Tải bản đầy đủ (.docx) (150 trang)

133 HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC tài sản cố ĐỊNH VÀ CÔNG CỤ DỤNG CỤ TRONG KIỂM TOÁN BCTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.09 KB, 150 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
--------------------

ĐOÀN THỊ NGỌC LINH
CQ52/22.08

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC TÀI SẢN CỐ
ĐỊNH VÀ CÔNG CỤ DỤNG CỤ TRONG KIỂM TOÁN BCTC
DO PHÒNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ CÔNG TY TÀI CHÍNH
TNHH MB SHINSEI THỰC HIỆN
CHUYÊN NGÀNH : KIỂM TOÁN
MÃ SỐ

: 22

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS THỊNH VĂN VINH

HÀ NỘI – 2018
1


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình
thực tế của đơn vị thực tập.


Tác giả luận văn tốt nghiệp
Đoàn Thị Ngọc Linh

2
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

MỤC LỤC

3
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Mcredit
BKS
BCTC
CCDC

ĐVĐKT
ĐVMS
ĐVSD
HĐTV
HĐQT
HTKSNB
HUB
IIA
KTNB
KTVNB
Bp.QLTS
SIP
TSCĐ
TCTD
TGĐ

4
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Công ty Tài chính TNHH MB Shinsei
Ban kiểm soát
Báo cáo tài chính
Công cụ dụng cụ
Đơn vị được kiểm toán
Đơn vị mua sắm
Đơn vị sử dụng
Hội đồng thành viên
Hội đồng quản trị
Hệ thống Kiểm soát nội bộ
Điểm giới thiệu cho vay tiền măt

Học viện kiểm toán Nội Bộ Hoa Kỳ
Kiểm toán Nội Bộ
Kiểm toán viên Nội Bộ
Quản lý tài sản
Điểm giới thiệu dịch vụ
Tài sản Cố định
Tổ chức tín dụng
Tổng giám đốc

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức tại Mcredit
Sơ đồ 2.2 Cơ cấu tổ chức Phòng KTNB
Sơ đồ 2.3: Sơ đồ Tổ chức của Khối Tài chính Kế toán
Sơ đồ 2.4: Biểu hiện sự tăng trưởng của số lượng Hub/ KiosK
Sơ đồ 2.5: Biểu hiện sự tăng trưởng số lượng SIP trong năm 2017

5
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

6
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
KTNB tại các doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng có vai
trò hết sức quan trọng trong quản trị kinh doanh và quản trị rủi ro, đóng
vai trò là tuyến phòng thủ thứ ba theo thông lệ quốc tế nhằm kiểm tra,
đánh giá, giám sát tính hữu hiệu, phù hợp, đầy đủ của hệ thống Kiểm soát
nội bộ. KTNB đã được áp dụng tại nhiều TCTD ở các nước phát triển và
đang phát triển trên thế giới, trở thành nội dung yêu cầu cốt lõi của Basel
II. Sự ra đời và phát triển của KTNB chính là do nhu cầu tất yếu khách
quan để tăng cường quản trị, giám sát trong bối cảnh kinh tế, xã hội...biến
động mạnh mẽ và khó lường. Ở Việt Nam, hệ thống các TCTD sau thời kỳ
phát triển nhanh cả về quy mô và số lượng đã bộc lộ nhiều vấn đề về tăng
trưởng nóng, mức độ rủi ro cao trong khi tính minh bạch về hoạt động
kinh doanh và các vấn đề sở hữu đã và đang gây ra những tác động tiêu
cực không nhỏ đến sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.

Một trong những nguyên nhân cơ bản là do công tác KTNB tại các chưa
được tổ chức một cách hiệu quả, chưa đảm bảo những nguyên tắc và yêu
cầu chung trong quá trình vận hành.
Kiểm toán BCTC là một trong những hoạt động hàng năm của kiểm
toán nội bộ trong kế hoạch kiểm toán hằng nằm. Để rà soát tính trung thực
hợp lý của các BCTC 31/12/2017, đánh giá các thủ tục kiểm soát trong công
tác hạch toán và quản lý sổ sách kế toán liên quan đến việc lập BCTC, đánh
giá tính tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các quy định
của NHNN về chế độ tài chính luật thuế và các quy định hiện hành có liên
quan. Đối với các khoản mục của bảng cân đối kế toán, TSCĐ và CCDC luôn
giữ một vai trò quan trọng, hơn nữa Mcredit mới được thành lập, do đó việc
tổ chức hạch toán TSCĐ và CCDC cũng như việc trích lập chi phí khấu hao
và phân bổ chi phí còn chưa được hoàn thiện, vẫn còn nhiều sai xót chưa
chính xác. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC
của KTNB cũng như hoàn thiện thêm quy trình hạch toán ghi nhận TSCĐ và
7
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
CCDC, nhất thiết phải cải thiện quy trình kiểm toán khoản mục TSCĐ và
CCDC
Nhận thức được vai trò quan trọng của kiểm toán TSCĐ và CCDC
trong kiểm toán BCTC, qua quá trình học tập tại trường cũng như thời
gian thực tập tại Mcredit, em xin được lựa chọn đề tài thực tập tốt nghiệp
là: “Hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục Tài sản cố định và
công cụ dụng cụ trong kiểm toán BCTC do phòng Kiểm toán nội bộ

Công ty Tài chính TNHH MB Shinsei thực hiện”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với 3 mục đích:
-

Hệ thống hóa làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quy trình kiểm toán khoản
mục TSCĐ và CCDC trong kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện.

