Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SGD NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.99 KB, 22 trang )

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SGD NGÂN
HÀNG TMCP HÀNG HẢI TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Đánh giá về chất lượng cơng tác thẩm định nói chung và thẩm định tài
chính dự án vay vốn nói riêng tại SGD.
Nhìn chung trong những năm vừa qua công tác thẩm định dự án tại SGD
đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, điều này được thể hiện rõ ràng qua sự tăng lên của
doanh số tín dụng đầu tư và khơng có tình trạng nợ xấu trong 2 năm 2006,
2007 ; tuy dư nợ tăng lên nhưng vẫn đảm bảo các khoản vay an tồn, có hiệu
quả, số dự án thẩm định, số dự án cho vay, doanh số thu lãi hay lợi nhuận đều
tăng lên, tín dụng trong lĩnh vực sản xuất ln chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu
tín dụng tại SGD.
Bảng 2.1: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI SGD GIAI 2006 - 2008

Năm/ chỉ tiêu
Số dự án xin vay vốn
Số dự án cho vay
Tổng dư nợ tín dụng

2006

2007

9/2008

28
23

45
41


42
39

147.385

399.226

531.853

+ Lĩnh vực sản xuất

82.352

215.384

342.815

+ Lĩnh vực TM – DV

65.033

183.842

189.038

Tỉ lệ nợ xấu
Doanh số giải ngân
Doanh số thu nợ
Doanh số thu lãi
Lợi nhuận


0%
289.688
129.727
7.054
21.539

0%
1.127.320
866.462
31.920
32.172

0,2%
1.271.320
1.143.651
83.981
41.533
Nguồn: phịng KHDN - SGD

Quy trình, nội dụng thẩm định ngày càng được cải tiến và hoàn thiện, bên
cạnh đó vẫn cịn những hạn chế cần được khắc phục, giải quyết nhất là đối với
nội dung thẩm định tài chính dự án, để đáp ứng yêu cầu phát triển của MSB nói
riêng và của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung trong giai đoạn hội nhập
quốc tế.


1. Kết quả đã đạt được.
1.1. Nội dung thẩm định tài chính
Trước đây khi đánh giá dự án thường chỉ quan tâm đến khía cạnh tài

chính mà khơng đánh giá về tình hình doanh nghiệp, từ đó dễ dẫn đến tình trạng
kéo dài thời gian đầu tư hay việc gặp khó khăn trong việc thu hồi khoản cho vay
vì khơng năm bắt được tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh hay tư cách,
năng lực quản lý của doanh nghiệp. Hơn nữa, phân tích khía cạnh tài chính lại
chỉ thường tập trung và một vài chỉ tiêu đơn giản như mức sinh lợi, nguồn trả nợ
và không quan tâm tới khái niệm giá trị thời gian của tiền.
Hiện nay, phương pháp thẩm định đã mang tính khoa hoc, có hệ thống và
theo một quy trình đầy đủ. Nội dung của thẩm định dự án được quy định rõ
trong Quy chế cho vay của MSB, theo đó kỹ thuật thẩm định đã hoàn thiện về
cả phương pháp luận và thực tiễn. Hệ thống chỉ tiêu bao trùm lên nhiều khía
cạnh dự án, từ các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính để phân tích tình hình doanh
nghiệp đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án như NPV, IRR, thời gian hoàn
vốn... và các nội dung, khoản mục trong các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, quan
tâm đến cơ cấu tổng vốn đầu tư, thời điểm rót vốn để đảm bảo sử dụng vốn hiệu
quả cho cả hai bên.
Khi thẩm tra tổng dự tốn vốn đầu tư, tại SGD ln chú ý kiểm tra tính
chính xác và đầy đủ của các chỉ tiêu, thơng số chi phí của dự án như chi phí
chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư, chi phí sản xuất ban đầu nhất là vốn
lưu động, chi phí lãi vay trong thời gian thực hiện đầu tư; sau đó là khâu thẩm
tra thiết kế, kiểm tra khối lượng các công việc và thông tin về giá theo đơn giá
ban hành hoặc theo đơn giá thị trường tùy vào từng loại công việc. Bên cạnh đó
việc đảm bảo tính an tồn của nguồn vốn cũng đã được chú trọng hơn thông qua
các cam kết, ràng buộc về thời gian, khối lượng vốn rót theo tiến độ dự án.
Việc quyết định lựa chọn tỷ suất chiết khấu được dựa trên các phân tích
rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và việc lựa chọn cơ cấu vốn.
Khơng những thế, phương pháp tính, cơng cụ phân tích cũng ngày được


nâng cao như vấn đề giá trị thời gian của tiền, lãi suất chiết khấu, phân tích độ
nhạy một chiều, hai chiều đặc biệt là việc chọn yếu tố biến động, mức độ biến

động ngày càng sát với thực tế của dự án.
Thẩm định trước khi cho vay được tiến hành nhiều nội dung của doanh
nghiệp và của dự án để đánh giá chính xác nhất tính khả thi của dự án. Ngồi ra
việc theo dõi, kiểm sốt trong thời gian cho vay và sau khi cho vay cũng đã
được quan tâm hơn thơng qua việc kiểm tra q trình thực hiện dự án, kiểm tra
tình hình hoạt động của doanh nghiệp theo định kỳ, điều này đã góp phần làm
giảm khả năng phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu.
1.2. Đội ngũ cán bộ
Cán bộ tín dụng là nhân tố quyết định chất lượng của cơng tác thẩm định,
vì vậy nâng cao chun mơn nghiệp vụ cán bộ tín dụng là vấn đề ln được
phía SGD quan tâm. Đội ngũ cán bộ ở đây trẻ, có chun mơn, trình độ từ đại
học trở lên, có kiến thức tốt về kinh tế, kỹ thuật, hiểu biết thị trường. Bên cạnh
đó, các cán bộ tín dụng cịn được thường xun trau dồi kiến thức thơng qua các
khóa học ngắn hạn do ngân hàng MSB phối hợp tổ chức về quy trình, nội dung
thẩm đinh, quản lý rủi ro tín dụng, các quy chế, văn bản tín dụng mới... để nâng
cao năng lực phân tích, đánh giá dự án.
1.3. Cơng nghệ và thơng tin
Ngân hàng TMCP Hàng Hải cũng như SGD luôn chú trọng tới nâng cao
chất lượng trang thiết bị nhằm đáp ứng tốt nhất cho hoạt động của SGD. Hiện
nay, ngân hàng đã trang bị các máy tính hiện đại, đảm bảo mỗi người đều có
một máy có kết nối internet, cài đặt các chương trình phần mềm tính tốn phục
vụ cho cơng tác thẩm định, tìm kiếm thơng tin, liên lạc, lưu trữ hồ sơ được dễ
dàng hơn từ đó xây dựng kho dữ liệu chung để làm cơ sở so sánh, đánh giá các
dự án. Ngân hàng cũng đã xây dựng hệ thống đánh giá xếp loại doanh nghiệp
dựa trên các tiêu chí tài chính và phi tài chính thông qua phần mềm tự động, các
chỉ tiêu đánh giá được xây dựng khá chi tiết như việc chấm điểm theo phân chia
nguồn vốn, lao động, doanh thu thuần, ý thức thực hiện trách nhiệm đối với nhà


nước; chấm điểm theo quy mô, theo kết quả phân tích các chỉ tiêu tài chính.

