Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia khu vực châu á thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.96 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



------

------

TRỊNH THỊ HỒNG NGỌC

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA KHU VỰC CHÂU
Á THÁI BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



------

------

TRỊNH THỊ HỒNG NGỌC


MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA KHU VỰC CHÂU
Á THÁI BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHÙNG ĐỨC NAM

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế ở một số quốc gia Châu Á Thái Bình Dương là công trình do chính
tác giả thực hiện cùng với sự hướng dẫn của TS. Phùng Đức Nam.
Nội dung nghiên cứu được đúc từ quá trình học tập và kết quả nghiên cứu
thực tiễn trong thời gian qua. Các thông tin, dữ liệu nghiên cứu trong đề tài này là
trung thực và chính xác. Các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố tại
bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
Tác giả luận văn

Trịnh Thị Hồng Ngọc


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT ..................................................................................................................

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .......................................................................

2

1.1 Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 5
1.3 Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 5
1.4 Ý nghĩa đề tài ......................................................................................................... 5
1.5 Bố cục đề tài .......................................................................................................... 6
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY .............................................................................

7

2.1 Cơ sở lý thuyết ...................................................................................................... 7
2.1.1 Lý thuyết về phát triển tài chính ........................................................................ 7
2.1.2 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế ...................................................................... 11
2.1.3 Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế .......................... 14
2.2 Bằng chứng thực nghiệm .................................................................................... 16
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 26
3.1 Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 26
3.2 Mô tả các biến .................................................................................................... 27
3.3 Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................................. 33

3.4 Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 35
3.4.1 Các phương pháp phân tích và kiểm định ........................................................ 35
3.4.2 Phương pháp ước lượng hồi quy ...................................................................... 39
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 41
4.1 Phân tích thống kê mô tả ..................................................................................... 41


4.2 Phân tích thành phần chính biến sự phát triển tài chính ..................................... 44
4.3 Kiểm định sự tương quan và đa cộng tuyến....................................................... 47
4.3.1 Ma trận tương quan đơn tuyến tính giữa các cặp biến ..................................... 47
4.3.2 Kiểm định đa cộng tuyến ................................................................................. 49
4.3.3 Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi phần dư - Greene (2000) ............. 49
4.3.4 Kiểm định hiện tượng tự tương quan– Wooldridge (2002), Drukker (2003) .. 49
4.3.5 Kiểm định tính dừng dữ liệu bảng Breitung .................................................... 50
4.4 Phân tích kết quả hồi quy .................................................................................... 51
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ...................................................................................... 59
5.1 Kết luận nghiên cứu chính .................................................................................. 59
5.2 Kiến nghị ............................................................................................................. 59
5.3 Hạn chế của đề tài ............................................................................................... 60
5.4 Hướng nghiên cứu mở rộng ................................................................................ 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

HIỆU


TẢ


CST
T

VA
R

FD

VE
CM

FDI
FE
M
GD
P
GM
M
GNI
GN
P
M1
M2
M3
NH
TM
NH
TW
NNI

NN
P
OL
S
PC
A
RE
M


Chính sách tiền tệ
Phát triển tài chính
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Mô hình tác động cố định
Tổng sản phẩm quốc nội
Phương pháp hồi quy
Tổng thu nhâp quốc gia

Ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương
Thu nhập quốc gia ròng
Sản phẩm quốc gia ròng
Bình phương bé nhất
Phân tích thành phần
chính

Tổng sản phẩm quốc gia

Mô hình tác động ngẫu

nhiên

Lượng cung tiền

Vector tự hồi quy

Lượng cung tiền

Mô hình vector hiệu
chỉnh sai số

Lượng cung tiền


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm

23

Bảng 3.1

Tóm tắt các biến trong mô hình thực nghiệm


32

Bảng 4.1

Thống kê mô tả giữa các biến trong mô hình

43

Bảng 4.2

Kết quả phân tích thành phần chính Fdindex1

47

Bảng 4.3

Kết quả phân tích thành phần chính Fdindex2

47

Bảng 4.4

Kết quả ma trận tương quan đơn tuyến tính Pearson

48

Bảng 4.5

Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi mô hình


49

Bảng 4.6

Kết quả kiểm tra tự tương quan mô hình

50

Bảng 4.7

Kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình

50

Bảng 4.8

Kết quả hồi quy mô hình theo phương pháp SCC

53


1

TÓM TẮT

Trong bài nghiên cứu này, tác giả tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để điều tra mối
quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia khu vực
Châu Á Thái Bình Dương. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình ước lượng hồi quy SCC
dựa trên nghiên cứu Daniel Hoechle (2007) áp dụng phương pháp điều chỉnh độ

