Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Những lý luận chung về hiệu qủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.88 KB, 28 trang )

Những lý luận chung về hiệu qủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.1 Khái niệm, vai trò và sự cần thiết hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1.1.1 Khái niệm và vai trò hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Nhập khẩu là hình thức kinh doanh quốc tế giữa các thương nhân có trụ sở kinh
doanh tại các quốc gia khác nhau. Trong đó người mua (người nhập khẩu ) yêu cầu
người bán (người xuất khẩu) cung ứng cho mình một lượng hàng hóa nhất định như đã
thỏa thuận và hợp pháp. Người nhập khẩu sẽ phải trả cho người xuất khẩu một lượng
giá trị tương ứng với lượng hàng hóa đó.
Nhập khẩu là một trong hai nghiệp vụ cấu thành của nghiệp vụ ngoại thương, là
một mặt không thể tách rời của thương mại quốc tế, nhập khẩu tác động một cách trực
tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.Nhập khẩu để bổ sung các hàng
hóa mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu.Nhập
khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ
không có lợi bằng nhập khẩu.Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu
được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực sự phát triển ba yếu tố của nền kinh tế quốc dân,
trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động
và lao động,đóng vai trò quan trọng nhất.Với cách tác động đó ngoail thương được coi
như một phương pháp sản xuất gián tiếp.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được
thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, nhập khẩu là tiền đề, là điều kiện
cho quá trình tái sản xuất mở rộng, làm cho quá trình này liên tục và hiệu quả. Nhập
khẩu cho phép thúc đẩy khai thác tiềm năng, thế mạnh trong nước vào việc pháp triển
kinh tế. Thông qua nhập khẩu hàng hóa, tiêu dùng được kích thích, tiêu dùng trong
nước pháp triển kịp với tiến trình chung của nhân loại.
Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội được đẩy mạnh hơn, đời sống nhân dân được
cải thiện do cung cấp đầy đủ hàng hóa, dịch vụ tốt, nâng cao hiệu qủa sản xuất, tiêu
dùng.
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển
dịch kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo


một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng
của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Ở đây nhập
khẩu vừa thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu
vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện
ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho
việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nứớc nhập khẩu.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh do đó nền sản xuất trong nước muốn tồn tại và
pháp triển phải nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tạo ra sự
cạch tranh giữa hàng nội và hàng ngọai tức là đã tạo ra động lực buộc các nhà sản xuất
trong nứớc phải không ngừng vươn lên.
- Nhập khẩu làm xóa bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng,
chế độ tự cung tự cấp.Hơn thế nhập khẩu tranh thủ khai thác tiềm năng về hàng hóa,
vốn cộng nghệ của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp hoàn cảnh của nước
ta.
- Nhập khẩu làm tăng khả năng tiêu dùng, đa dạng hóa mặt hàng chủng loại, quy
cách, cho phép thỏa mãn tốt hơn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tăng cường sự chuyển
giao công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí
và thời gian, tạo ra sự phát triển đồng đều trong xã hội.
Thông qua việc phát triển kinh doanh nhập khẩu, chúng ta có điều kiện mở mang
dân trí, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới của nhân loại. Có như vậy chúng ta mới
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở phân công lao động quốc tế
và hợp tác quốc tế, đẩy mạnh sự kết hợp giữa nước ta với cuộc sống văn minh nhân
loại, nhằm tạo điều kiện khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước, thích ứng
với xu hướng khách quan toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới một cách chủ động và có
lợi.
Đối với nước ta là một nước đang phát triển thì vai trò nhập khẩu lại hết sức
quan trọng đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO)
tháng 11 năm 2006. WTO là một tổ chức thương mại thế giới của tất cả các nước trên