-

Phân tích thực trạng về quy trình kiểm toán TSCĐ và CCDC trong trong kiểm
toán BCTC do phòng kiểm toán Nội bộ Công ty tài chính TNHH MB Shinsei
(Mcredit) thực hiện để chỉ rõ ưu, nhược điểm, nguyên nhân.

-

Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán TSCĐ và
CCDC trong kiểm toán BCTC do phòng KTNB Mcredit thực hiện.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về quy trình kiểm toán khoản
mục TSCĐ và CCDC trong kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện.
Phạm vi nghiên cứu: Quy trình kiểm toán TSCĐ và công cụ dụng
cụ trong kiểm toán BCTC do phòng KTNB Mcredit thực hiện với tư cách
là kiểm toán khoản mục TSCĐ và CCDC trong một cuộc kiểm toán
BCTC. Trong đó, phạm vi nghiên cứu quy trình kiểm toán TSCĐ và
CCDC bao gồm cả kiểm toán TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình và kiểm
toán CCDC.
Chủ thể kiểm toán: là các KTVNB có nghiệp vụ thẩm quyền.
Thời gian nghiên cứu: Thực hiện nghiên cứu năm 2017


8
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Học viện Tài chính

Về khoa học: Đề tài nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận về quy trình
kiểm toán khoản mục TSCĐ và CCDC trong kiểm toán BCTC do phòng
KTNB thực hiện.
Về thực tiễn: Hiện nay, KTNB vẫn còn là lĩnh vực khá mới ở Việt
Nam, do đó chưa có khuân mẫu cho các KVTNB tuân theo. Nghiên cứu
và đánh giá thực trạng về quy trình kiểm toán của kiểm toán viên nội bộ
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản
mục TSCĐ và CCDC trong kiểm toán BCTC do phòng KTNB Mcredit.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp sau:
Về phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu và thực hiện dựa trên

-

phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với tư duy và khoa học
logic.
-


Về phương pháp kỹ thuật: Luận văn đã sử dụng kết hợp các phương
pháp như khảo sát thực tiễn, phân tích, phỏng vấn, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu.....
6. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Những lý luận cơ bản về KTNB và quy trình kiểm toán
khoản mục TSCĐ và CCDC trong kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện.
Chương 2: Thực trạng về quy trình kiểm toán khoản mục TSCĐ và
CCDC trong kiểm toán BCTC do phòng KTNB Công ty Tài chính
TNHH MB Shinsei thực hiện
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục
TSCĐ và CCDC trong kiểm toán BCTC do phòng KTNB Công ty Tài
chính TNHH MB Shinsei thực hiện .

9
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
CHƯƠNG 1

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KTNB VÀ QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
KHOẢN MỤC TSCĐ VÀ CCDC TRONG KIỂM TOÁN BCTC DO
KTNB THỰC HIỆN

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KTNB
1.1.1. Các quan niệm về KTNB

Trên thế giới KTNB đã có mặt từ rất lâu trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Tại các nước phương Tây, sau các cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, các nhà quản lý kinh tế trên thế giới đã đánh giá lại các mô hình
và thấy được vai trò của quản trị rủi ro cũng như vai trò của KTNB đã trở nên
ngày càng quan trọng. Các công ty đã chủ động hơn trong việc xác định rủi
ro, nhất là những rủi ro trọng yếu có thể tác động xấu đến hệ thống kinh
doanh của họ. Đồng thời họ cũng xây dựng những phương pháp, chương
trình, cách thức tiếp cận kiểm toán có hiệu quả hơn. Tại Mỹ, đất nước có thị
trường chứng khoán rất phát triển thì KTNB là bộ phận bắt buộc phải có và
luật Sarbenes – Oxley ra đời năm 2002 cũng quy định rõ tất cả các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống
kiểm soát nội bộ công ty.
Tuy nhiên, vai trò của KTNB tại Việt Nam còn khá mờ nhạt, KTNB mới
chỉ bắt buộc áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước bằng các văn bản
như pháp luật như Quyết định số 832/TC- QĐ- CĐKT của Bộ tài chính ban
hành ngày 28/10/1997- Quy chế KTNB áp dụng trong doanh nghiệp nhà nước
và các văn bản hướng dẫn Quyết định trên. Ngoài ra, ngày 29/12/2011 ngân
hàng nhà nước Việt Nam ban hành thông tư số 44/2011/ TT- NHNN – Thông
tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và KTNB của TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
Thực tế nếu như kiểm toán độc lập có mặt tại Việt Nam gần 30 năm thì
cho đến nay khái niệm KTNB vẫn còn khá mới mẻ đối với nhiều nhà quản lý.
10
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính

Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và sự phát triển nhanh
chóng của thị trường chứng khoán cũng như thực trạng về quản trị tài chính
đã cho thấy sự cần thiết của KTNB ở nội bộ các doanh nghiệp, các TCTD.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm, khái niệm và cách hiểu khác nhau về
KTNB:
Nhắc đến KTNB thì không thể không đề cập tới IIA, Viện KTNB, được
thành lập từ năm 1941 khi một nhóm các nhà KTNB muốn thành lập một tổ
chức chuyên môn có thể đại diện cho nghề nghiệp của mình và đến nay đã trở
thành một tổ chức quốc tế có thể đáp ứng được trông đợi của các kiểm toán viên
nội bộ toàn cầu. Năm 1978, lần đầu tiên Học viên KTVNB Hoa Kỳ (the IIA)
chính thức phê chuẩn chuẩn mực thực hành KTNB (The standards for the
Professional Practice of Internal Auditing) với các mục đích sau:
-

Hỗ trợ giao tiếp với người khác về vai trò, phạm vi, hiệu suất và mục tiêu
KTNB.