lệch chuẩn của Driscoll-Kraay (1998). Phương pháp hồi quy SCC trên dữ liệu bảng
cho kết quả ước lượng vững và hiệu quả, khắc phục được phương sai thay đổi, tự
tương quan, nội sinh và hơn nữa khắc phục được tương quan chéo của yếu tố không
gian quốc gia, đã được chứng minh bằng mô phỏng dữ liệu Monte Carlo của Daniel
Hoechle (2007). Nguồn dữ liệu của bài nghiên cứu sẽ sử dụng một bộ dữ liệu bảng
(Panel data) từ 17 quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong giai đoạn
từ năm 1998 đến năm 2016, với kỳ quan sát tính theo năm. Kết quả của bài nghiên
cứu cho thấy có tồn tại mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế


một số quốc gia khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Và phát triển tài chính có mối
quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế. Kết quả này phù hợp với các bài nghiên
cứu trước đây, do đó bài nghiên cứu đã góp phần quan trọng trong việc củng cố các
nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Từ khóa: Phát triển tài chính, tăng trưởng kinh tế, thước đo phát triển tài chính,
phân tích thành phần chính.


2

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1 Lý do chọn đề tài
Một thống kê quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế của bất kỳ nền kinh tế nào
là tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế hàng năm. Có rất nhiều nghiên cứu cố gắng xác
định các động lực chính của tăng trưởng kinh tế và tiềm năng của tăng trưởng kinh
tế với sự khác biệt về không gian các quốc gia và thời gian từ cả hai quan điểm lý
thuyết và thực nghiệm. Mức độ phát triển tài chính đã được xác định là một trong
những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bằng chứng này không
phải là kết luận và vẫn đang diễn ra tranh luận cho rằng liệu sự phát triển tài chính
là nguyên nhân hay bị ảnh hưởng bởi tăng trưởng kinh tế. Một tranh luận khác của

lý thuyết tăng trưởng là vấn đề đo lường phù hợp hoặc chính xác của các thước đo
đại diện cho phát triển tài chính.
Các lý thuyết hiện có đã xác định được nhiều kênh truyền dẫn thông qua đó sự
phát triển tài chính có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua các ảnh
hưởng của chúng đối với hành vi tiết kiệm và đầu tư. Theo Levine (2004), phát triển
tài chính bao gồm: (1) xử lý thông tin về khả năng đầu tư và phân bổ nguồn vốn; (2)
giám sát các khoản đầu tư và cung cấp cách thức quản trị doanh nghiệp sau khi cung
cấp tài chính; (3) tạo thuận tiện cho việc giao dịch, đa dạng hóa và quản trị rủi ro;
(4) huy động và tập hợp các khoản tiết kiệm; và (5) trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Mỗi chức năng tài chính có thể ảnh hưởng đến các quyết định về tiết kiệm và quyết
định đầu tư và do đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Giả thuyết cho rằng phát triển tài chính là động lực thúc đẩy quan trọng cho sự
tăng trưởng kinh tế hiện nay đang phổ biến ở một số nhà nghiên cứu tăng trưởng
thực nghiệm. Vai trò mà các thị trường tài chính và vai trò của các trung gian tài
chính đối với tăng trưởng kinh tế rất khác nhau giữa các quốc gia, tùy thuộc vào
mức độ tự do chính trị, luật pháp và bảo vệ quyền sở hữu. Theo đánh giá của
Aghion và Howitt (2009), người dân sẵn sàng tiết kiệm nhiều hơn, và do đó cung
cấp nguồn lực cho các nhà đầu tư ở một quốc gia có các ngân hàng hoạt động hiệu