Ngồi ra, Phịng Khách hàng Doanh nghiệp còn được trang bị cơ sở hạ tầng khá
đầy đủ, đảm bảo môi trường làm việc hiệu quả cho mọi người.
Cơng tác tìm kiếm thơng tin ngày càng được chú trọng, nguồn thơng tin
từ đó thu thập được ngày càng phong phú để giúp cho việc đánh giá dự án chính
xác hơn. Trước đây thơng tin chủ yếu do phía khách hàng cung cấp dựa trên các
báo cáo hoạt động kinh doanh, kết hợp với kiểm tra thực tế vì vậy độ tin cậy
khơng cao, thiếu chính xác. Cịn hiện nay, nguồn thơng tin đã được hỗ trợ nhiều
từ các tài liệu phân tích trong nước, ngồi nước, thông tin thị trường, các văn
bản luật và nhất là việc sử dụng thông tin qua Trung tâm thông tin tín dụng
Quốc gia CIC của Ngân Hàng Nhà Nước là một kênh thông tin đáng tin cậy,
cập nhật và đầy đủ về tình hình hoạt động, diễn biến dư nợ của khách hàng
1.4. Tổ chức điều hành
Công tác điều hành, quản lý quy trình thẩm định khá hiệu quả, với việc
xây dựng tương đối hồn chỉnh nội dung, quy trình này được quán triệt thực
hiện nghiêm túc tới mọi chi nhánh. Bên cạnh đó, cơng tác tái thẩm định, quản lý
rủi ro cũng được nâng cao, nhất là đối với các dự án có vốn lớn. Hàng năm, theo
định kỳ các dự án đều được tiến hành tái thẩm định để đánh giá dự án theo
những thông tin mới cập nhật, có ảnh hưởng trực tiếp tới dự án và khả năng thu
hồi khoản vay của ngân hàng.
2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân.
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cơng tác thẩm định tài chính dự
án tại SGD vẫn không phải tránh khỏi những thiếu sót dẫn đến hiệu quả hoạt
động tín dụng cịn chưa cao như việc nhiều dự án phải bổ sung vốn đầu tư, dãn
tiến độ, tỷ lệ nợ xấu tuy có giảm nhưng giá trị tuyệt đối không giảm... Những
hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và cả chủ quan.
2.1. Hạn chế trong q trình phân tích nội dung thẩm định tài chính dự án
Tuy quy trình, nội dung, hệ thống chỉ tiêu phân tích mới chỉ tương đối
hồn chỉnh, đơi khi việc thực hiện, tiến hành theo quy trình, hệ thống chỉ tiêu lại



khơng được thực hiện đầy đủ, mang tính thủ tục, nhiều khi chấp nhận một cách
thụ động con số, chỉ tiêu do dự án đưa ra mà khơng có sự kiểm tra, phân tích tỉ
mỉ. Các nội dung tính tốn đều có liên quan đến việc ước tính doanh thu, chi phí
và từ đó làm cơ sở để tiến hành phân tích hiệu quả tài chính dự án, tuy nhiên
các khoản mục để ước tính doanh thu, chi phí lại chưa được thống nhất. Ví dụ
như việc thẩm định vốn lưu động ròng của dự án. Vốn lưu động ròng đây là một
phần vốn trung hạn thường bị chủ dự án bỏ qua và nhiều khi trong quá trình
thẩm định cũng khơng xét tới, hơn nữa nếu có xem xét thì lại chưa đúng tiêu
chuẩn, bởi thay vì tính vốn lưu động rịng lại tính vốn lưu động, vơ tình bỏ qua
phần tự tài trợ của nợ ngắn hạn trong q trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa
việc tính tốn trong nhiều dự án khơng có cơ sở để so sánh giá cả, chi phí, đặc
biệt ít khi xét tới sự biến động giá cả nên dòng tiền giữa các năm được thiết lập
như nhau và hầu hết các dự án đều có lãi ngay trong năm đầu tiên.
Thứ hai, đó là việc tính tốn chi phí cơ hội vào trong chi phí của dự án,
điều này hầu như ở mọi dự án đều bỏ qua, tuy chi phí cơ hội không phải là một
khoản thực chi nhưng việc tồn tại của nó thể hiện được chi phí chủ đầu tư đã hi
sinh để thực hiện dự án đã chọn, việc đưa chi phí cơ hội trong tính tốn chi phí
sẽ đảm bảo cho lợi ích nhỏ nhất của dự án sinh ra cũng bù đắp được kỳ vọng
đầu tư cho chủ đầu tư nếu thực hiện dự án khác. Tuy nhiên thực tế giá trị này
thường rất khó ước lượng hoặc nếu có ước lượng thì cũng khơng đảm đảo sự
chính xác.
Thứ ba là việc xác định lãi suất chiết khấu của dự án, trong các dự án đều
chấp nhận lãi suất cho vay chính là lãi suất chiết khấu mà không xem xét tới cơ
cấu vốn của dự án, thực chất lãi suất chiết khấu phải được ước tính bằng số
trung bình của chi phí sử dụng vốn của các bên; việc chấp nhận lãi suất ngân
hàng làm lãi suất chiết khấu là vơ tình coi rủi ro của ngân hàng cũng chính là rủi
ro của dự án.
Thứ tư đó là việc ít quan tâm thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án,
trong khi đó khía cạnh kỹ thuật sẽ quyết định công suất hoạt động, chi phí máy