-

Thống nhất KTNB trên toàn thế giới.

-

Khuyến khích cải tiến KTNB.

-

Thiết lập cơ sở để đo lường thống nhất các hoạt động KTNB.

-


Cung cấp một phương tiện để KTNB có thể được công nhận đầy đủ như là
một nghề chuyên nghiệp.
Các chuẩn mực bao gồm định nghĩa và mục đích của KTNB. IIA đã đưa
ra định nghĩa về KTNB như sau: “KTNB là một chức năng thẩm định độc lập
được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động
của tổ chức đó, với tư cách là một sự giúp đỡ đối với tổ chức đó”. Đồng thời,
nó được coi là một kiểm soát có chức năng bằng cách kiểm tra và đánh giá sự
đầy đủ và hiệu quả của các kiểm soát khác. Mục tiêu của KTNB là giúp các
thành viên của tổ chức thực hiện đúng trách nhiệm của mình. KTNB cung cấp
cho họ phân tích, đánh giá, khuyến nghị, tư vấn và thông tin liên quan đến các
hoạt động được rà soát. Mục tiêu kiểm toán bao gồm thúc đẩy kiểm soát hiệu
quả với chi phí hợp lý. "
11
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
Ở Anh, chuẩn mực KTNB đầu tiên đã được ra đời vào năm 1976. Trước
thời điểm này, các tiêu chuẩn đã được các cơ quan chuyên môn giám sát KTNB.
Năm 1976, Ủy ban Thực hành Kiểm toán (Audit Practices Committee) được
thành lập như là một phương tiện chính thức hoá quá trình KTNB. Hai năm sau
khi thành lập Ủy ban Thực hành Kiểm toán, dự thảo đầu tiên của cuốn sách về
các chuẩn mực KTNB đã được công bố. Cuốn sách này bao gồm các chuẩn
mực, các quy tắc, kết hợp tất cả những kết quả thực hiện tốt nhất từ các cơ quan
chuyên môn khác nhau. Các chuẩn mực này cũng bao gồm các đề xuất liên quan
đến việc áp dụng các quy tắc. Tháng 4 năm 1980, chuẩn mực kiểm toán đầu tiên

được công bố, đến năm 1989, Ủy ban thực hành kiểm toán bắt đầu phát hành các
chú giải để hỗ trợ việc áp dụng các chuẩn mực và nguyên tắc KTNB. Năm 1991,
Ủy ban Thực hành kiểm toán thực hiện tái cấu trúc toàn bộ và thông qua định
nghĩa về KTNB như sau: “KTNB tập trung vào đánh giá và báo cáo sự phù hợp
của kiểm soát nội bộ để đóng góp vào việc sử dụng đúng, kinh tế, hiệu quả, hiệu
lực của các nguồn lực.”
Còn theo Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo Quốc tế
(IAASB), trong chuẩn mực kiểm toán số 610 về “Sử dụng công việc của
KTNB” có quan niệm: “KTNB là một chức năng của tổ chức thực hiện các
hoạt động đảm bảo và tư vấn để đánh giá và cải thiện tính hiệu quả của quy
trình quản trị, quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ của đơn vị”. Với quan niệm
này, KTNB đã không chỉ dừng lại ở riêng đối tượng là hệ thống kiểm soát, mà
còn hướng tới tư vấn, đảm bảo cho quy trình quản trị và quản lý rủi ro của tổ
chức, đồng thời nhấn mạnh chức năng tư vấn là chức năng quan trọng nhất
của KTNB.
Qua các thời kỳ, IIA đã nhiều lần giới thiệu các khái niệm về KTNB,
qua đó có thể thấy sự thay đổi của KTNB song hành cùng sự phát triển của
quản trị doanh nghiệp. Tháng 6/1999, IIA đã cung cấp một định nghĩa mới
khá toàn diện về loại hình nghề nghiệp này, trong đó coi “KTNB là hoạt động
đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tạo ra
12
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
giá trị gia tăng và cải thiện hoạt động của một tổ chức. KTNB giúp cho tổ
chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua việc tạo ra một cách tiếp cận

có hệ thống, có tính kỷ luật để đánh giá, nâng cao hiệu quả của quy trình
quản trị doanh nghiệp, quy trình kiểm soát và việc quản lý rủi ro”. Có thể coi
định nghĩa năm 1999 của IIA về KTNB là một định nghĩa bản lề, then chốt
mô tả được tất cả mục tiêu, bản chất, phạm vi cần thiết của KTNB.
Qua các quan niệm trên, ta thấy rằng KTNB có thể được hiểu như sau:
“KTNB là một chức năng độc lập khách quan nhằm đảm bảo và tư vấn các
hoạt động đã được thiết kế nhằm gia tăng giá trị và cải thiện các hoạt động
của một tổ chức. KTNB giúp một tổ chức thực hiện được các mục tiêu thông
qua việc mang lại phương pháp tiếp cận có hệ thống và quy tắc nhằm đánh
giá và nâng cao hiệu quả của quy trình quản trị rủi ro và kiểm soát quản trị”.

