chế định ủy thác THADS được đặt ra là một yêu cầu khách quan và tất yếu, có ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết khó khăn trong công tác thi hành án về
mặt điều kiện thực thi, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan THADS trong việc thực thi
các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm chi
phí cho đương sự trong việc tuân thủ theo các nội dung do Tòa án phán quyết, sau

cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước trong việc đảm bảo pháp chế XHCN.
Pháp luật về uỷ thác THADS được ban hành nhằm làm giảm bớt chi phí của
nhà nước và của đương sự, đồng thời làm tăng hiệu quả của việc tổ chức thi hành
bản án, quyết định bởi vì CQTHA nhận uỷ thác là cơ quan có điều kiện thuận lợi và
dễ dàng hơn để thi hành vụ việc. Tuy nhiên, pháp luật về ủy thác THADS vẫn còn
một số hạn chế, bất cập như: việc xác định nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có

1


nhiều tài sản nhất; trường hợp thi hành án nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; trường
hợp trước khi ủy thác, cơ quan THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài
sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác; trường hợp áp dụng biện
pháp ngăn chặn xuất cảnh, cơ quan chức năng yêu cầu cơ quan THADS đã yêu cầu
ngăn chặn xuất cảnh phải là cơ quan yêu cầu giải tỏa ngăn chặn xuất cảnh...
Trên thực tế, vấn đề uỷ thác thi hành án cần phải được hiểu và thực hiện đúng
quy định của pháp luật mới phát huy được hết vai trò và ý nghĩa của nó. Thực tiễn
khi thực hiện quy định của pháp luật về ủy thác THADS tại TP. Hồ Chí Minh hiện
nay bên cạnh những kết quả tích cực, cũng có những vấn đề còn khó khăn, bất cập,
việc phối hợp thực hiện ủy thác THADS giữa các Chi cục vẫn còn chưa thống nhất
với nhau về nhận thức về ủy thác trong một số trường hợp như (ủy thác không đúng
đối tượng, chưa xác minh cụ thể điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
nhưng vẫn ủy thác), hoặc việc các cơ quan THADS né tránh, đùn đẩy việc thi hành
án cho cơ quan THADS nơi khác ngay khi căn cứ để uỷ thác…
Từ những lý do nêu trên, đồng thời nhằm góp phần nâng cao hiệu quả pháp
luật THADS nói chung và việc ủy thác THADS nói riêng, thì việc nghiên cứu và
hoàn thiện các quy định của pháp luật về ủy thác THADS là cần thiết, có ý nghĩa về
mặt pháp luật và thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Ủy
thác THADS theo pháp luật THADS Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, có một số giáo trình và công
trình nghiên cứu khoa học liên quan như sau:
- Học viện tư pháp (2010), Giáo trình kỹ năng THADS, phần nghiệp vụ, Nhà
xuất bản Tư pháp. Đây là cuốn sách chuyên khảo trình bày một cách khoa học, hệ
thống các vấn đề cơ bản về ủy thác THADS, các tác giả đã phân tích, đánh giá các
quy định của pháp luật hiện hành, đưa ra các kỹ năng áp dụng pháp luật THADS
nói chung, cũng như chế định ủy thác THADS nói riêng để góp phần hoàn thiện
pháp luật về hoạt động THADS.

2


- Trần Công Huân (2012), “Xử lý ủy thác thế nào cho đúng với Luật
THADS”, Dân chủ và Pháp luật (Số 5). Bài viết đưa ra tình huống thực tế, các quan
điểm trái chiều, còn tranh cãi, mong muốn sự đóng góp, trao đổi ý kiến của các bạn
đồng nghiệp để giúp cho việc xây dựng pháp luật THADS nói chung, vấn đề ủy
thác nói riêng ngày càng được hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi
hành pháp luật về THADS. Tuy nhiên đây chỉ là bài viết thể hiện quan điểm cá
nhân của tác giả, tính pháp lý khoa học chưa cao, không phải là sự nghiên cứu
chuyên sâu.
- Hà Tuấn Phương, Trương Văn Đới, Đỗ Minh Tiến (2007), “Ủy thác THADS
như thế nào là đúng pháp luật”, Dân chủ và Pháp luật, (Chuyên đề tháng 4/2007).
Bài viết đề cập vướng mắc trong quá trình ủy thác THADS như “ủy thác trực tiếp
có đúng pháp luật không, có cần quy định ủy thác xác minh điều kiện của người
phải thi hành án không, CQTHA nào giải quyết tiền đã tạm thu”. Theo tác giả, do
việc quy định không rõ ràng của Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, cụ thể là các quy định của Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày
30/9/2004 của Chính phủ về thủ tục cưỡng chế thi hành án nên trong quá trình áp
dụng pháp luật đã nảy sinh vướng mắc. Theo tác giả, cần có quy định cụ thể về