móc thiết bị, chi phí tiêu hao ngun vật liệu, thời gian khấu hao, chi phí vận
hành... đây chính là các yếu tố cấu thành trực tiếp lên việc tính tốn, cân đối
dịng tiền dự án. Trong khi đó đối với hầu hết các dự án mới chỉ thụ động chấp
nhận các thông số kỹ thuật mà chủ đầu tư đưa ra chứ ít khi thẩm định lại như
thẩm định về công suất, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhất là giá cả đối
với những máy móc, thiết bị nhập khẩu, thẩm định chuyển giao cơng nghệ.
Ngồi những thiếu sót trên cịn phải kể tới sự thiếu sót trong việc thiết lập
hệ thống các chỉ tiêu định mức tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu hiệu quả tài chính
cho từng ngành, hiện nay để đánh giá các chỉ tiêu này mới chỉ dừng lại ở việc
ước lệ, chung chung đánh giá so sánh dựa trên kinh nghiệm là chủ yếu. Tuy đã
xây dựng phần mềm đánh giá xếp hạng doanh nghiệp nhưng nguồn số liệu
thông tin để chấm điểm lại là một vấn đề cần xem xét.
2.2. Hạn chế về đội ngũ cán bộ tín dụng và phân cơng cơng việc
Mặc dù rất chú trọng tới khâu tuyển chọn, đào tại cán bộ tín dụng nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Yêu cầu đặt ra của công tác thẩm định
dự án đối với một cán bộ tín dụng khơng chỉ dừng lại ở việc biết tính tốn các
hiệu quả tài chính dự án mà địi hỏi có một kiến thức tổng hợp về tất cả các khía
cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính của dự án, bên cạnh đó phải biết phân tích,
dự báo rủi ro, nắm bắt được những thay đổi của thị trường. Để có thể đáp ứng
được toàn bộ các yêu cầu trên thực tế là rất khó khăn vì vậy cần phải có sự tổ
chức, phối hợp tốt giữa các cán bộ tín dụng. Tuy nhiên hiện nay việc phân công
quản lý dự án theo ngành, lĩnh vực cho cán bộ tín dụng còn chưa rõ ràng, nhất là
khi đội ngũ cán bộ ở đây đa số rất trẻ, tuy có kiến thức chuyên môn nhưng kinh
nghiệm lại chưa đúc rút được nhiều thì hạn chế này càng cần phải được quan
tâm giải quyết.
2.3. Hạn chế của thông tin, công nghệ.
Mối quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, khối lượng thông tin liên quan
tới dự án cũng ngày càng tăng lên, để đánh giá tính khả thi của mỗi một dự án,
cơng tác thu thập thông tin càng trở nên quan trọng. Thông tin càng đầy đủ,



nguồn thơng tin càng đáng tin cậy thì việc phân tích càng trở nên dễ dàng và
chính xác. Tuy nhiên, nguồn thông tin do dự án cung cấp từ hồ sơ xin vay vốn,
từ luận chứng kinh tế - kỹ thuật và nhất là các bản báo cáo tài chính khơng phải
lúc nào cũng phản ánh chính xác tình trạng thị trường, tình hình hoạt động của
doanh nghiệp bởi bản thân công tác thu thập thông tin của các doanh nghiệp
đang cịn rất hạn chế, mang tính chất ước lượng, thủ tục; các chỉ tiêu trong báo
cáo tài chính thì thường khơng có sự so sánh với mức trung bình của ngành, hơn
nữa cịn phải nói đến tác động của chính sách kế tốn có thể điều chỉnh linh hoạt
để che giấu tình hình thực tế, có thể ví dụ như việc áp dụng các phương thức
khấu hao và phương pháp xác định tồn kho khác nhau sẽ dẫn đến chi phí khác
nhau. Doanh nghiệp có thể chọn khấu hao nhanh để tiết kiệm chi phí khấu hao
hay kéo dài thời gian khấu hao hoặc hạ thấp tỷ lệ khấu hao; phương pháp xác
định tồn kho khác nhau như FIFO (nhập trước xuất trước) hay LIFO (nhập sau
xuất trước).
Không những thế các thông tin này luôn luôn biến đổi, nhất là thơng tin
về doanh thu, chi phí; khi phân tích tín dụng các cán bộ tín dụng thường căn cứ
trên những số liệu cũ, nếu không xử lý các thông tin, không thu thập thêm các
thông tin từ thị trường và khơng có khả năng phân tích, dự báo rủi ro thì kết quả
thẩm định sẽ thiếu khách quan, khơng đáng tin cậy.
Việc áp dụng các phần mềm tính tốn trong phân tích hiệu quả tài chính
là cơng cụ quan trọng để nâng cao độ chính xác, rút ngắn thời gian thẩm định,
hiện nay mới chỉ áp dụng chủ yếu là phần mềm Excel để thiết lập các bảng tính,
trong khi đó phần mềm áp dụng cho cơng tác đánh giá rủi ro lại đang cịn hạn
chế, chưa có một phần mềm đặc dụng để đánh giá rủi ro trong các dự án như
phần mềm Risk Master....
2.4. Hạn chế về thời gian, thủ tục thẩm định
Theo quy định của MSB, thời hạn tối đa để thẩm định là 20 ngày phải trả
lời khách hàng đồng ý hoặc từ chối cho vay, tuy nhiên trong thực tế thời gian

này kéo dài hơn nhiều, điều này sẽ làm mất đi cơ hội đầu tư của doanh nghiệp


trong thời gian đợi kết quả phê duyệt của ngân hàng.
Ngồi vấn đề thời gian thì những thủ tục, giấy tờ liên quan đến việc thẩm
định còn đang khá phức tạp. Các báo cáo thẩm định nhiều khi mới chỉ dừng lại
ở việc hướng dẫn thủ tục hành chính mà chưa có sự đánh giá, phân tích sâu về
khía cạnh thị trường, kỹ thuật, công nghệ nhất là việc đánh giá rủi ro khoản vay
còn đang khá sơ sài.
Những hạn chế trong công tác thẩm định đã cho thấy nguyên nghân xuất
phát từ phía cơng tác tổ chức thẩm định tại ngân hàng, tuy nhiên những hạn chế
đó cịn là hậu quả của các yếu tố xuất phát từ phía hoạt động chỉ đạo của các
ban ngành chức năng và từ phía các doanh nghiệp.
2.5. Nguyên nhân
2.5.1. Nguyên nhân khách quan
Hiện nay cơ chế quản lý nhà nước đối với tổng thể phát triển nền kinh tế
đã có nhiều chuyển biến tích cực xong vẫn cịn một số vấn đề cần được xem xét
lại. Thứ nhất là sự yếu kém trong công tác quy hoạch. Công tác quy hoạch được
coi như là người chỉ đường cho định hướng phát triển của nền kinh tế, cho từng
vùng, địa phương, cho từng ngành và từ đó xây dựng nên các định mức, tiêu
chuẩn để tiến hành xây dựng dự án, tuy nhiên những định hướng đó vẫn chưa
mang tính cụ thể, chủ trương của nhiều cơ quan ban ngành lại vẫn thường xuyên
tồn tại nhiều mâu thuẫn dẫn đến tình trạng đầu tư chồng chéo, đầu tư theo
phong trào mà không quan tâm tới tính khả thi của ngành, địa phương ví dụ như
việc yếu kém trong công tác quy hoạch cảng thêm vào đó các địa phương lại
đua nhau xây dựng nên dẫn đến tình trạng các cảng mới thì khơng sử dụng hết
công suất mà các cảng lớn cũ như cảng Sài Gịn lại ln trong tình trạng tắc
nghẽn. Bên cạnh đó, tầm nhìn quy hoạch phát triển kinh tế đáng lẽ phải mang
tính chất lâu dài thì lại khơng ổn định, các quy hoạch chồng chép nhau khiến
cho nhiều dự án phải dừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng ví dụ như dự