1.1.2. Đối tượng và chức năng của KTNB
a. Đối tượng của KTNB

Trong suốt nhiều thế kỷ qua, KTVNB tiếp tục theo đuổi sự thật, kiểm
soát các giao dịch và ngăn chặn hoặc phát hiện các hành vi gian lận. Ngày
nay, trong hoạt động phát hiện sự thật, KTNB độc lập và không thiên vị, thực
hiện báo cáo, cung cấp thông tin cho HĐTV, HĐQT. Đối tượng của KTNB là
kiểm tra, thẩm định và đánh giá toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp, của
tổ chức, thực hiện kiểm toán các quy trình trong Công ty.
Đối tượng của KTNB bao gồm:
+ Kiểm toán BCTC
+ Kiểm toán tuân thủ
+ Kiểm toán hoạt động

Thứ nhất: KTNB đối với BCTC của Doanh nghiệp, TCTD
-

Mục tiêu:


+ Rà soát số liệu trên BCTC tại ngày kiểm toán;

13
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
+ Đánh giá các thủ tục kiểm soát trong công tác hạch toán và quản lý sổ sách kế
toán có liên quan đến việc lập và trình bày BCTC;
+ Đánh giá tính tuân thủ các quy định, chế độ chuẩn mực kiểm toán hiện hành

liên quan đến hoạt động tổ chức hạch toán kế toán.
-

Phạm vi kiểm toán

+ BCTC;
+ Sổ sách kế toán, lưu trữ chứng từ kế toán;
+ Các báo cáo có liên quan theo chuẩn mực kế toán (nếu hoạt động trong lĩnh

vực ngân hàng thì là các báo cáo theo quy định của ngân hàng nhà nước).
Thứ hai: KTNB đối với việc tuân thủ chấp hành pháp luật, chính sách
chế độ và những quy định
-

Mục tiêu:


+ Rà soát việc thực hiện tuân thủ, chấp hành các quy định trong đơn vị đối với

tất cả bộ phận cá nhân trực thuộc đơn vị;
+ Rà soát việc thực hiện tuân thủ các văn bản pháp luật, chế độ chuẩn mực kế

toán liên quan đến lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty.
-

Phạm vi Kiểm toán

+ Việc thực hiện tuân thủ các quy định của các Khối/ phòng/ ban/ trung tâm/ bộ

phận của Hội sở.
Thứ ba: KTNB đối với tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống
kiểm soát nội bộ
-

Mục tiêu:

+ Đánh giá tính đầy đủ và hiệu quả của cơ cấu tổ chức phòng ban được kiểm

toán;
+ Đánh giá tính đầy đủ và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị, phòng ban

được kiểm toán.
-

Phạm vi kiểm toán:

14

Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
+ Cơ cấu tổ chức và văn bản nội bộ có liên quan đến hoạt động của các phòng
ban;
+ Bước kiểm soát trong hoạt động của phòng ban được kiểm toán.
b. Chức năng của KTNB

Thứ nhất, KTNB là một chức năng độc lập, ta có thể hiểu KTNB tách
biệt với các bộ phận, đối tượng, nội dung chúng ta kiểm toán. Khách quan tức
là KTNB khi thực hiện kiểm toán thì không có xung đột lợi ích, không có sự
tác động trong việc đưa ra các nhận định.
Thứ hai, KTNB cung cấp các dịch vụ đảm bảo và tư vấn. Đảm bảo ở đây
nghĩa là việc xem xét hệ thống có chạy đúng quy trình không? Các quy trình
được thiết kế có phù hợp với hoạt động của hệ thống và có ngăn chặn được
các rủi ro hay không? Hoạt động tư vấn có tính chất tư vấn và thường được
thực hiện theo yêu cầu cụ thể của khách hàng. Bản chất và phạm vi của hoạt
động tư vấn phải được thỏa thuận với khách hàng. Hoạt động tư vấn thường
liên quan đến hai bên: (1) người hoặc nhóm đưa ra các ý kiến tư vấn – tức
kiểm toán viên nội bộ, và (2) người hoặc nhóm tìm kiếm và nhận ý kiến tư
vấn – tức khách hàng. Khi thực hiện hoạt động tư vấn, KTVNB nên duy trì
tính khách quan và không được thực hiện các trách nhiệm của Ban điều hành.

1.1.3. Quy tắc đạo đức và ứng xử của KTVNB
a.


Liêm chính
Liêm chính là giá trị cốt lõi của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Trong hoạt động kiểm toán, KTVNB phải công minh, chính trực, thẳng thắn,
trung thực để có chính kiến rõ ràng; công bằng, tôn trọng sự thật, không thành
kiến và thiên vị. KTVNB phải coi trọng các nguyên tắc về độc lập khách quan
và chuyên nghiệp; coi trọng sự quan tâm của các ĐVĐKT, các đối tượng nhận
kết quả kiểm toán khi đưa ra các quyết định; phải trung thực tuyệt đối khi
thực hiện nhiệm vụ.