thế giới, thực hiện ba mục tiêu cụ thể sau: Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa
và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi
truờng; thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với các nguyên tắc của Công pháp quốc tế; Nâng cao mức sống, tạo
công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn
lao động tối thiểu được tôn trọng. Việt Nam gia nhập WTO là một thuận lợi lớn cho các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp hoat động kinh doanh xuất nhập khẩu nói
riêng.
Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động nhập khẩu Đảng và Nhà nước
ta đã đưa ra những chính sách nhập khẩu như: Nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho
phát triển sản xuất hang xuất khẩu, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản
xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa
xỉ. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất máy móc tiên tiến hiện đại, đổi mới
công nghệ, có như vậy mới tạo cơ sở để tận dụng nguồn lao động dư thừa trong nước,
nâng cao trình độ kỹ thuật của người lao động. Mặt khác hàng hoá được sản xuất từ
máy móc thiết bị nhập khẩu có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn. Nhập khẩu là cầu
nối giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước với thế giới. Nó đem đến cho chúng ta những
thành tựu của nền văn minh hiện đại mà chúng ta chưa có khả năng nghiên cứu và sản
xuất. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ cần thiết cho nền
kinh tế có thể đem đến cho chúng ta cơ hội phát triển những nghành tiềm năng, là động
lực ban đầu để nâng cao xuất khẩu hàng hoá với chất lượng cao, mẫu mã phong phú.
1.1.2 Sự cần thiết hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Thương mại quốc tế coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển kinh tế
trong nước trên cơ sơ lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn
hóa quốc tế. Vậy thương mại quốc tế là gì?
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước thông
qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa, dịch vụ là một
hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ riêng biệt của các quốc gia.

Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý nghĩa sống còn đối với các nước tham
gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn và
chủng loại phong phú hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn khả
năng sản xuất trong điều kiện đóng cửa nền kinh tế của nước đó. Hay có thể nói cách
khác là thương mại quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước.Bên cạnh
đó nó cũng cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu các nghành nghề kinh tế, cơ cấu vật
chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản xuất của mình hơn. Hiện nay
trong điều kiện quốc tế hóa đời sống thế giới trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết và khi
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một trình độ cho phép có thể phân
chia các công đoặn của quá trình sản xuất thành các khâu khác nhau và phân bổ ở
những vị trí cách xa nhau thì không một nước nào có thể đóng cửa nền kinh tế, tự mình
thực hiện một chính sách biệt lập tách khỏi mối quan hệ cùng có lợi với thế giới bên
ngoài và đồng thời phải chịu những ràng buộc nhất định.
Trước đây, thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bằng các hiệp định
thương mại song phương giữa hai nước. Trước thế kỷ 19, khi chủ nghĩa trọng thương
còn chiếm ưu thế, đa số các nước áp đặt những mức thuế cao cùng nhiều hạn chế
thương mại khác đối với hàng nhập khẩu. Kể từ thế kỷ 19, tư tưởng về thương mại tự
do dần dần nổi lên giữ vai trò chủ đạo ở các nước phương Tây, đặc biệt là ở Anh. Trong
những năm kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các hiệp định thương mại đa
phương như GATT và WTO đã cố gắng xây dựng một cơ chế thương mại quốc tế có sự
thống nhất điều chỉnh trên phạm vi toàn cầu.
Hướng tới thương mại tự do, các hiệp định thương mại không chỉ đàm phán việc
giảm thuế mà còn đàm phán cả các biện pháp phi thuế như hạn chế số lượng nhập khẩu,
cấp phép nhập khẩu, vệ sinh kiểm dịch, đầu tư nước ngoài, mua sắm chính phủ và tạo
thuận lợi cho thương mại bằng cách đơn giản hóa các thủ tục hải quan. Tóm lại thương
mại quốc tế là một tất yếu khách quan, nó tạo ra hiệu quả cao nhất trong nền sản xuất
của mỗi quốc gia cũng như của toàn thế giới. Trong đó nhập khẩu là một hoạt động
quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động trực tiếp và quyết định đến sán
xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến, hiện đại cho sản xuất và tiêu dùng trong nước những hàng hóa không sản xuất

được, hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu trong nước. Nhận thức được điều đó,
Đảng và Nhà nước ta đã có những hướng đi mới trong đường lối chính sách của mình.
Hiện nay chúng ta đã và đang tạo mọi điều kiện để mở rộng giao lưu kinh tế với nước
ngoài, mở rộng để thu hút mọi nguồn vốn đầu tư. Trong Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ 10 đề ra là “ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử
dụng tốt mọi nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; phát triển
văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở
mang quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng
để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế nhằm mục
đích đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định nâng
cao mức sống của nhân dân. Do vậy, Xuất nhập khẩu là họat động kinh tế đối ngoại dễ
đem lại cho hiệu quả đột biến rất cao, hoặc có thể gây ra thiệt hại vì nó phải đối đầu với
một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể chủ thể tham gia trong nước tham
gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Vì vậy chúng ta cần nâng cao hiệu quả
kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng.
1.2 Nội dung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, nó có
những nét đặc trưng riêng, phức tạp hơn rất nhiều so với trao đổi hàng trong nước. Cho
nên để kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả cao nhất thiết cần phải nghiên cứu và thực
hiện tốt các khâu nghiệp vụ từ nghiên cứu tiếp cận thị trường; xây dựng phương án
nhập khẩu cũng như tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng
hóa. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và đặt
trong mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.
1.2.1 Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, lựa chọn mặt hàng và đối tác kinh
doanh.
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng
hóa, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Ta có thể hiểu thị

trường theo hai góc độ: thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hóa – tiền tệ.
Theo cách khác, thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và cung có
khả năng đáp ứng.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới có rất nhiều ý nghĩa quan trong việc
phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác xuất nhập
khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững biến
động của tình hình thị trường và giá cả hàng hóa trên thế giới là những tiền đề quan
trọng đảm bảo cho các tổ chức xuất nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có
hiệu quả cao nhất.
Đối với các tổ chức xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
phải trả lời được các câu hỏi sau: xuất nhập khẩu cái gì? Dung lượng của thị trường
hàng hóa đó như thế nào? Thương nhân (bạn hàng) trong giao dịch là ai? Với phương
thức giao dịch như thế nào?
+ Nhận biết mặt hàng nhập khẩu: Đây là nhân tố đầu tiên, có ý nghĩa rất quan
trọng, giúp cho việc nhập khẩu đúng chủng loại mà thị trường trong nước đang cần,
kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc nhận biết
mặt hàng nhập khẩu trước hết phải dựa vào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng về quy cách
và chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu, tập quán của từng vùng, từng lĩnh
vực sản xuất. Về mặt hàng nhập phải hiểu rõ giá trị, công dụng, các đặc tính của nó,
quy cách phẩm chất, mẫu mã. Nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hóa, các mức giá
trong từng điều kiện mua bán, phẩm chất hàng hóa, khả năng sản xuất và nguồn cung
cấp chủ yếu của các công ty cạch tranh, các họat động dịch vụ phục vụ cho khách hàng
như bảo hành, cung cấp phụ tùng,…Để lựa chọn được mặt hàng nhập khẩu, một số
nhân tố phải tính toán đến đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Trong nhập khẩu thì
tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vi ngoại
tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái thì lựa chọn
mặt hàng nhập khẩu là có hiệu quả. Người nghiên cứu thị trường cũng đóng vai trò
quan tròng, nếu có kinh nghiệm có thể dự đoán được xu hướng biến động giá cả thị
trường trong nước cũng như nước ngoài, lựa chọn đúng mặt hàng nhập khẩu, khả năng
thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.

+ Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên một phạm vi
thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ). Nghiên cứu
dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, kể cả lượng dự
trữ, xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng. Cùng với việc xác định, nắm
bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm: việc xem xét
đặc điểm, tính chất, khả năng của sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tùy theo diễn biến của tình
hình, do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các
nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có thể chia làm 3 loại:
Loại 1: Là các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu
kỳ. Đó là sự khủng hoảng có tính chu kỳ của kinh tế TBCN và tính chất thời vụ trong
sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Sự vận động của tình hình kinh tế TBCN là
nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tới tất cả các thị trường hàng hóa trên thế giới. Sự ảnh
hưởng này có thể hiện trên phạm vi thế giới, khu vực, phải lưu ý phân tích sự biến động
đó trong các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường. Nhân tố thời vụ của sản xuất cũng
có ảnh hưởng đến thị trường hàng hóa. Do đặc điểm của sản xuất, lưu thông các loại
hàng khác nhau nên sự tác động của nhân tố này rất đa dạng với các mức độ khác nhau.
Loại 2: Là nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của Nhà
nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, khả năng
sản xuất hàng thay thế.
Loại 3: là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như
hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai,
bão lũ và hạn hán, động đất ,…,các yếu tố về chính trị xã hội như đình công,…
Đây là những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của lượng thị trường. Khi
nghiên cứu phải thấy rõ nhân tố nào có ảnh hưởng quyết định đến xu hướng vận động
của thị trường trong từng giai đoạn. Chỉ như vậy thì hoạt động thương mại quốc tế nói
chung cũng như họat động kinh doanh nhập khẩu nói riêng mới đem lại hiệu quả cao
nhất.
+ Lựa chọn đối tác giao dịch:

Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người
có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến cung cấp hàng
hóa. Xét về tính chất và mục đích hoạt động, khách hàng trong TMQT chia làm 3 loại:
Các hãng hay công ty, các liên đoàn kinh doanh, các cơ quan đại diện của Chính phủ.
Phần lớn các nghiệp vụ mua bán trong TMQT do các hãng hay công ty thực hiện. Khi
tìm hiểu về đơn vị hay công ty bên đối tác kinh doanh ta cần xem xét trên các khía cạnh
sau: khả năng tài chính, khả năng chuyên môn về ngành hàng kinh doanh, uy tín trong
kinh doanh của công ty,…
Về lựa chọn thương nhân - người xuất nhập khẩu để giao dịch nên chọn người
làm trực tiếp trực tiếp, hạn chế các họat động trung gian. Song trong một số trường hợp
như do đặc tính kinh doanh hay truyền thống kinh doanh thì sử dụng trung gian có
nhiều ưu thế nắm bắt các thông tin về hàng hóa, thị trường,…
+ Nghiên cứu giá cả hàng hóa nhập khẩu:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, đồng thời biểu hiện một cách
tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế quốc dân như mối
quan hệ cung và cầu về hàng hóa, tích luỹ - tiêu dùng, công nghiệp – nông nghịêp. Giá
cả luôn luôn gắn liền với thị trường, là một yếu tố cấu thành của thị trường.
Giá cả có thể bao gồm các yếu tố: gía trị hàng hóa đơn thuần, bao bì, chi phí vận
chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tùy theo từng bước giao dịch và thỏa
thuận của các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả bao gồm nghiên cứu mức gía từng mặt
hàng tại từng thời điểm, các loại giá trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị
trường và các nhân tố ảnh hưởng. Giá cả quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại
hàng hóa nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó phải là giá cả những giao dịch
thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán
bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Xu hướng vận động của giá cả các loại hàng trên thế
giới rất phức tạp. Trong cùng một thời gian, gía cả hàng hóa có thể biến động theo
những xu hướng trái ngược nhau với những mức độ ít nhiều khác nhau. Hơn nữa, thị
trường thế giới có phạm vi rộng với nhiều vùng, nhiều khu vực khác nhau nên việc nắm
bắt tình hình và xu hướng biến động của giá cả thị trường thế giới là hết sức khó khăn