án phát triển Hải Phịng trở thành trung tâm thuỷ sản vùng duyên hải Bắc Bộ,
nhưng khi một số dự án đã đổ vốn vào dự án thì phải dừng lại vì thay đổi trong


quy hoạch sử dụng đất.
Thứ hai là việc các ban ngành chưa quan tâm tới việc xây dựng một hệ
thống thông tin thị trường, giá cả, thông tin về các chỉ số phát triển của từng
ngành, thông tin rủi ro trong hệ thống ngân hàng nên vẫn chưa có cơ sở so sánh,
đánh giá cho công tác thẩm định, dẫn đến tình trạng nhiều dự án treo vì khơng
nắm bắt được thơng tin thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn thiếu những
hướng dẫn cụ thể về kỹ thuật thuật thẩm định, mà mới chỉ có một số văn bản
hướng dẫn hành chính.
Thứ ba là việc chưa tạo hành lang quản lý thống nhất giữa các doanh
nghiệp đã tạo ra kẽ hở để các doanh nghiệp không thực hiện đúng theo quy định,
như quy định kiểm toán bắt buộc đang còn khá hạn chế đối với những doanh
nghiệp nhà nước mà đây lại là đối tượng chủ yếu của ngân hàng. Hơn nữa, các
thơng tin hoạt động tài chính ngầm của các cơng ty lại rất khó nắm bắt mặc dù
nhà nước ln có các chính sách minh bạch hố các thơng tin doanh nghiệp
nhưng thực tế vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Chính vì vậy đã làm cho
ngân hàng rất lúng túng trong việc xử lý các thơng tin doanh nghiệp. Bên cạnh đó
việc thay đổi thường xuyên các quy định của nhà nước cũng làm các ngân hàng
tỏ ra rụt rè với nhiều dự án đang nằm trong diện thay đổi.
Nguyên nhân khách quan thứ hai đó là rủi ro từ việc biến động các chỉ
tiêu vĩ mô, biến động từ các yếu tố bên ngồi như điều kiện mơi trường, thời
tiết, văn hố xã hội. Các chỉ tiêu vĩ mơ như tình hình phát triển kinh tế đất nước
và thế giới, các chỉ tiêu lạm phát hay sự biến động tỷ giá đều có ảnh hưởng trực
tiếp tới doanh thu, chi phí đầu vào của dự án; trong trường hợp xấu có thể làm
ảnh hưởng đến kế hoạch thu hồi nợ của ngân hàng.
2.5.2. Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp
Hạn chế của các doanh nghiệp hiện nay đó là chưa chú trọng tới cơng tác

lập dự án, các phân tích đang cịn chưa cụ thể vào từng khía cạnh. Nguồn khai
thác thơng tin thị trường nghèo nàn, các thông tin mới chỉ tổng hợp từ các
phương tiện truyền thơng báo chí, chưa có một kho số liệu thị trường, số liệu


ngành để tham khảo. Thông số kỹ thuật đưa ra nhiều khi chưa dựa trên năng lực
có thể tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp hay của đất nước, đội ngũ công
nhân viên bị hạn chế về năng lực và trình độ nên hiệu quả sử dụng khơng cao.
Các phân tích hiệu quả tài chính vẫn đang cịn khá sơ sài, chưa nhận thức đúng
về các khái niệm giá trị thời gian của tiền, lãi suất chiết khấu, dòng tiền phù
hợp, đơi khi cịn nhầm lẫn giữa dịng tiền dự án với lợi nhuận kế toán. Khả năng
tiêu thụ của dự án được ước lượng bình quân theo số liệu tự thống kê mà không
xét đến nguồn lực để đạt được khả năng đó.
Nguyên nhân dẫn đến việc một số các doanh nghiệp thường cố tình làm
sai lệch giá trị doanh nghiệp bởi vì theo quy định của ngân hàng khi doanh
nghiệp muốn vay vốn đầu từ thì phải có ít nhất 20% vốn đối ứng nhưng không
phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được. Ngồi năng lực về vốn đối
ứng, khơng ít doanh nghiệp cịn cố tình đưa ra những bản báo cáo tài chính
khơng phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp mà chỉ nhằm tạo dựng lịng tin ở phía
ngân hàng như việc khai khống giá trị vật tư hàng hoá, tài sản, sử dụng tài sản
để thế chấp vay nhiều nơi hoặc vay nơi này trả nơi khác mà không công khai...
Tất cả những mặt tiêu cực này nếu phía ngân hàng khơng có sự xử lý thơng tin
thường xun thì sẽ gây mất an tồn đối với việc thu hồi nợ.
Qua q trình tìm hiểu, phân tích trên cho thấy hoạt động thẩm định dự
án đầu tư tại SGD tuy đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể nhưng vẫn không
tránh khỏi những vướng mắc cần giải quyết, những hạn chế đó bắt nguồn từ cả
phía ngân hàng lẫn phía doanh nghiệp và nguyên nhân khách quan mang tính vĩ
mơ. Ngân hàng cần nhìn nhận các hạn chế đó một cách khách quan để tìm giải
pháp khắc phục, cùng với đó là tiếp tục phát huy những thế mạnh hiện có để
nâng cao năng lực cạnh tranh.

II. Định hướng trong hoạt động tín dụng và công tác thẩm định dự án.
Trong thời gian qua, tuy vừa củng cố tổ chức và đồng thời phát triển mạnh
kinh doanh, Maritime Bank vẫn là một trong các NHTMCP có chất lượng hoạt


động hàng đầu của Việt Nam. Khối lượng khách hàng lớn và truyền thống vẫn
ln được duy trì, chất lượng dịch vụ vẫn luôn được đảm bảo.
Đến cuối tháng 6/2008 trong tình hình khó khăn của nền kinh tế nói chung
và đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng nhưng Maritime Bank vẫn là một
trong các NHTMCP có các chỉ số đảm bảo về an toàn hoạt động.
Là một chi nhánh hàng đầu của MSB, SGD phải luôn luôn giữ vững
nhiệm vụ trung tâm đầu mối cho hoạt động của ngân hàng, dựa trên chiến lược,
định hướng phát triển của MSB để từ đó đưa ra kế hoạch phát triển của SGD.
Mục tiêu phát triển đến 2011 của MSB:
o

Tổng tài sản:

80.000 tỷ

o

Vốn điều lệ:

5.500 tỷ

o

ROE mục tiêu:


24% năm

o

Cơ cấu tài sản:

Đầu tư tín dụng 60%; đầu tư tài chính 32%

o

Cơ cấu tín dụng:



50% khách hàng doanh nghiệp ngồi quốc doanh



25% khách hàng doanh nghiệp quốc doanh



25% khách hàng cá nhân

o

Cơ cấu nguồn vốn:




Vốn chủ sở hữu:



Huy động dân cư:

43%



Huy động TCKT:

23%



Huy động liên hàng:



Vốn khác:

o

Cơ cấu thu nhập: Thu thuần dịch vụ chiếm 24% trên tổng thu thuần kinh doanh.