15
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


b.

Luận văn tốt nghiệp
Độc lập, khách quan

Học viện Tài chính

Trong hoạt động kiểm toán, KTVNB phải thật sự độc lập, khách quan,
không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần
khi kiểm toán và đưa ra kết luận, kiến nghị kiểm toán. Độc lập với các
ĐVĐKT và các nhóm lợi ích bên ngoài khác là yêu cầu cần thiết đối với
KTVNB. KTVNB không chỉ độc lập với ĐVĐKT và các nhóm lợi ích khác
mà còn phải khách quan khi xây dựng chiến lược kiểm toán, kế hoạch kiểm
toán và lựa chọn chủ đề kiểm toán cũng như khi giải quyết các vấn đề phát
sinh trong hoạt động kiểm toán. Sự độc lập và không thiên vị không chỉ biểu

hiện ở hình thức bên ngoài mà phải đảm bảo là độc lập thật sự trong mọi hoạt
động kiểm toán.
c.

Trình độ năng lực và kỹ năng chuyên môn
c.1. Trình độ, năng lực
KTVNB có nghĩa vụ thực hiện công việc một cách chuyên nghiệp;
tuân thủ pháp luật, các quy định nội bộ của Công ty và các chuẩn mực nghề
nghiệp trong hoạt động kiểm toán nhằm đảm bảo chất lượng khi thực hiện
nhiệm vụ
c.2. Kỹ năng chuyên môn
KTVNB phải có các kỹ năng chuyên môn để thực hiện các công việc
của một cuộc kiểm toán; có khả năng vận dụng các kỹ năng chuyên môn phù
hợp với sự đa dạng, phức tạp của nhiệm vụ được giao.
KTVNB phải có kỹ năng lập kế hoạch, chương trình kiểm toán; kỹ
năng thu thập, phân tích thông tin, thu thập bằng chứng kiểm toán để đưa ra
các kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán hoặc đưa ra ý kiến
trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết; kỹ năng lập báo cáo kiểm
toán, thuyết trình, thảo luận và các kỹ năng bổ trợ cần thiết khác phục vụ cho
công việc kiểm toán.

16
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


d.

Luận văn tốt nghiệp

Thận trọng nghề nghiệp

Học viện Tài chính

KTVNB phải thực hiện công việc với sự thận trọng cần thiết trong
mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán. KTVNB phải có thái độ hoài nghi nghề
nghiệp trong quá trình lập kế hoạch thực hiện kiểm toán, phải luôn có ý thức
rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến sai sót trọng yếu trong các giải
trình, báo cáo của ĐVĐKT.
e. Bảo mật thông tin

KTVNB phải có trách nhiệm thực hiện các quy định của Pháp luật,
các quy định nội bộ của Công ty về bảo mật thông tin, bí mật của ĐVĐKT về
những thông tin mà KTVNB đã thu thập được trong hoạt động kiểm toán;
không tiết lộ thông tin dưới bất kỳ hình thức nào khi chưa được phép của cấp
quản lý có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo quy định của
Pháp luật.

1.2. KTNB TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.2.1. Cơ cấu tổ chức
Theo điều 12, mục 2 thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ
thống kiểm soát nội bộ và KTNB của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
quy định về tổ chức của KTNB như sau: KTNB của TCTD (trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này) được tổ chức thành hệ thống thống nhất theo
ngành dọc hoặc tổ chức bộ phận KTNB tại hội sở chính tùy theo quy mô, mức
độ, phạm vi và đặc thù hoạt động của TCTD. KTNB trực thuộc BKS và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của BKS. Căn cứ vào quy mô, mức độ, phạm vi và đặc
điểm hoạt động của TCTD và trên cơ sở đề nghị của BKS, HĐTV quyết định
về tổ chức bộ máy của KTNB, chế độ lương, thưởng, phụ cấp trách nhiệm của
trưởng KTNB, phó trưởng KTNB và kiểm toán viên nội bộ.


1.2.2. Phạm vi của KTNB
Phạm vi của KTNB bao gồm:

17
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
- Kiểm toán tất cả các hoạt động, các quy trình nghiệp vụ và các đơn vị, bộ
phận của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
-

Kiểm toán đột xuất và tư vấn theo yêu cầu của HĐQT, HĐTV, BKS, TGĐ
(Giám đốc).

1.2.3. Nội dung KTNB tại các TCTD
Nội dung chính của hoạt động KTNB là đánh giá tính đầy đủ, hiệu lực
và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Tùy theo quy mô, mức độ rủi ro cũng như yêu cầu cụ thể của từng
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, KTNB rà soát, đánh giá những nội
dung sau:
-

Mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ;

-


Việc áp dụng, tính hiệu lực, hiệu quả của việc triển khai các chính sách và quy
trình quản lý rủi ro của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bao gồm cả
các quy trình được thực hiện bằng hệ thống công nghệ thông tin;

-

Tính đầy đủ, chính xác và an toàn của hệ thống thông tin quản lý và hệ thống
thông tin tài chính, bao gồm cả hệ thống thông tin điện tử và dịch vụ ngân
hàng điện tử;

-

Tính đầy đủ, kịp thời, trung thực, hợp lý và mức độ chính xác của hệ thống
hạch toán kế toán và các BCTC theo quy định của pháp luật.