trường hợp ủy thác trực tiếp cũng như trường hợp ra quyết định thi hành án rồi mới
ủy thác. Pháp luật cần có quy định về ủy thác xác minh điều kiện của người phải thi
hành án nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án, cũng như đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân. Thống nhất
thi hành trên thực tế về cơ quan giải quyết tiền đã tạm thu để tránh chồng chéo, mâu
thuẫn và thi hành không đúng quy định. Tuy nhiên đây chỉ là bài đăng trên tạp chí
nên tác giả chưa thể nghiên cứu đầy đủ về ủy thác THADS trên thực tế.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật THADS Việt Nam, Nhà
xuất bản Tư pháp. Đây là giáo trình thể hiện nội dung chi tiết về THADS, cung cấp
cho người đọc những nội dung cơ bản có hệ thống về THADS nói chung và ủy thác
THADS nói riêng. Nội dung quyển sách cho người đọc cái nhìn tổng quan về những
vấn đề cơ bản của pháp luật về ủy thác THADS như khái quát khái niệm, đặc điểm,

3


phân loại, nguyên tắc của chế định này.
- Lại Văn Thắng (2013), “Tình huống ủy thác THADS cần hiểu và áp dụng
cho đúng”, Dân chủ và Pháp luật (Số 9). Bài viết đưa ra tình huống ủy thác còn
vướng mắc trên thực tế, đề xuất cách thức giải quyết với mong muốn đóng góp suy
nghĩ của cá nhân, cũng như chỉ ra cái nhìn rõ hơn về các quy định của pháp luật liên
quan đến ủy thác THADS, để từ đó thực hiện việc ủy thác và nhận ủy thác một cách
chặt chẽ, đúng pháp luật. Tuy nhiên đây chỉ là bài viết mang tính chung chung, thể
hiện quan điểm cá nhân về ủy thác THADS, chứ không phải là sự nghiên cứu
chuyên sâu về từng vấn đề ủy thác THADS.
- Lê Anh Tuấn, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp (tháng 7/2017), “Những lưu ý
trong thực hiện uỷ thác THADS” đăng trên cổng thông tin điện tử - Tổng cục
THADS - Bộ Tư pháp. Bài viết nói lên việc Ủy thác THADS có vai trò rất quan
trọng trong hoạt động THADS góp phần bảo đảm thi hành kịp thời, đầy đủ nội dung
phần quyết định của bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS, bảo

đảm thực thi quyền, nghĩa vụ của các đương sự trong THADS, mặt khác giúp cho
cơ quan THADS giải quyết việc THADS, giảm thiểu việc thi hành án tồn đọng.
Việc ủy thác THADS nhìn chung đã được cơ quan THADS thực hiện đúng quy
định của pháp luật, tuy nhiên thực tiễn cho thấy có lúc, có nơi còn lúng túng, thực
hiện chưa đúng dẫn đến sai sót, vi phạm về thủ tục ủy thác THADS. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến thực hiện ủy thác THADS chưa đúng là do nhận thức
chưa đầy đủ, chưa chính xác quy định về ủy thác THADS.
- Hồ Quân Chính – giảng viên Học viện Tư pháp (tháng 10/2019) “Cần có
thêm cơ chế “Ủy thác xử lý tài sản thi hành án” đăng trên cổng thông tin điện tử Tông cục THADS - Bộ Tư pháp. Bài viết đề cập đến thủ tục ủy thác trong THADS
hiện nay còn thiếu những quy định mang tính nguyên tắc do vậy gây ra không ít
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện, bổ sung đầy đủ nguyên tắc về ủy thác thi hành án và nghiên cứu bổ
sung cơ chế “ủy thác xử lý tài sản” trong thi hành án. Đây là một cách tiếp cận mới
và nếu được áp dụng nó sẽ giải quyết được những bất cập hiện nay, bảo đảm tốt

4


nhất quyền lợi hợp pháp của đương sự, đồng thời, đặc biệt có ý nghĩa trong ủy thác
tổ chức thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị tuyên bố pháp sản theo
Luật phá sản năm 2014. Mặt khác bài viết cũng nêu lên một số bất cập, hạn chế của
pháp luật về ủy thác thi hành án, khó khăn, bất cập khi áp dụng pháp luật vào thực
tế, đề xuất hướng hoàn thiện.
Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được những kết quả lớn, có giá trị phục
vụ cho khoa học pháp lý. Có công trình nghiên cứu ở mức độ chung chung, thể hiện
quan điểm cá nhân, có công trình nghiên cứu tổng quan, đưa ra các vấn đề cơ bản
xoay quanh ủy thác THADS. Tuy nhiên, việc tách riêng để nghiên cứu về chế định ủy
thác THADS thì tác giả chưa thấy công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ
thống những vấn đề liên quan đến ủy thác THADS. Hơn nữa, việc nghiên cứu, khảo
sát và đánh giá hoạt động ủy thác THADS tại một địa bàn rộng lớn như Thành phố