13%

20%
1%


Để đạt được mục tiêu trên, trong thời gian tới ngân hàng định hướng tiếp
tục đưa ra những hình thức phong phú, hấp dẫn để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi
từ dân cư, quảng bá sâu rộng hình ảnh tới mọi tầng lớp nhân dân cùng với đó là
tiếp tục mở rộng các chi nhánh trên khắp cả nước. Trong công tác cho vay cần
tiếp tục mở rộng các mối quan hệ để thu hút và tìm kiếm các dự án khả thi nhằm


đẩy mạng công tác cho vay, phục vụ tốt hơn sự nghiệp phát triển chung của đất
nước. Tiếp tục tìm kiếm, mở rộng những khách hàng mới triển vọng, không
phân biệt loại hình sở hữu, quy mơ kinh doanh, đồng thời giữ mối quan hệ tốt
với các khách hàng truyền thống. Bên cạnh đó, quan tâm tới việc nghiên cứu, áp
dụng vào thực tiễn những phương pháp tiên tiến trong thẩm định dự án, thẩm
định tài chính dự án và xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu làm cơ sở để đánh
giá dự án, nâng cao hiệu quả cho vay.
Đứng trước những kết quả đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại và dựa
trên cơ sở định hướng phát triển cho giai đoạn tiếp theo tôi xin đưa ra một số
giải pháp và kiến nghị cho công tác thẩm định tài chính dự án sau đây:
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài
chính dự án tại SGD.
1. Tiếp tục hồn thiện hệ thống thơng tin dữ liệu tín dụng
Hệ thống thơng tin hỗ trợ cho ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án
đang rất còn hạn chế, manh mún, đặc biệt là đối với cơng tác thẩm định tài
chính dự án như việc thiếu số liệu đánh giá ngành, lĩnh vực, số liệu thị trường
về giá cả và sự biến động của giá cả cũng như nhu cầu tiêu dùng. Thông tin
không những ảnh hưởng đến hiệu quả thẩm định mà cịn là cơng cụ cạnh tranh
hữu hiệu với các ngân hàng khác, nguồn thu thập thông tin thể hiện trình độ
khai thác, mối quan hệ với các tổ chức có liên quan. Nếu lượng thơng tin khơng
đầy đủ sẽ không đủ dẫn chứng thuyết phục để phản ánh đầy đủ mọi khía cạnh
của dự án, đồng thời các kết luận sẽ khơng có độ chính xác cao.

Ngân hàng là một tổ chức tài chính có mối quan hệ rộng lớn với các tổ
chức kinh tế trong xã hội, vì vậy cần thiết phải liên tục mở rộng hơn nữa các
mối quan hệ này, nhất là đối với các hiệp hội ngành nghề để từ đó có được
những thơng tin cập nhật về xu hướng giá cả, thị trường, kỹ thuật, khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay.
Bên cạnh đó, ngân hàng nên kiến nghị với ngân hàng Nhà nước để thành
lập một công ty chuyên đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp, việc làm này sẽ tiết


kiệm được thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả trong cơng tác thẩm định, nâng
cao tính chun mơn hóa trong hoạt động tài chính. Tuy nhiên, bản thân ngân
hàng cũng cần phải tự hồn thiện hệ thống thơng tin nội bộ của mình, thiết lập
hệ thống thu thập thơng tin định kỳ trong toàn hệ thống. Nguồn lực cho cơ sở
này chính là thơng tin từ các chi nhánh của MSB trên toàn quốc, các chi nhánh
sẽ thu thập thơng tin về tình hình trên địa bàn sau đó sẽ được tổng hợp tại trụ sở
để từ đó có được hệ thống thông tin về các ngành, lĩnh vực, địa phương phong
phú như thơng tin về tình hình kinh tế xã hội nói chung, các chính sách phát
triển của Đảng, Nhà nước về tình hình đầu tư trong và ngồi nước, thơng tin quy
hoạch, chế độ tài chính với từng doanh nghiệp, chế độ khấu hao, chế độ ưu đãi
cùng với các thơng tư, văn bản pháp luật có liên quan, thông tin giá cả, sự biến
động của thị trường. Để thực hiện được mục tiêu này, ngân hàng lại cần phải
xây dựng hệ thống trang thiết bị đồng bộ và hơn hết là đội ngũ nhân viên có
chuyên mơn.
Những nguồn thơng tin có thể tự khai thác như trên mới chỉ là điều kiện
bổ sung trong hệ thống thơng tin thẩm định, nguồn thơng tin chính là thơng tin
từ phía doanh nghiệp. Như đã phân tích, nguồn thơng tin doanh nghiệp cung cấp
thường có độ tin cậy khơng cao, chính vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn
thơng tin quan trọng này cần phải yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ chặt chẽ các
quy định về số liệu đồng thời nâng cao công tác thẩm định số liệu.
Ngân hàng cần yêu cầu doanh nghiệp đệ trình đầy đủ các báo cáo tài

chính, báo cáo thường niên của cơng ty bởi đây là những nguồn tin quan trọng,
cập nhật nhất. Đối với những doanh nghiệp hoạt động lâu năm cần yêu cầu các
báo cáo phải yêu cầu cung cấp số liệu ít nhất là 3 năm vì số liệu trong 2 năm sẽ
khơng thể nói lên được xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn đối với các
doanh nghiệp mới hoạt động cần phải tăng cường công tác hỗ trợ cũng như
cơng tác quản lí sau cho vay hơn nữa. Đồng thời quy định báo cáo phải có
chứng nhận của tổ chức kiểm tốn có uy tín kiểm tra tính xác thực của nguồn số
liệu, quy định này rất cần thiết vì cơng tác kiểm tốn hiện nay tại các doanh


nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, không phải doanh nghiệp nào cũng
trung thực đối với các số liệu nộp cho ngân hàng. Bên cạnh các báo cáo tài
chính thì báo cáo thường niên và các báo cáo nội bộ, báo cáo tài chính tổng hợp
sẽ là cơng cụ đắc lực để ngân hàng kiểm tra sự thay đổi trong tình hình tài
chính, nhân sự, quản lý của doanh nghiệp, nhất là đối với những cơng ty đang
có vấn đề tài chính, chưa thể cân đối được thì sẽ có sự chậm trễ trong việc cung
cấp các tài liệu trên.
Nguồn thông tin không kém phần quan trọng để thẩm định lại tư cách
doanh nghiệp đó chính là thơng tin từ phía các ngân hàng khác, sự hợp tác cung
cấp thơng tin giữa các ngân hàng là rất cần thiết, ngoài ra ngân hàng có thể khai
thác thơng tin tổng hợp cơ quan Thuế, từ CIC – trung tâm dữ liệu tín dụng Quốc
gia. Qua nguồn thơng tin này ngân hàng có thể kiểm tra quan hệ của doanh
nghiệp với các ngân hàng, xem xét thiện chí hợp tác trả nợ, xem xét uy tín, vị trí
của doanh nghiệp.
Cuối cùng, ngân hàng nên tiến hành thường xuyên hơn các hoạt động
thực tế, khảo sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp tại nơi sản xuất kinh
doanh để có cái nhìn sâu sắc nhất về doanh nghiệp.
2. Hoàn thiện chất lượng nội dung thẩm định tài chính dự án.
Để hồn thiện nội dung thẩm định, trước hết cần cụ thể, chi tiết hóa các
khía cạnh nội nhất là khía cạnh thẩm định tài chính. Ngân hàng cần đưa ra các

phương pháp xây dựng, cách tính tốn cụ thể để làm chuẩn mực cho việc thẩm
định dự án. Có thể chia ra hai dạng chỉ tiêu định tính và định lượng như sau:
2.1. Hồn thiện các chỉ tiêu định tính
Gần đây cơng tác phân tích các chỉ tiêu định tính đã có sự quan tâm thích
đáng nhưng việc thực hiện nhiều khi vẫn chưa đạt u cầu như việc tìm hiểu
thơng tin doanh nghiệp, định hướng, chiến lược phát triển mục tiêu doanh
nghiệp, trình độ, năng lực, chun mơn của bộ máy quản lý.
Thứ nhất là kiểm tra định hướng phát triển của doanh nghiệp, các cán bộ
tín dụng phải xác định được vị trị hiện tại của doanh nghiệp trên thị trường


trong phạm vi ngành, lãnh thổ, qua đó tìm hiểu nội dung, sự phù hợp, các điểm
mạnh, yếu trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp về sản phẩm, sản xuất,
nhân sự, tài chính.... Các kế hoạch này cần đạt được sự phù hợp với nhiệm vụ
của công ty cũng như với môi trường kinh doanh, lĩnh vực, địa bàn hoạt động.
Bên cạnh đó cần đánh giá mơi trường hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá
mức độ cạnh tranh,thị phần, đánh giá mức hoạt động của ngành.
Nội dung thứ hai đó là thẩm định ban quản lý doanh nghiệp vì thực chất
hoạt động cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng chính là mối quan hệ giữa
ngân hàng và bộ máy quản lý, chính họ mới là người trực tiếp đưa ra kế hoạch
và sử dụng nguồn vốn vay. Ngoài việc thẩm tra năng lực pháp lí, tư cách của
người đứng đầu, các cán bộ tín dụng cũng cần phải nắm bắt được các thông tin
về tư cách, danh tiếng, trình độ chun mơn, khả năng quản lý, tầm nhìn của đội
ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là phải quan tâm tới cơ cấu bộ máy và
đội ngũ cán bộ kế cận được đào tạo để kế nhiệm bởi dự án thường kéo dài trong
nhiều năm và khả năng thay đổi nhân sự trong bộ máy quản lý là hồn tồn có
thê xảy ra.
Để khai thác được nguồn thông tin này phụ thuộc rất nhiều và khả năng
thu thập, nắm bắt, đánh giá của cán bộ tín dụng.
2.2. Hoàn thiện các chỉ tiêu định lượng

Hiện nay việc phân tích các chỉ tiêu định lượng hiệu quả tài chính dự án
đã được thực hiện khá đầy đủ và bài bản, tuy nhiên những hạn chế trong việc
xác định tổng vốn đầu tư, dòng tiền, lãi suất chiết khấu, phân tích và đánh giá
rủi ro.
+ Trong cơ cấu tổng vốn đầu tư hiện nay thường hay thiếu sót khoản vốn
lưu động ròng và nguồn vốn dự phòng phục vụ cho nhu cầu sản xuất của dự án.
Việc dự tính thiếu vốn đầu tư làm phát sinh vốn trong quá trình thực hiện và từ
đó kéo dài thời gian dự án, ảnh hưởng đến cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Vì
vậy, khi tiến hành thẩm tra, ngân hàng cần chú ý tính tốn cả nguồn vốn lưu
động rịng, đây là khoản chênh lệch giữa vốn lưu động (nguyên vật liệu, hàng


tồn kho...) và nợ ngắn hạn.
Để tính nhu cầu vốn lưu động trước hết cần xác định số ngày đảm bảo tối
thiểu cho các tài sản lưu động và nợ ngắn hạn, sau đó tính nhu cầu một số thành
phần của vốn lưu động theo các chi phí như chi phí vận hành, chi phí xuất
xưởng. Xác định hệ số doanh thu của các thành phần tài sản lưu động bằng cách
lấy 360 ngày chia cho số ngày đảm bảo nhu cầu tối thiểu.
=
Từ đó ta sẽ xác định được tổng nhu cầu VLĐ và nhu cầu VLĐ ròng.
+ Thứ hai là vấn đề xác định dòng tiền, cần phải xác định rõ từng khoản
mục trong dòng tiền ra và dòng tiền vào. Dòng tiền ra bao gồm vốn đầu tư nhà
máy, vốn lưu động, trả nợ vay, hoàn trả vốn, giảm các khoản chi trả... Dòng tiền
vào bao gồm lợi nhuận sau thuế, vốn vay, khấu hao, thu thanh lý, phần chưa
khấu hao, thu vốn lưu động vào năm cuối đời dự án. Bên cạnh đó ngân hàng
cũng cần quan tâm tới cơ cấu của chi phí đầu tư để dự án áp dụng tỷ lệ khấu hao
phù hợp, đối với phần chi phí trước vận hành cần tách ra để tính thu hồi trong
một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ khơng nên tính gộp vào chi phí
xây lắp.
Ngồi những vấn đề cơ bản thường được nhắc đến như trên, khi tính tốn