3

quả và đáng tin cậy hơn ở một quốc gia nơi các ngân hàng hoạt động có thể lãng phí
tài sản của người gửi tiền thông qua các khoản cho vay xấu thậm chí lừa đảo họ.
Các tổ chức tài chính và thị trường tài chính cũng giúp giải quyết các rủi ro cũng
như phân bổ tối ưu giữa rủi ro và lợi nhuận. Ví dụ, bằng cách thu thập tiền tiết kiệm
từ nhiều người và đầu tư vào một loạt các dự án đa dạng, một tổ chức tài chính cho
phép những người tiết kiệm nhỏ tận dụng luật lệ để có tỷ lệ lợi nhuận an toàn hợp
lý. Các tổ chức tài chính hoạt động tốt cũng có thể giúp giảm bớt các vấn đề đại
diện bằng cách giám sát các nhà đầu tư và đảm bảo rằng họ đang sử dụng các khoản

vay của họ hiệu quả hơn là chi tiêu cho tiêu dùng tư nhân hoặc lừa đảo người cho
vay cuối cùng (Aghion và Howitt, 2009).
Mặc dù hầu như không có quan điểm mâu thuẫn về việc phát triển tài chính có
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ góc độ tăng trưởng kinh tế ngoại sinh và tăng trưởng
kinh tế nội sinh, nhưng dường như không có chỉ số nào được thống nhất để đo
lường phát triển tài chính. Bởi vì có các kênh truyền dẫn, từ phát triển tài chính đến
tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các thước đo phát triển tài chính được sử dụng,
nhiều tác giả đã đưa ra các kết luận khác nhau, tùy thuộc vào chỉ số được sử dụng
để đại diện cho phát triển tài chính. Hơn nữa, sự liên quan của mỗi kênh truyền là
đặc trưng của quốc gia, do sự khác biệt về chính trị, pháp lý và các khác biệt về thể
chế khác nhau theo không gian và thời gian. Điều này ngụ ý rằng, quốc gia nào sử
dụng nhiều chỉ số đo lường phát triển tài chính hơn thì có nhiều khả năng hiểu rõ
hơn về các tác động của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế (George Adu và
các cộng sự, 2013). Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều chỉ số đo lường phát triển tài
chính trong cùng một phương trình sẽ dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến.
Do đó, trong bài nghiên cứu này tác giả sẽ kết hợp các chỉ số đo lường phát triển
tài chính với nhau để tạo ra một chỉ số tổng hợp có khả năng đại diện cho nhiều chỉ
số phát triển tài chính khác nhau nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển tài
chính đối với tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia khu vực Châu Á Thái Bình
Dương.


4

Về tính mới, nghiên cứu về phát triển tài chính ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
đã có nhiều nghiên cứu trước đây thực hiện. Ở khía cạnh bài nghiên cứu này, tác giả
nghiên cứu tại các quốc gia khu vực Châu Á Thái Bình Dương và cập nhật thời
điểm nghiên cứu đến năm gần nhất, đây là khu vực các quốc gia có nhiều hiệp định
thương mại và ảnh hưởng kinh tế lẫn nhau. Tác giả tìm thấy nhóm các quốc gia này
chưa được nghiên cứu về chủ đề phát triển tài chính ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế,

đây là tính mới thứ nhất của bài. Nghiên cứu trên dữ liệu bảng cho phép đo lường
loại bỏ các đặc điểm không thể đo lường được trên dữ liệu chuỗi thời gian, đó là
tính đặc trưng của các quốc gia như vị trí địa lý, văn hóa, ngoại ngữ… đây chính là
ưu điểm của dữ liệu bảng, theo Baltagi (2008).
Tính mới thứ hai tác giả muốn đóng góp đó là tiếp cận đo lường phát triển tài
chính, tác giả sử dụng hơn hai phương pháp đo lường thành phần chính thứ nhất dựa
trên các tiếp cận khác nhau của nghiên cứu trước, kèm theo đo lường tác động đơn
của các yếu tố vĩ mô trong bộ chỉ tiêu thành phần của thành phần chính thứ nhất.
Mục đích là so sánh đối chiếu tăng tính tin cậy của kết quả thực nghiệm.
Ngoài ra, tính mới tiếp theo là sử dụng phương pháp SCC dựa trên nghiên cứu
Daniel Hoechle (2007) áp dụng phương pháp điều chỉnh độ lệch chuẩn của DriscollKraay (1998). Phương pháp hồi quy SCC trên dữ liệu bảng cho kết quả ước lượng
vững và hiệu quả, khắc phục được phương sai thay đổi, tự tương quan, nội sinh và
hơn nữa khắc phục được tương quan chéo của yếu tố không gian quốc gia, đã được
chứng minh bằng mô phỏng dữ liệu Monte Carlo của Daniel Hoechle (2007).
Phương pháp hồi quy này đưa ra hiệu quả ước lượng hệ số tốt hơn, độ lệch chuẩn
ước lượng nhỏ hơn, đạt tính vững và hiệu quả với nhiều dạng dữ liệu mô phỏng vi
phạm các giả thiết định lượng. Phương pháp này phù hợp với mọi dạng cỡ mẫu dữ
liệu. Tương quan phụ thuộc chéo (cross-section dependence) là yếu tố ít được kiểm
soát trong các nghiên cứu trước đây về cùng chủ đề, do đó các nhiễu trong mối quan
hệ giữa quốc gia này có thể ảnh hưởng tới quốc gia kia không được kiểm soát.
Trong khi môi trường vĩ mô ngày càng tự do hóa và mở cửa.