-

Tuân thủ các quy định của pháp luật, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quy định nội
bộ, quy trình, quy tắc tác nghiệp, quy tắc đạo đức nghề nghiệp;

-

Các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của TCTD,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

-

Các biện pháp đảm bảo an toàn tài sản. Đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao

hiệu quả của các hệ thống, quy trình, quy định, góp phần bảo đảm TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật;

18
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
- Đánh giá tính kinh tế và hiệu quả của các hoạt động, của việc sử dụng các
nguồn lực, qua đó xác định mức độ phù hợp giữa kết quả hoạt động đạt được
và mục tiêu hoạt động đề ra;
-

Thực hiện các nội dung khác có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
KTNB theo yêu cầu của BKS và của HĐQT, HĐTV.

1.2.4. Phương pháp tiếp cận của KTNB
Phương pháp KTNB là Phương pháp kiểm toán “kiểm toán định hướng
theo rủi ro”, ưu tiên tập chung nguồn lực để kiểm toán các đơn vị bộ phận,
quy trình được đánh giá có mức độ rủi ro cao.
KTNB phải xác định, phân tích, đánh giá những rủi ro và xây dựng hồ sơ
rủi ro cho từng hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hồ sơ rủi
ro bao gồm toàn bộ các rủi ro tiềm tàng, tác động có thể có của các rủi ro đó đối
với hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khả năng xảy ra
những rủi ro đó. Dựa trên đánh giá về tác động, khả năng xảy ra của các rủi ro;
từng rủi ro được phân loại thành rủi ro cao, trung bình hoặc thấp. Việc đánh giá,
phân loại rủi ro phải được thực hiện ít nhất một năm một lần.

Kết quả đánh giá rủi ro sẽ là căn cứ để Trưởng KTNB làm việc với BKS,
TGĐ (Giám đốc) và HĐQT, HĐTV trong quá trình lập kế hoạch KTNB hàng
năm. Các hoạt động có rủi ro sẽ được xếp hạng theo thứ tự từ cao đến thấp,
trong đó những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ được ưu tiên tập trung
nhiều nguồn lực, thời gian hơn để kiểm toán, được kiểm toán trước và được
kiểm toán thường xuyên hơn các hoạt động có rủi ro thấp hơn.
Kế hoạch KTNB phải được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá rủi ro và
phải được cập nhật, thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các diễn biến, thay đổi
trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và sự thay đổi
của các rủi ro đi kèm theo.

1.3. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TSCĐ VÀ CCDC
1.3.1. Khái niệm và vai trò của TSCĐ và CCDC
19
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
a. Khái niệm TSCĐ và CCDC

Học viện Tài chính

TSCĐ là một bộ phận chủ yếu của tư liệu lao động, đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của DN. TSCĐ trong DN là những
tư liệu lao động chủ yếu và các tài sản khác có giá trị lớn tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, giá trị của nó được chuyển dịch dần
dần, từng phần vào giá trị sản phẩm, dịch vụ được sản xuất ra trong chu
kỳ sản xuất.

Theo Chuẩn mực kế toán quốc tế về TSCĐ (IAS 16) “Tài sản, nhà
máy và thiết bị”, Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 03 “ TSCĐ hữu hình”,
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 “TSCĐ vô hình”.
Tài sản: Là một nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và dự tính
đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho doanh nghiệp
TSCĐ: Là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lớn và thời
gian luân chuyển vốn dài, được sử dụng trong nhiều chu kỳ kinh doanh.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ sẽ bị hao mòn dần và giá trị
của nó được dịch chuyển từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh
nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến khi bị hư hỏng .
TSCĐ của doanh nghiệp bao gồm:
TSCĐ hữu hình: Là những tài sản có hình thái vật chất do doanh
nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp
với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình.
TSCĐ vô hình: Là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định
được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh
doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với
tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình.
Các tài sản được ghi nhận là TSCĐ khi thỏa mãn đồng thời tất cả bốn
(4) tiêu chuẩn:
-

Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản;

-

Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;
20
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh


Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
- Thời gian sử dụng ước tính trên một năm;
-

Học viện Tài chính

Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành.
Hiện nay, theo thông tư mới nhất của Bộ tài chính – Thông tư số
45/2013/TT-BTC ngày 25 tháng 4 năm 2013 của Bộ Tài chính quy định
TSCĐ phải có 2 điều kiện: Giá trị tài sản từ 30 triệu đồng trở lên và thời
gian sử dụng hữu ích trên một năm.
CCDC: CCDC là những tư liệu lao động tham gia vào một hay nhiều
chu kỳ sản xuất kinh doanh, Trong thời gian sử dụng CCDC cũng bị hao mòn
dần về mặt giá trị giống như TSCĐ tuy nhiên do thời gian sử dụng ngắn và
giá trị thấp chưa đủ điều kiện để làm TSCĐ. Theo thông tư 45/2013/TT-BTC
về chế độ quản lý và trích khấu hao TSCĐ thì đối với những tư liệu lao động
có giá trị nhỏ hơn 30 triệu động không đủ điều điện trở thành TSCĐ thì được
xếp vào loại CCDC và có thời gian phân bổ tối đa không quá 36 tháng (không
quá 3 năm).