dịng tiền cần có sự cân nhắc khi tính đến tác động của lạm phát, vì yếu tố này
có thể tác động đến cả đầu vào và đầu ra của dự án. Như vậy tùy vào từng điều
kiện thị trường mà phải xác định được mức độ tác động này lên từng yếu tố,
chúng có thể tự triệt tiêu nhau nếu có tác động như nhau hoặc nếu khác thì
chúng ta phải có những tính tốn tăng giảm doanh thu, chi phí phù hợp với đánh
giá đó.
Một vấn đề cịn tồn tại hiện nay trong tính chi phí của các dự án đó là
việc thường bỏ qua chi phí cơ hội của dự án, điều này sẽ có lợi hơn cho doanh
nghiệp vì đã định giá được chính xác tồn bộ chi phí ngầm bỏ qua, tuy nhiên
hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề


này, vì vậy ngân hàng cần kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước để có phương
pháp tính tốn phù hợp, đảm bảo đánh giá đúng chi phí cơ hội. Ngồi ra việc
loại bỏ chi phí chìm là rất cần thiết, cần có sự kiểm định đối với loại chi phí
thường gặp này như chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm, chi phí nghiên cứu
tiếp thị, chi phí thuê chuyên gia lập dự án... Để làm được điều này, ngân hàng
cần đưa ra yêu cầu chi tiết các khoản mục chi phí và để ý cách xử lí các loại chi
phí này.
+ Thứ ba là vấn đề lãi suất chiết khấu, thay vì việc chấp nhận lãi suất cho
vay chính là lãi suất chiết khấu, ngân hàng cần có sự điều chỉnh phù hợp dựa
trên căn cứ về cơ cấu vốn để tính chi phí sử dụng vốn bình qn, nhất là khi dự
án vay vốn đồng thời ở nhiều ngân hàng, mỗi nơi lại đánh giá lãi suất chiết khấu
khác nhau.
+ Thứ tư là kỹ thuật phân tích, đánh giá rủi ro: tuy đã có nhiều cải thiện
trong việc phân tích độ nhạy nhiều chiều nhưng hiện nay có rất nhiều công cụ
tiên tiến chưa được triển khai. Để giải quyết vấn đề này, ngân hàng cần phải xúc
tiến để học tập và sử dụng nhiêu phương pháp mới như giá trị hốn đổi hay
phép mơ phỏng Monte Carlo và phân tích rủi ro hay sử dụng phần mềm Risk
Master. Đây là những phương pháp địi hỏi nhiều thơng tin hơn nhưng kết quả

lại rất đáng tin cậy. Qua phép mơ phỏng cũng sẽ tự động tính tốn và phân phối
xác suất cho các tình huống có thể xảy ra để từ đó làm căn cứ để tính tốn các
chỉ tiêu kỳ vọng.
3. Giải pháp về công tác cán bộ tín dụng và tổ chức nhân sự
Hệ thống ngân hàng hiện nay đang trở thành một thể chế kinh tế quan
trọng trong nền kinh tế, thiết lập mối quan hệ tài chính thơng qua các hoạt động
của mình nhất là mối quan hệ với các doanh nghiệp qua hoạt động cho vay dự
án đầu tư. Do tính chất và vai trị quan trọng như vậy nên trình độ và năng lực
của cán bộ tín dụng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng công tác
thẩm định.
Để xây dựng một đội ngũ cán bộ chất lượng trước hết cần yêu cầu tất cả


mọi thành viên tôn trọng và tuân thủ mọi quy định của ngân hàng đề ra về vấn
đề nâng cao năng lực,chuyên môn, về thái độ làm việc và về đạo đức nghề
nghiệp.
Ngân hàng cần tăng cường tuyển dụng và đào tạo lớp cán bộ trẻ năng
động, nhạy bén, có trình độ kiến thức đồng thời phải quan tâm tới việc xây dựng
các quy tắc, chuẩn mực về trình độ cán bộ để làm tiêu chuận lựa chọn và có kế
hoạch tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo và đào tạo lại cán bộ thẩm định tín dụng
để kịp thời nắm bắt được những thay đổi trong quy trình, phương pháp thẩm
định và cần tạo điều kiện để cho họ nâng cao trình độ, kiến thức và kinh nghiệm
làm việc. Đội ngũ cán bộ khơng chỉ biết phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính
dự án mà trước những u cầu mới địi hỏi cán bộ phải có kiến thức sâu sắc về
cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng và cả khả năng phân tích tài chính; khuyến
khích cán bộ tín dụng tham gia nghiên cứu khoa học, đề xuất sáng kiến trong
lĩnh vực thẩm định, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn giữa các lớp cán
bộ với nhau.
Bên cạnh đó để nâng cao thế mạnh của mỗi người cần phân công công
việc theo năng lực và kinh nghiệm, thực hiện phân quyền đề nghị cấp tín dụng

và chịu trách nhiệm quản lý thơng tin dự án cho đến khi hồn thành mọi thủ tục
có liên quan, tuy nhiên sự phân quyền này vẫn cần có sự liên kết giữa các thành
viên nhằm đảm bảo kết quả thẩm định và thời gian thẩm định.
Đạo đức của cán bộ tín dụng là vấn đề khơng kém phần quan trọng, nếu
cán bộ tín dụng có những hành vi trái với đạo đức nghề nghiệp sẽ gây ảnh
hưởng tới uy tín và chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên
vấn đề này không phải dễ phát hiện vì vậy ngồi việc phải có các biện pháp
quản lý, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên kết quả và chất lượng cơng việc của
mỗi cán bộ tín dụng thì các cấp quản lý cần phải đề ra các biện pháp kỷ luật,
khen thưởng thích đáng và tạo ra mơi trường làm việc thân thiện, khuyến khích
mọi người nêu cao tinh thần trách nhiệm, có tính kỷ luật và tâm huyết với nghề.
4. Nâng cao trang thiết bị kỹ thuật


Trang thiết bị là phương tiện quan trọng trợ giúp cho các cán bộ tín dụng
áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại để tiến hành phân tích dự án. Các
trang thiết bị này cần phải đáp ứng được nhu cầu truy cập, xử lý thơng tin lớn,
chính xác trong thời gian ngắn vì vậy việc trang bị, nâng cao các thiết bị kỹ
thuật tiên tiến là điều cần thiết. Hiện nay, ngân hàng đã trang bị cho mỗi cán bộ
tín dụng một máy tính có đầy đủ tất cả các hỗ trợ cần thiết, tuy nhiên do sự tiến
bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển của kỹ thuật phân tích dự án ngày
càng phát triển, thêm vào đó là nhu cầu quản lý, lưu trữ và tìm kiếm thơng tin
của ngân hàng càng tăng nên để phục vụ cho lợi ích lâu dài ngân hàng cần có kế
hoạch, lộ trình, phương pháp lựa chọn đầu tư cơng nghệ thích hợp
5. Nâng cao vai trị tư vấn của ngân hàng đối với doanh nghiệp
Hiện nay công tác lập dự án ở các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đang còn rất hạn chế. Đa số các doanh nghiệp khi đi vay vốn lần đầu
đều rất bỡ ngỡ đối với công tác lập dự án vì họ khơng có chun mơn về dự án,
lập dự án cũng như việc tiếp cận, khai thác các nguồn thơng tin đánh giá cũng
rất hạn chế. Chính điều này làm cho việc thẩm định tốn rất nhiều thời gian, chi