Hồ Chí Minh còn chưa có công trình nào nghiên cứu đề cập đến. Thiết nghĩ THADS
là một trong những lĩnh vực rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó động chạm trực tiếp đến
lợi ích của người phải thi hành án, cũng như quyền lợi của người được thi hành án, do
đó việc hoàn thiện chế định “ủy thác THADS” là một việc làm cần thiết, góp phần
hoàn thiện pháp luật thi hành án cũng như đảm bảo tốt cho quá trình thực thi các quy
định liên quan đến ủy thác THADS.
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về quy định ủy thác THADS và
quá trình áp dụng trong thực tế tại thành phố Hồ Chí Minh là đề tài không có tính trùng
lặp, là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện về mặt pháp luật đồng thời tìm ra
được những thiếu sót, vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn của quy định ủy
thác THADS, từ đó nâng cao hiệu quả khi áp dụng quy định ủy thác THADS góp
phần vào việc đẩy mạnh công tác THADS nói chung và tại địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, phân tích những quy
định pháp luật và khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về ủy thác
THADS. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

5


thực thi quy định về ủy thác THADS trong pháp luật THADS Việt Nam hiện hành.
Để đạt được mục đích trên đề tài, có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về ủy thác THADS;
- Phân tích quy định về ủy thác THADS trong pháp luật THADS Việt Nam
hiện hành;
- Khảo sát, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành
về ủy thác THADS tại thành phố Hồ Chí Minh;
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thi hành quy định pháp luật về ủy thác THADS.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định của pháp luật
Việt Nam (Luật THADS và các văn bản pháp luật hiện hành hướng dẫn thi hành) về
ủy thác THADS và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn, phương hướng
hoàn thiện những quy định về ủy thác THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Ủy thác THADS là một vấn đề khá phức tạp, có liên
quan đến nhiều hành vi từ việc xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt các quyết
định ủy thác, quyết định thu hồi… Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, theo
đúng tên đề tài “ủy thác THADS” tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chế định ủy
thác THADS theo Luật THADS hiện hành và văn bản pháp luật liên quan, theo đó,
tác giả tập trung nghiên cứu phân tích những vướng mắc, khó khăn làm cho chế
định ủy thác THADS khó thể thực hiện theo quy định của pháp luật để từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành của pháp luật
về ủy thác THADS.
- Phạm vi về thời gian và không gian: Luận văn khảo sát, đánh giá về thực
trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về ủy thác THADS tại thành phố
Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2014 đến hết năm 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt luận văn tác giả đã chọn các phương pháp sau:

6


- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh được tác giả sử dụng ở
Chương 1 và Chương 2 để nghiên cứu một số vấn đề lý luận và phân tích các nội
dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành với các vấn đề, quy định liên
quan nhằm làm sáng tỏ thêm các quy định về ủy thác THADS; đồng thời tác giả còn
sử dụng phương pháp này trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của
việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về ủy thác THADS từ đó đưa ra

những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thu thập
được liên quan đến ủy thác THADS.
- Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để hoàn thành luận văn trên cơ
sở tập hợp các tài liểu và các số liệu đã thu thập được.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học của luận văn: Luận văn đã giải quyết vấn đề cơ sở của những
quy định về ủy thác THADS và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn; Nhận diện được
những hạn chế, bất cập của chế định ủy thác THADS và các tồn tại, vướng mắc trong
thực tiễn thực hiện chúng. Từ đó, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó khăn,
vướng mắc đặt ra trong công tác THADS hiện nay.
Giá trị của đề tài: Luận văn này có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong
quá trình tác nghiệp của CHV, Thư ký thi hành án, Luật sư. Ngoài ra luận văn còn
có thể sử dụng để học tập nghiên cứu.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Một số vấn đề chung về ủy thác thi hành án dân sự và pháp luật về
ủy thác thi hành án dân sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành về ủy thác thi
hành án dân sự.
Chương 3. Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực

7


thi pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian tới.