b. Vai trò TSCĐ và CCDC

TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh của Doanh nghiệp. Nó gắn liền với Doanh nghiệp trong suốt quá
trình tồn tại. Doanh nghiệp có TSCĐ có thể không lớn về mặt giá trị nhưng
tầm quan trọng của nó lại không nhỏ chút nào. Cũng như các loại hình doanh
nghiệp, TSCĐ là những cơ sở vật chất, tư liệu lao động không thể thiếu được

đối với các TCTD. Với sự phát triển của nền kinh tế và những tiến bộ của
khoa học công nghệ, TSCĐ trong các TCTD không ngừng được đổi mới, hiện
đại hóa để góp phần nâng cao năng suất lao động và các sản phẩm dịch vụ
cung cấp đến cho Khách hàng. Trong xu thế hội nhập quốc tế và hiện đại hóa
của các TCTD thì TSCĐ là cơ sơ vật chất và phương tiện cần thiết để phát
triển các sản phẩm dịch vụ tín dụng ngày càng hiện đại.
CCDC là những tư liệu lao động có giá trị nhỏ hơn 30 triệu và có vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhất là đối với

21
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
ngành tín dụng ngân hàng, CCDC chiếm một tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu tài
sản của đơn vị.
1.3.2. Đặc điểm của TSCĐ và CCDC ảnh hưởng đến các thông tin trong
BCTC
a. Đặc điểm của TSCĐ
Do TSCĐ thường có giá trị lớn, quá trình mua sắm và trang bị TSCĐ
trong DN thường không nhiều và diễn ra không đều đặn, TSCĐ thường có
thời gian sử dụng lâu dài, thời gian quản lý các tài sản này tại doanh
nghiệp thường lớn. Việc tính toán, trích và phân bổ chi phí khấu hao
TSCĐ ảnh hưởng đến rất nhiều chỉ tiêu trên BCTC như giá vốn hàng bán,
chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, lợi nhuận... Do vậy,
những sai sót xảy ra đối với TSCĐ thường gây ra những ảnh hưởng trọng
yếu đến BCTC.

Những nghiệp vụ mua sắm, đầu tư TSCĐ luôn đòi hỏi một quy trình
kiểm soát rất chặt chẽ, từ việc lên chủ trương, mục đích mua sắm, đầu tư,
đề nghị mua sắm, đầu tư, phê duyệt, ký kết hợp đồng mua sắm, đầu tư đến
việc bàn giao, nghiệm thu, đưa vào sử dụng và thanh toán các khoản chi
phí phát sinh, tất cả đều đòi hỏi có đầy đủ hồ sơ chứng từ cần thiết. Do
đó, khi kiểm toán các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ, KTVNB phải chú ý
kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ của các bộ hồ sơ cho các nghiệp vụ đó.
TSCĐ có thể được hình thành tư nhiều nguồn như mua sắm, đầu tư
xây dựng cơ bản, thuyên chuyển... Do đó các khoản chi phí phát sinh liên
quan đến việc hình thành TSCĐ rất phức tạp, đa dạng, đòi hỏi việc tính
toán, ghi nhận nguyên giá của TSCĐ phải được thực hiện một cách chính
xác đúng đắn. Mặt khác, trong năm cũng phát sinh các nghiệp vụ liên
quan đến sửa chữa, nâng cấp TSCĐ, từ đó phát sinh các chi phí sau ghi
nhận ban đầu. Việc phân loại, hạch toán các chi phí này vào chi phí trong
kỳ hay ghi nhận tăng nguyên giá TSCĐ cũng phải tuân thủ những nguyên
tắc nhất định. Do đó, khi kiểm toán các nghiệp vụ tăng TSCĐ trong năm
22
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
của đơn vị, KTVNB cần phải kiểm tra xem việc ghi nhận nguyên giá cũng
như các chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu của đơn vị có được đầy đủ
và chính xác hay không, đảm bảo việc trình bày giá trị TSCĐ trên BCTC
là đúng đắn.
TSCĐ là một bộ phận cấu thành khoản mục TSCĐ trên Bảng cân đối kế
toán, thuộc phần tài sản của đơn vị. Do đó khi kiểm toán TSCĐ, ngoài việc

kiểm tra trên giấy tờ, KTVNB còn phải kiểm tra về mặt vật chất của đơn vị để
đảm bảo tính hiện hữu, đầy đủ của TSCĐ được trình bày trên BCTC. Chi phí
khấu hao TSCĐ là một bộ phận cấu thành chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Do đó, khi
kiểm toán TSCĐ, KTVNB còn phải kiểm tra đến việc tính và phân bổ khấu
hao, phương pháp khấu hao của doanh nghiệp.
Việc kiểm toán khoản mục TSCĐ không chỉ nhằm phát hiện các sai
sót trong các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ mà còn nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả công tác quản lý TSCĐ ở doanh nghiệp và tham chiếu tới
các phần hành khác.
b. Đặc điểm của CCDC
-

Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, hình thái vật chất ban đầu
vẫn giữ nguyên