phí. Do đó, việc phát huy khả năng tư vấn của ngân hàng là điều cần thiết, có lợi
cho cả hai bên.
Để làm được điều này cán bộ tín dụng cần phải tinh thơng nghiệp vụ ngân
hàng, có sự am hiểu về thông tin của lĩnh vực đầu tư, biết cách tổng hợp và sử
dụng thông tin khai thác được, nắm rõ các khái niệm liên quan đến dự án, quy
trình, sự cần thiết của đầu tư theo dự án và phải nắm rõ quy trình lập dự án. Nếu
công tác tư vấn được thực hiện tốt sẽ giúp ngân hàng có thêm thơng tin xác thực
để làm căn cứ thẩm định dự án và quyết định cho vay.
IV. Những kiến nghị đối với các cấp hữu quan nhằm hồn thiện cơng tác
thẩm định tài chính dự án vay vốn.
Những giải pháp nêu trên vừa là những kiến nghị lên SGD và ngân hàng
MSB nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác thẩm định nói chung và cơng tác thẩm
định tín dụng nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện được các giải pháp này ngoài nỗ


lực của ngân hàng cịn cần có sự phối hợp, trợ giúp lớn từ phía các cơ qua nhà
nước, các bộ ban ngành và ngân hàng Nhà nước để tạo dựng môi trường kinh tế,
pháp lý thuận lợi hơn cho cơng tác thẩm định tài chính được nâng cao.
1. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước và các bộ, ban, ngành có
liên quan.
Thứ nhất là nhà nước cần nhanh chóng hồn thiện mơi trường pháp lý ổn
định, khoa học để tạo tiền đề ổn định cho hoạt động đầu tư, ban hành các quy
chế về đầu tư, sản xuất kinh doanh, tài chính kế tốn, nâng cao kiến thức về đầu
tư và đầu tư theo dự án... để vừa làm cơ sở cho doanh nghiệp hoạt động, vừa
làm cơ sở cho đánh giá của ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, chỉnh
sửa và hồn thiện các chính sách cụ thể về thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh,
tránh tình trạng khi bên vay bị vơ hiệu hố nghĩa vụ sơ cấp thanh tốn khoản
vay thì nghĩa vụ trong bảo lãnh cũng mất hiệu lực, như vậy sẽ gây ra nhiều rủi
ro cho hoạt động ngân hàng, ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Thứ hai là nhà nước nên có chính sách giảm bớt sự can thiệp quá sâu của

các cơ quan, chính quyền vào hoạt động thẩm định của ngân hàng, cải cách hệ
thống tài chính theo hướng trao quyền độc lập và tự chủ cho các ngân hàng.
Thứ ba là ổn định chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự phát triển của đất
nước để tránh gây ra những biến động vượt ra xa khỏi sự dự tính của phía ngân
hang, tránh gây ra sự đổ vỡ, đình trệ của các dự án. Bên cạnh đó, nhà nước cần
đưa ra các quy chế tập trung vào xây dựng hệ thống thông tin minh bạch về
thông doanh nghiệp, tiến hành thành lập tổ chức chuyên gia đánh giá, phân loại
và xếp hạng doanh nghiệp. Điều này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí
và giảm thiểu tiêu cực, rủi ro đối với các ngân hàng, từ đó sẽ có những quyết
định cho vay chính xác, hiệu quả hơn đồng thời cũng là biện pháp kích thích các
doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.
Thứ tư, nhà nước cần phối hợp với bộ Tài chính để ban hành các quy
định về hạch tốn tài chính kế toán đối với các thành phần kinh tế đảm bảo tính
chuẩn mực, đồng bộ của cơng tác kế tốn, minh bạch các báo cáo tài chính bên


cạnh đó cần có yêu cầu bắt buộc phải có kiểm tốn các số liệu đó. Cùng với đó
nhà nước cũng cần ban hành các chế tài xử lý nghiêm những trường hợp vi
phạm.
Ngoài ra, nhà nước cần lưu tâm đến việc xây dựng một trung tâm hỗ trợ
định giá máy móc, cơng nghệ để giải quyết những khó khăn về chuyên môn kỹ
thuật không chỉ cho các cán bộ tín dụng mà cịn có lợi cho các doanh nghiệp.
2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
Thứ nhất, ngân hàng Nhà nước cần có những định hướng mang tính vĩ
mơ trong từng thời kỳ để định hướng cho các hoạt động của các ngân hàng vào
việc ưu tiên tín dụng cho phát triển ngành, thành phần, khu vực trọng điểm,
phục vụ phát triển kinh tế theo định hướng của nhà nước.
Thứ hai ngân hàng Nhà nước cần thiết phải ban hành một cẩm nang tham
khảo chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng về thẩm định dự án nhất là thẩm
định tài chính, có như vậy mới đảm bảo được tính đồng bộ, chuẩn mực và nâng

cao chất lượng thẩm định.
Thứ ba là phải đưa ra các chế tài xử phạt thích đáng đối với những thành
viên vi phạm cơ chế, thể lệ, quy định tín dụng, tạo mơi trường cạnh tranh lành
mạnh giữa các ngân hàng. Tổ chức phổ biến rộng khắp các văn bản mới cho tất
cả các ngân hàng thành viên và yêu cầu các ngân hàng thành viên có trách
nhiệm phổ biến trong hệ thống mình. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tăng cường
hoạt động thanh tra, kiểm tra tình hình tín dụng, kiểm sốt nội bộ trong hệ thống
ngân hàng.
Thứ tư là cần phát triển hơn nữa trung tâm dữ liệu tín dụng Quốc gia CIC,
yêu cầu tất cả các ngân hàng thành viên phải tham gia và minh bạch tình hình
tín dụng của các doanh nghiệp đồng thời đề ra các quy chế trao đổi, thu thập
thông tin giữa các thành viên. Tăng cường sự hợp tác giữa CIC và các cơ quản
quản lý kinh tế như các bộ, tổng cục thống kê hay các hiệp hội ngành... để nắm
bắt thông tin thị trường. Ngoài ra, cũng cần tăng cường sự liên kết với các tổ
chức tài chính trên thế giới để có thể thu thập và xử lý thông tin biến động trên


thị trường quốc tế, thông tin về các doanh nghiệp nước ngồi có nhu cầu đầu tư
tại Việt Nam.



×