8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về ủy thác thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm về ủy thác thi hành án dân sự
Trước hết, để làm rõ khái niệm ủy thác THADS, cần tìm hiểu thi hành án là gì?
Thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được tiến hành theo thủ tục trình tự pháp luật quy định, nhằm thực hiện các bản án
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án.
Thi hành án, xuất phát từ thuật ngữ gốc là “Thi hành” theo tác giả Đào Duy
Anh, thì thi hành là: “Đem cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả” [Từ
điển Hán - Việt của Đào Duy Anh tr.791] . Như vậy thi hành án có thể được hiểu là
đem bản án của Tòa án ra thi hành trên thực tế cho có hiệu quả; còn THADS là việc
đưa các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành
trên thực tế. Điều này có ý nghĩa chỉ các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực và đang có hiệu lực mới được đem thi hành; đó là các bản án, quyết định sau
đây của Tòa án: bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế; quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hành chính; quyết định về dân sự trong bản án, quyết định
hình sự; các bản án, quyết định dân sự khác do pháp luật quy định.THADS là hoạt
động của cơ quan THADS, người được thi hành án, người phải thi hành án và các
chủ thể khác trong việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án.
THADS chủ yếu là thi hành các quyết định của TA mang tính chất tài sản - đặc
trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn
trọng trong suốt quá trình THA. Điều này thể hiện ở chỗ: khác với THA hình sự,
người được THA trong THADS luôn giữ vai trò chủ động, có quyền quyết định việc
có đưa ra yêu cầu THA hay không? đưa ra vào thời điểm nào (miễn là trong thời

hiệu quy định), yêu cầu THA một phần.
THADS là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các chủ

9


thể được Nhà nước trao quyền, để thực hiện trên thực tế các bản án, quyết định dân
sự, phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự và các quyết định khác theo
quy định của pháp luật bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp
luật trên cơ sở tuân thủ một cách đầy đủ, chính xác các trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
Do vậy, có thể hiểu về THADS như sau: THADS là hoạt động của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm chỉnh các
bản án, quyết định về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ
tục pháp luật quy định.
Trên thực tế, trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự,
không ít những trường hợp bản án, quyết định dân sự có liên quan đến nhiều người
phải thi hành án ở những nơi khác nhau, tài sản, thu nhập của người phải thi hành
án ở những nơi khác nhau hoặc trong quá trình thi hành án người phải thi hành án
chuyển đi nơi khác… đã gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình thi hành án.
Trong trường hợp này, để tăng hiệu quả của việc tổ chức thi hành bản án, quyết
định thì phải tổ chức ủy thác cho CQTHA nhận uỷ thác là cơ quan có điều kiện
thuận lợi và dễ dàng hơn để thi hành vụ việc, đồng thời góp phần giảm bớt chi phí
của nhà nước và đương sự, từ đó phát sinh việc ủy thác THADS.
Ủy thác là việc bên ủy thác giao cho cá nhân, pháp nhân - bên được ủy thác,
nhân danh người ủy thác để làm một việc nhất định mà người ủy thác không thể làm
trực tiếp hoặc không muốn làm.
Uỷ thác THADS là việc chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần quyết định thi
hành án từ CQTHA này sang CQTHA khác theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
nhằm đảm bảo việc thi hành án các bản án, quyết định của Toà án liên tục và trên thực

tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân được pháp luật
bảo vệ.
Ủy thác thi hành án còn được hiểu là việc cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành án chuyển giao quyền ra quyết định và tổ chức thi hành án đến
cơ quan thi hành án nơi khác- nơi mà người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư

10


trú hoặc nơi có trụ sở để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham
gia vào việc thi hành án; uỷ thác thi hành án là trách nhiệm của cơ quan thi hành án
nơi có thẩm quyền nhưng không có điều kiện để tổ chức thi hành mà phải chuyển
hồ vụ việc cho cơ quan thi hành án khác có điều kiện tổ chức thi hành vụ việc.
Bên cạnh đó, uỷ thác thi hành án dân sự được coi là hoạt động của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án bằng một Quyết định để chuyển hồ sơ vụ việc thi hành
án thuộc thẩm quyền của mình cho một cơ quan thi hành án khác có điều kiện để tổ
chức thi hành; Ủy thác thi hành án là nghĩa vụ của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự nơi có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định khi có căn cứ người phải thi
hành án có tài sản hoặc làm việc hoặc cư trú hoặc có trụ sở ở địa phương khác.
Hiện nay, pháp luật về THADS chưa có văn bản nào quy định cụ thể khái
niệm về ủy thác THADS mà chỉ quy định về nguyên tắc, điều kiện, thẩm quyền và
trình tự, thủ tục ủy thác THADS. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của pháp
luật cũng như khảo sát thực tế áp dụng các quy định của pháp luật về ủy thác thi
hành án, có thể đưa ra khái niệm ủy thác THADS như sau:
Ủy thác THADS là việc CQTHA có thẩm quyền thi hành án chuyển giao quyền
ra quyết định và tổ chức thi hành án đến CQTHA nơi khác, nơi mà người phải thi
hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự tham gia vào việc thi hành án.
* Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản của ủy thác
THADS như sau:

- Chủ thể thực hiện ủy thác
Chủ thể của hoạt động ủy thác THADS bao gồm bên ủy thác và bên nhận ủy
thác, trong đó:
Bên ủy thác: là cơ quan THADS có nhu cầu giao cho bên nhận ủy thức để
thực hiện việc thi hành bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo yêu
cầu của mình.
Bên nhận ủy thác: là cơ quan THADS nơi có điều kiện hơn, thường là nơi
người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở để thực hiện việc

11


THADS.
- Nội dung ủy thác thi hành án dân sự
Nội dung của hoạt động ủy thác THADS là xác định căn cứ, thẩm quyền của
CQTHA nhận ủy thác và trình tự, thủ tục thực hiện việc ủy thác thi hành bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Cơ sở của việc ủy thác THADS
Ủy thác THADS có những điều kiện nhất định mới phải thực hiện ủy thác
THADS như: trước khi ủy thác THADS thì phải xem xét người phải thi hành án có
đủ điều kiện để ủy thác đến cơ quan THADS ở địa phương khác hay không thì phải
xác minh điều kiện của người phải thi hành án xem có tài sản hay đang cư trú ở địa
phương đó hay không, nếu tổ chức thì phải xem trụ sở tổ chức đó có đăng ký hoạt
động tại đại phương đó hay không…
Ủy thác THADS là một khâu riêng trong THADS, muốn ủy thác THADS
trong quá trình tổ chức THADS thì CHV ngoài việc phải thực hiện đầy đủ trình tự,
thủ tục THADS, còn phải xác minh đầy đủ, chặt chẽ, đủ điều kiện thì mới đủ căn cứ
để thực hiện việc ủy thác THADS.
- Ủy thác THADS có mục đích góp phần bảo đảm thi hành kịp thời, đầy đủ
nội dung phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa

án được thi hành theo thủ tục THADS, bảo đảm thực thi quyền, nghĩa vụ của các
đương sự trong THADS, bảo đảm quyền lợi cho người được thi hành án và cho
ngân sách Nhà nước; mặt khác giúp cho cơ quan THADS giải quyết việc THADS,
giảm thiểu việc thi hành án tồn đọng.
1.1.2. Vai trò của ủy thác thi hành án dân sự
- Ủy thác THADS bảo đảm thực thi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN.
Trong hoạt động Nhà nước, công tác THADS nói chung và ủy thác THADS
nói riêng, có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua hoạt động THADS, những phán
quyết của TA nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước được trở thành

12


hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết
thúc khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành kịp
thời và đầy đủ. Ủy thác THADS có vai trò bảo đảm các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội và công dân.
Nếu công tác ủy thác THADS không được quan tâm đầy đủ và không có hiệu
quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử; trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem
thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm. Ủy thác THADS đạt
hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật,
góp phần lập lại kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN.
- Ủy thác THADS góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử
Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình bảo
vệ quyền lợi của đương sự. Ở giai đoạn này, TA mới chỉ giải quyết nội dung vụ án,

xác định được quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Phán quyết của TA có trở thành
hiện thực hay không tuỳ thuộc vào quá trình thực thi nó trong cuộc sống. Thông qua
giai đoạn THADS, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mới có
hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Với ý nghĩa đó, Ủy thác THADS
là một hoạt động không thể thiếu được của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự. Thông qua THADS, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được bảo đảm. Mặt
khác, ủy thác THADS còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán
quyết của TA, phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử.
Thông qua hoạt động THADS, các thẩm phán TAND có thể rút ra cho mình những
bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử.
- Ủy thác THADS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
Đặc thù của ủy thác THADS là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát
huy trách nhiệm của CHV, Cơ quan THADS và sự chỉ đạo sát sao cụ thể của chính

13


quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan tổ chức có liên quan, sự đồng tình
của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng
đồng trong hoạt động ủy thác THADS. THADS không chỉ là hoạt động nghiệp vụ
riêng của cơ quan THADS, CHV mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua
các quy định của pháp luật ủy thác THADS và áp dụng trong việc xử lý các hành vi
chống đối, cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS, mọi người
càng thấy được thái độ cụ thể của pháp luật đối với những người cố ý vi phạm từ đó
nhận thức pháp luật được nâng lên, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng cao, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân
vào tính nghiêm minh của pháp luật và sức mạnh của Nhà nước ngày càng được
củng cố vững chắc.