đòi hỏi phải có nhiều thông tin. Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị
trường thế giới có nhiều và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo mục
đích nghiên cứu. Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường và thế
giới:
- Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế là nhân tố cơ
bản ảnh hưởng tới sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng.
- Nhân tố lũng đoạn của các công ty siêu quốc gia. Đây là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới sự hình thành và biến động của giá cả trong giai đoạn hiện nay. Lũng
đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá với cùng một loại hàng hoá thậm chí trên cùng một
thì trường. Thị trường thế giới có giá lũng đoạn cao và giá lũng đoạn thấp.
- Nhân tố cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác nhau tuỳ
thuộc vào cuộc cạnh tranh là người mua hay người bán. Cạnh tranh giữa những người
bán, Cạnh tranh giữa những người mua, Cạnh tranh giữa người mua và người bán
- Nhân tố cung cầu: là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của giá
cả hàng hoá. Nếu cung vượt quá cầu thì sẽ thuc đẩy xu hướng giảm giá và ngược lại.
- Nhân tố lạm phát gía cả hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của
hàng hoá mà còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ. Trên thị trường thế giới, giá cả được
biểu hiện bằng đồng tiền của những nước có vị trí quan trọng trong mậu dịch quốc tế.
- Nhân tố thời vụ là nhân tố luôn tác động tới xu hướng biến động giá, nhất là
những loại hàng hoá có tính chất sản xuất hoặc tiêu dùng mang tính thời vụ.
Như vậy khi định giá cho một mặt hàng nhập khẩu, chúng ta phải khảo sát giá
xuất khẩu mặt hàng đó ở các nước khác nhau, cước vận tải, bảo hiểm,… và với mức giá
đó cộng với các chi phí có liên quan liệu có phù hợp thị trường trong nước hay không.
1.2.2 Tiến hành giao dịch, đàm phán, ký hợp đồng nhập khẩu hàng hoá.
Hợp đồng ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận
của bên mua và bên bán. Giữa hai nước khác nhau, trong đó quy định bên bán phải
cung cấp hàng hoá và chuyển giao các chứng từ có liên quan đến hàng hoá và quyền sở
hữu hàng hoá cho bên mua. Và bên mua phải thanh toán tiền hàng.
Yêu cầu của hợp đồng ngoại thương: Hợp đồng phải dựa trên cơ sở pháp lý
vững chắc: Luật của nước người mua, nước người bán, các luật và các tập quán có liên

quan đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế như inconterms, công ước viên năm
1980, luật thương mại của Việt Nam năm 2005 … Chủ thể của hợp động ngoại thương
phải được xây dựng trên cơ sở pháp lý vững chắc: là thương nhân hợp pháp, những
người tham gia ký kết hợp đồng phải là những người đại diện hợp pháp cho mỗi bên.
Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, được thể hiện trên hai vấn đề: Nội dung chủ yếu
của hợp đồng phải đầy đủ, tối thiểu phải gồm những nội dung sau, tên hàng, số lượng,
quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận
hàng.
Giao dịch là sự tiếp sức, quan hệ giữa các cá nhân để trao đổi thông tin hoặc thoả
mãn một nhu cầu nào đó. Giao dịch kinh doanh là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các chủ thể
kinh doanh nhằm trao đổi các thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả, kinh nghiệm
kinh doanh… Mục đích của giao dịch kinh doanh cũng hướng vào mục đích hiệu quả,
mục đích lợi nhuận.
Đàm phán kinh doanh là sự bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng
nhau nhất chí hay thoả thuận giải quyết những vấn đề về lợi ích có liên quan đến các
bên kinh doanh. Như vậy giao dịch là để thiết lập các quan hệ còn đám phán là để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến các bên. Bản chất của đàm phán kinh doanh: là đàm
phán kinh doanh lấy lợi ích kinh tế đạt được là mục đích cơ bản, giá cả là hạt nhân của
đàm phán, đàm phán kinh doanh chứa đựng những xung đột của lợi ích, đàm phán
không phải là sự lựa chọn đơn nhất “hợp tác” và “xung đột” mà là mâu thuẫn thống
nhất giữa “hợp tác” và “xung đột”, đàm phán không phải là thoả mãn lợi ích của mình
một cách không hạn chế mà là có giới hạn lợi ích nhất định.
Trong thương mại quốc tế có 3 hình thức đàm phán:
- Đàm phán qua thư tín dụng: là hình thức mà qua thư từ gửi bằng bưu điện,
telex, fax hoặc email, người mua và người bán đàm phán và thoả thuận với nhau những
điều khoản cần thiết của một hợp đồng.
- Đàm phán qua điện thoại: là hình thức qua đường dây điện thoại quốc tế, người
mua và người bán thực hiện giao dịch đàm phán với nhau để đi đến ký kết hợp đồng
ngoại thương.
- Phương pháp gặp gỡ trực tiếp để đàm phán: là hình thức đàm phán có ưu điểm