-

Giá trị của công cụ dụng cụ được chuyển dần vào giá trị sản phẩm
Tuy nhiên do giá trị của công cụ dụng cụ không lớn nên để đơn giản
trong công tác quản lý và hạch toán thì tính hết giá trị công cụ dụng cụ vào
chi phí sản xuất kinh doanh trong một lần hoặc phân bổ dần trong một số kỳ
kinh doanh nhất định. Vì vậy có các phương pháp phân bổ giá trị công cụ
dụng cụ xuất dùng như sau:

+ Phân bổ một lần (100% giá trị): áp dụng cho những Công cụ dụng cụ có giá

trị nhỏ. Giá trị của công cụ dụng cụ được tính hết vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ
23

Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
+ Phân bổ nhiều lần: Áp dụng cho những công cụ dụng cụ xuất dùng có giá trị
lớn (như trang bị mới hoàn toàn công cụ dụng cụ). Trong trường hợp này phải
căn cứ vào giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng, thời gian sử dụng, mức độ tham
gia của công cụ dụng cụ vào sản xuất để xác định số lần phân bổ và mức phân
bổ cho mỗi lần (tối đa là 36 tháng).
1.3.3. Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với TSCĐ và CCDC
Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát
do ĐVĐKT xây dựng để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian
lận, sai sót; để lập BCTC trung thực hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử
dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị.
Mục tiêu KSNB đối với BCTC:
-

Nghiệp vụ TSCĐ và CCDC được thực hiện sau khi đã có sự chấp thuận
của những người có thẩm quyền, có căn cứ hợp lý.

-

Các nghiệp vụ TSCĐ và CCDC phát sinh được ghi chép kịp thời, đầy đủ
và chính xác vào các tài khoản trong kỳ kế toán phù hợp, làm cơ sở lập
BCTC phù hợp với chế độ kế toán theo quy định hiện hành.

-


Các tài sản ghi trong sổ kế toán được đối chiếu với tài sản theo kết quả
kiểm kê thực tế ở những thời điểm nhất định và có biện pháp thích hợp để
xử lý nếu có chênh lệch.

-

Các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ và CCDC đã được đầu tư đúng đắn
đúng với kế hoạch kinh doanh hằng năm hay không, việc mua sắm tài sản
đã đúng mục đích sử dụng hay chưa?

+ Tổ chức quản lý và bảo quản TSCĐ và CCDC về mặt hiện vật: Bao gồm

quản lý cả về mặt số lượng và chất lượng của TSCĐ và CCDC.
+ Về mặt số lượng: Bộ phận mua sắm và quản lý tài sản phải đảm bảo tính

đầy đủ về số lượng TSCĐ và CCDC hiện có trong đơn vị, tránh mất mát.
+ Về mặt chất lượng: Bộ phận mua sắm và quản lý tài sản phải đảm bảo

việc quản lý TSCĐ và CCDC hoạt động đúng công suất, chất lượng, tránh
24
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
hỏng hóc, không sử dụng được hoặc không thực hiện đúng chức năng của
nó.

+ Về mặt giá trị:
 Đối với TSCĐ: phải được quản lý chặt chẽ về mặt nguyên giá, giá trị hao

mòn và giá trị còn lại. Trong quá trình quản lý đòi hỏi đơn vị phải theo
dõi chặt chẽ tình hình tăng, giảm giá trị TSCĐ. Việc áp dụng các chính
sách khấu hao và phân bổ một cách hợp lý chi phí khấu hao TSCĐ cho
các đối tượng cũng là một trong các mục đích quan trọng của bước kiểm
soát này. Đây là những công việc chủ yếu trong hạch toán kế toán TSCĐ.
Công việc này đảm bảo cho ban quản lý có thể biết được chính xác, đầy
đủ và kịp thời những thông tin về mặt giá trị của từng loại TSCĐ trong
doanh nghiệp tại từng thời điểm xác định.
 Đối với CCDC: Thực hiện theo dõi chặt chẽ các khoản tăng giảm CCDC

trong kỳ, thời gian phân bổ đối với từng loại CCDC để thực hiện phân bổ
CCDC vào chi phí một cách hợp lý.
-

Tổ chức ghi nhận các khoản nợ phải trả phát sinh trong quá trình đầu tư,
mua sắm tài sản

-

Xử lý và ghi sổ các khoản chi thanh toán tiền mua sắm, đầu tư tài sản

-

Tổ chức xem xét, phê chuẩn và xử lý các nghiệp vụ thanh lý nhượng bán
Để thực hiện tốt các bước công việc phải tiến hành đối với các
nghiệp vụ về mua sắm và quản lý tài sản thì hệ thống KSNB của đơn vị
khi xây dựng phải được tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau:

Thực hiện nguyên tắc bất kiêm nhiệm đối với hệ thống: nguyên tắc
này đòi hỏi phải tách biệt công tác quản lý sử dụng với công tác ghi chép
quản lý; giữa bộ phận quản lý sử dụng với chức năng quyết định phê
chuẩn các nghiệp vụ mua bán, điều động, thuyên chuyển và sửa chữa giữa
người mua, bán với bộ phận sử dụng và bộ phận kế toán.

25
Sv: Đoàn Thị Ngọc Linh

Lớp: CQ52/22.08


×