- Ủy thác THADS nói chung, đặc biệt ủy thác THADS trong việc giải quyết
hồ sơ, xử lý tài sản thi hành án góp phần giúp thực thi bản án, quyết định của Tòa
án một cách đầy đủ.
Việc ủy thác THADS trong việc giải quyết hồ sơ, xử lý tài sản thi hành án là
rất quan trọng, nó giữ vai trò trọng tâm khi ủy thác thi hánh án, khi bản án, quyết
định tuyên người phải thi hành án có tài sản hay địa chỉ ở địa phương khác thì cần
phải xác định:
+ Về phần chủ động (khoản nộp Ngân sách Nhà nước) thì bộ phận thụ lý kiểm
tra, xem xét người phải thi hành án không có cư trú tại địa phương, có đủ cơ sở ủy
thác thì làm thủ tục ủy thác thẳng đến địa phương mà người phải thi hành án đang
cư trú.
+ Về phần theo đơn yêu cầu thi hành án (khoản người phải THA là cá nhân
hay tổ chức phải trả nợ cho người được THA) trường hợp nay bộ phận thụ lý phải
thụ lý đơn va ra quyết định THA phân công cho CHV thụ lý, khi CHV thụ lý xem
xét hồ sơ người phải thi hành án hiện đang cư trú hoặc tài sản đang ở địa phương
khác thi làm thủ tục ủy thác ngay cho cơ quan THA nơi người phải thi hành dang cư
trứ, có tài sản để tiếp tục thi hành án theo quy định, ngăn chặn việc người phải THA

14


tẩu tán tài sản hoặc trốn ra nước ngoài.
Về trường hợp người phải THA có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau thì
trước khi ủy thác, cơ quan THA đang thi hành phải thi hành hết tài sản của người
phải THA rồi sau đó mới ủy thác đến địa phương người phải THA có tài sản nhiều
nhất, có giá trị lớn nhất để tiếp tục thi hành (khi thi hành thì phải ngăn chặn tất cả
các tài sản của người phải THA ở nhiều địa phương khác, tránh việc người phải
THA tẩu tán tài sản dẫn đến việc thi hành án găp khó khăn làm ảnh hưởng đến
quyền lợi cho người được THA). Việc ủy thác thi hành án kịp thời, đúng quy định
pháp luật, đúng nội dung của bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình tổ chức

THA là rất quan trọng, giữ vai trò trọng tâm khi thực hiện ủy thác THADS, đảm
bảo góp phần thực thi bản án, quyết định của Tòa án một cách đầy đủ.
Tóm lại, ủy thác THADS có vai trò rất quan trọng trong hoạt động THADS
góp phần bảo đảm thi hành kịp thời, đầy đủ nội dung phần quyết định của bản án,
quyết định được thi hành theo thủ tục THADS, bảo đảm thực thi quyền, nghĩa vụ
của các đương sự trong THADS. Mặt khác, ủy thác THADS còn giúp cho cơ quan
THADS giải quyết việc THADS, giảm thiểu việc thi hành án tồn đọng...
1.2. Khái quát về pháp luật ủy thác thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự
Pháp luật về ủy thác thi hành án là một chế định của pháp luật về THADS, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình ủy thác thi hành các bản án, quyết định về dân sự bao gồm các quy định
về quyền, nghĩa vụ của người được THA, người phải THA, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; các tổ chức, cá nhân có liên quan đến THA; quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý, tổ
chức việc ủy thác thi hành án; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của CHV và trình
tự, thủ tục ủy thác thi hành án.
Pháp luật về ủy thác THADS do là một bộ phận cấu thành của pháp luật
THADS nên cũng mang đặc điểm chung của pháp luật về ủy thác THADS. Bên
cạnh đó, pháp luật ủy thác thi hành án có một số đặc điểm riêng như sau:

15


+ Pháp luật về ủy thác THADS là một bộ phận cấu thành không thể tách rời
của hệ thống pháp luật về THADS (như Luật THADS, các nghị định, thông tư
hướng dẫn thi hành pháp lệnh). Đặc điểm này bắt nguồn từ đặc thù của ủy thác
THADS chính là một khâu, một hoạt động nhằm mục đích thi hành bản án, quyết
định dân sự đã có hiệu lực cảu Tòa án.
+ Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về ủy thác THADS khá hẹp, chỉ bao gồm