so với cả hai cách thức đàm phán qua thư từ và điện thoại.
Quy trình thực hiện HĐNT:
Thực tế có nhiều công việc cần làm để thực hiện một cuộc đàm phán HĐNT.
Tuy nhiên ta chỉ nghiên cứu hai phương thức đàm phán trực tiếp và phương thức giao
dịch bằng thư từ.
+ Với phương thức đàm phán trực tiếp:
a, Giai đoạn chuẩn bị đàm phán: trong giai đoạn này thông thường các nhà kinh
doanh cần thực hiện 5 công việc cụ thể như sau: nghiên cứu thông tin, lập phương án
đàm phán, tổ chức đoàn đàm phán, chuẩn bị thời gian, địa điểm.
b, Tiến hành đàm phán thử: sau khi đã có sự chuẩn bị nên gặp gỡ hoặc trao đổi
qua thư từ, điện thoại để thử đàm phán nhằm thăm dò thái độ, quan điểm của bên đối
tác, có dịp hiểu thêm về đối tác thì khả năng trong đàm phán sẽ càng chắc chắn hơn.
c, Thực hiện tiếp xúc đàm phán tạo không khí hữu nghị và tin cậy sẽ giúp cho
cuộc đàm phán diễn ra thuận lợi và dễ dàng thành công. Muốn vậy nhà kinh doanh cần
phải tôn trọng phong tục tập quán thói quen sở thích của bên đối tác, tuyệt đối tránh
không bao giờ tranh cãi đễn những vấn đề liên quan đến chính trị, tôn giáo, đạo đức,
chủng tộc trong khi đàm phán. Muốn vậy nhà kinh doanh cần phải nhạy bén khi đánh
giá tình hình diễn biến của cuộc đàm phán để quyết định nên ở mức độ nào là vừa phải,
vận dụng những khả năng thương lượng, thuyết phục mà mình đã tích luỹ được trong
quá trình công tác, phải biết hết sức mình để đạt được những điều khoản trong hợp
đông mà mình đã đề ra.
d, Những công việc cần làm sau khi đàm phán: nên có một cuộc hợp lại trong
đoàn phía mình sau khi đàm phán để đánh giá việc thực hiện phương án đàm phán và
kết quả ra sao, đúc kết lại những gì đã thoả thuận được, rút kinh nghiệm cho những lần
đàm phán sau, chuẩn bị soạn thảo hợp đồng ngoại thương.
e, Ký kết hợp đồng ngoại thương: Một số chú ý: tránh quy đinh dùng tập quán
thương mại địa phương để giải quyết các tranh chấp xảy ra sau này, tránh đưa vào hợp
đồng những điều khoản trái với quy luật hiện hành của nước người bán, người mua…
tránh dùng những từ ngữ mập mờ có thể suy diễn bằng nhiều cách để diễn đạt nội dung
của hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng hợp đồng là ngôn ngữ cả hai bên thông thạo, nếu hợp

đồng do bên đối tác soạn thảo phải kiển tra kỹ càng trước khi ký kết. Những người
tham gia ký kết hợp đồng phải là người đại diện hợp pháp cho mỗi bên, người khác ký
phải có giấy uỷ quyền hợp lệ.

×