một số quy phạm pháp luật nằm trong hệ thống pháp luật THADS, nhưng có đặc
điểm riêng là phản ánh tính đặc thù của ủy thác THADS, vừa có những quy phạm
mang tính hành chính, vừa có những quy phạm mang tính tố tụng. Nhóm quy phạm
pháp luật mang tính chất hành chính thể hiện chủ yếu trong việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phối hợp CQTHA ủy thác và cơ quan THADS nhận
ủy thác; nhiệm vụ, quyền hạn của CHV, cán bộ trong các CQTHA... Nhóm quy
phạm pháp luật mang tính chất tố tụng chủ yếu thể hiện trong các quy định về thẩm
quyền; trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án...
+ Đối tượng điều chỉnh của pháp luật ủy thác THADS là quá trình ủy thác và
nhận ủy thác thực hiện việc THADS
Pháp luật ủy thác THADS quy định mối quan hệ giữa CQTHA là bên ủy thác
và cơ quan nhận ủy thác trong những trường hợp nhất định, quy định về căn cứ,
điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục ủy thác thi hành các bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật của tòa án, làm cho chúng kịp thời được thực thi
trên thực tế một cách hiệu quả nhất. Sự vi phạm các căn cứ, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục ủy thác THADS có thể dẫn đến hậu quả không khắc phục được, gây thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân.
+ Pháp luật ủy thác THADS có mối quan hệ mật thiết mang tính nhân quả với
pháp luật THADS, pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung khác, ví dụ các quy định
về thời hạn cấp bản án, quyết định có hiệu lực của toà án, kháng nghị, xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm... đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động THA; hoặc các quy
định về đăng ký tài sản, giữ bí mật tài khoản, đăng ký giao dịch có bảo đảm... đều
tác động đến hiệu quả của việc ủy thác THADS. Đồng thời đến lượt mình, các quy

16


định của pháp luật ủy thác THADS cũng tác động ngược trở lại đối với pháp luật
THADS; pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung khác.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự

Nội dung của pháp luật về ủy thác THADS là tổng thể các quy phạm pháp luật
bao gồm đạo luật; các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật liên
quan. Nó điều chỉnh trình tự, thủ tục ủy thác THADS. Pháp luật ủy thác THADS luôn
xoay chuyển, vận động cho phù hợp với các đặc điểm, yêu cầu của nền kinh tế, của
hoạt động tư pháp ở mỗi quốc gia. Trong thời gian qua, các văn bản pháp luật này
bước đầu tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho CQTHA thực hiện ủy thác THADS . Cụ
thể là:
- Luật THADS năm 2014 gồm các điều: Điều 55, 56, 57 và khoản 2 Điều 130;
- Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS: Điều 16, 34, 35;
- Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 62/2015/NĐ-CP về hướng dẫn Luật thi hành án sửa đổi, bổ sung năm
2014.
- Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong
THADS;
- Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016
của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 hướng dẫn Chế độ báo cáo
thống kê THADS được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 08/TT-BTP
ngày 26/6/2015 của Bộ Tư pháp;
- Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2006 của Bộ Tài chính quy định
mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí THADS: Khoản 6 Điều 5;
- “Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ quan THADS” ban hành kèm
theo Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22/02/2017 của Tổng cục trưởng
Tổng cục THADS;

17



- Công văn số 3089/BTP-TCTHADS ngày 09/9/2016 của Bộ Tư pháp “về việc
thi hành quyết định của Tòa án liên quan đến giải quyết phá sản”.
Những văn bản pháp luật về ủy thác THADS nêu trên ghi nhận những nội
dung cơ bản như: Căn cứ THADS; các trường hợp ủy thác THADS; thẩm quyền ủy
thác thi hành án; thủ tục ủy thác thi hành án, thủ tục nhận ủy thác. Như vậy, pháp
luật về ủy thác THADS đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong công tác thi hành án
nói chung và ủy thác THADS nói riêng, góp phần xác lập cơ chế thi hành án một
cách có hiệu quả cũng như bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS, đáp
ứng được phần lớn yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng thực trạng hệ thống pháp luật về ủy
thác THADS và pháp luật về THADS ở nước ta vẫn còn một số thiếu sót, bất cập,
văn bản quy phạm pháp luật không phải ít nhưng thiếu thống nhất, một số văn bản
chồng chéo nhau làm cho thực tiễn áp dụng pháp luật vào thi hành án gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc, nhiều lúc không biết áp dụng văn bản nào để giải quyết và việc áp
dụng pháp luật để thi hành án giữa các CQTHA và giữa các địa phương thiếu thống
nhất. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về ủy thác THADS cho phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước là việc làm vô cùng cần thiết và ý nghĩa trong
giai đoạn hiện nay.
1.2.3. Ý nghĩa pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự
Ủy thác THADS là một khâu rất quan trọng trong hoạt động THADS. Do vậy,
pháp luật về ủy thác THADS cũng có một vai trò, ý nghĩa quan trọng.
- Pháp luật Ủy thác THADS tạo ra hành lang pháp lý bảo đảm cho
CQTHADS, CHV thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
Thông qua các quy định cụ thể, chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quá trình THADS, pháp luật Ủy thác THADS tạo ra hành lang pháp lý bảo
đảm cho CQTHADS, CHV thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, các tổ
chức, cá nhân liên quan thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định làm
cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thực thi trên
thực tế.


18


- Pháp luật về uỷ thác THADS góp phần giải quyết khó khăn trong công tác
thi hành án, bởi trong thực tế, việc một cá nhân đăng ký hộ khẩu một nơi nhưng
làm việc hay cư trú ở nơi khác, có nhiều tài sản ở nhiều địa phương khác nhau là
hiện tượng khá phổ biến trong xã hội, trong khi các cơ quan THADS được tổ chức
thực hiện, chức năng theo địa bàn lãnh thổ. Để khắc phục thực tế này, quy định về
cơ chế uỷ thác đã giải quyết khó khăn trên cho hoạt động thi hành án và để đảm bảo
quyền, nghĩa vụ cá nhân, tổ chức được thực hiện bình đẳng trước pháp luật thì cơ
chế uỷ thác thi hành án đặt ra là yêu cầu khách quan và tất yếu.
- Pháp luật về ủy thác THADS xác định căn cứ để ủy thác THADS
Căn cứ ủy thác THADS là cơ sở để xác định điều kiện ủy thác đến cơ quan
THADS khác, nơi người phải THA có điều kiện thi hành án (nơi có tài sản, nơi cư
trú, nơi tạm trú) để thi hành án. Căn cứ quan trọng để ủy thác THADS là khi phát
hiện tài sản của người phải THA ở nơi khác để cơ quan THADS nơi khác xử lý,
nhằm đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa được thi hành một cách nghiêm chỉnh,
nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm được tiền bạc, thời gian đi lại.
- Pháp luật về uỷ thác THADS xác định thẩm quyền ủy thác THADS
Pháp luật về uỷ thác THADS quy định thẩm quyền của cơ quan THADS cấp
tỉnh, thẩm quyền của cơ quan THADS cấp huyện và thẩm quyền của cơ quan thi
hành án cấp quân khu để việc ủy thác THADS được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật nhằm tránh sự nhầm lẫn, chồng chéo hoặc đùn đẩy lẫn nhau khi thực
hiện ủy thác THADS và khi các cơ quan THADS có căn cứ để ủy thác THADS .
- Pháp luật về ủy thác THADS xác định trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án
Thủ tục ủy thác thi hành án được quy định đối với cơ quan THADS trước khi
ủy thác THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên trên địa
bàn có liên quan đến ủy thác rồi mới ủy thác THADS đến cơ quan THADS khác
tiếp tục thực hiện thi hành án đối với người phải thi hành án có tài sản tại đại
phương, mặt khác cơ quan THADS nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy

thác cho cơ quan THADS đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án
theo quy định của Luật THADS hiện hành và trong thời hạn nhất định, Thủ trưởng

19


cơ quan THADS ra quyết thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan
THADS đã nhận ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
- Pháp luật về ủy thác THADS là căn cứ để bảo vệ quyền lợi của đương sự
trong THADS
Thông qua pháp luật về ủy thác THADS , đương sự biết được việc hồ sơ của
họ khi cơ quan THADS đã thực hiện xong tài sản tại địa phương nhưng người phải
THA vẫn còn nợ thì cơ quan THADS sẽ ủy thác tới cơ quan THADS nơi khác khi
người phải THA có điều kiện THA ở đó để các bên đương sự có căn cứ thỏa thuận
thi hành án, thỏa thuận cách thức xử lý tài sản ở nơi nào trước.
Tóm tại, ủy thác THADS là một thủ tục rất quan trọng trong quá trình
THADS. Pháp luật THADS đã quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục ủy thác
THADS.
1.2.4. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về ủy thác
THADS tại Việt Nam
Qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, THADS Việt Nam đã góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Qua từng giai đoạn lịch
sử, tổ chức và hoạt động THADS Việt Nam ngày càng được củng cố, tăng
cường, pháp luật THADS ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
mà Nhà nước đặt ra. Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang
đòi hỏi cấp thiết phải cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nghiên cứu sự
hình thành và phát triển của pháp luật THADS và những quy định về ủy thác thi
hành án có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu thực chất cũng như vai trò, vị
trí công tác THADS trong hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan Tư pháp

Việt Nam qua các giai đoạn giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý
báu trong qúa trình cải cách tư pháp, cũng như trong việc nghiên cứu, xây dựng
và hoàn thiện pháp luật THADS nói chung, pháp luật ủy thác THADS nói riêng
ở nước ta theo phương hướng của các hội nghị Trung ương Đảng đã đề ra.
* Thời kỳ từ tháng 8 – 1945 đến năm 1989

20


×