5

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này nhằm mục tiêu kiểm định mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Cụ thể xem xét sự tồn tại mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh
tế ở các quốc gia này. Nếu tồn tại mối quan hệ này thì mối quan hệ là tích cực hay

tiêu cực. Đúc kết và tổng hợp các bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về mối
quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế; dùng mô hình thực nghiệm
để kiểm định mối quan hệ này và kiểm định sự tác động của phát triển tài chính lên
tăng trưởng kinh tế. Bài nghiên cứu trả lời các câu hỏi:
-

Có tồn tại mối quan hệ giữa phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế ở một số
quốc gia khu vực Châu Á Thái Bình Dương hay không?
-

Tác động của phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này
là tích cực hay tiêu cực?

1.3 Phương pháp nghiên cứu
Đầu tiên tác giả thực hiện các phương pháp kiểm tra tính tương quan, đa cộng
tuyến, phương sai của nhiễu và tự tương quan trong mô hình, tác giả sẽ bắt đầu tiến
hành kiểm định việc lựa chọn mô hình ước lượng hồi quy nhằm khắc phục khiếm
khuyết định lượng.
Sau đó tiến hành phân tích hồi quy dữ liệu bảng bằng phương pháp SCC, phương
pháp này sẽ khắc phục những nhược điểm của các mô hình dữ liệu bảng bao gồm
các vấn đề phương sai của phần nhiễu thay đổi (heteroskedasticity), tự tương quan
của nhiễu (autocorrelation noise), tương quan phụ thuộc chéo và kể cả nội sinh
trong mô hình nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững và hiệu quả, đây cũng là
phương pháp chính mà tác giả sử dụng để thảo luận kết quả cho bài nghiên cứu.
1.4 Ý nghĩa đề tài
Về mặt lý luận, đề tài đã hệ thống hóa các nghiên cứu lý thuyết trước đây về mối
quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.


6


Về mặt thực tiễn, đề tài đóng góp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ phát
triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia trong khu vực Châu Á Thái
Bình Dương. Đây là khu vực có nhiều sự chuyển dịch kinh tế từ những nước kém
phát triển, thu nhập thấp thành những nước phát triển, thu nhập cao. Sử dụng
phương pháp phân tích thành phần chính và phương pháp ước lượng SCC để cho
thấy mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
trong khu vực này. Từ đó cung cấp cơ sở để đưa ra các khuyến nghị trong phạm vi
phù hợp tăng trưởng trong khu vực nói chung và các khu vực khác nói riêng.
1.5 Bố cục đề tài
Nội dung chính của luận văn bao gồm 5 chương, được trình bày cụ thể theo trình tự
sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài.
Tác giả làm rõ lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đồng thời
giới thiệu tổng quan về phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa khi thực hiện đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý luận khoa học và các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới
về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Tác giả trình bày sơ lược những nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm trên
thế giới về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Trình bày phương pháp nghiên cứu, giải thích các biến độc lập và biến phụ
thuộc trong mô hình, mô tả các đặc điểm của mô hình thực nghiệm, các giả định đặt
ra để kiểm định và nguồn dữ liệu để thực hiện nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế tại một số quốc gia khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Chương 5: Kết luận.
Tổng kết lại các vấn đề nghiên cứu, kết luận lại kết quả thực nghiệm từ mô
hình nghiên cứu, nêu lên những hạn chế của đề tài và hướng mở rộng đề tài.



7

CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Lý thuyết về phát triển tài chính
Khu vực tài chính là tập hợp các tổ chức tài chính, công cụ tài chính, thị
trường tài chính, cũng như khung pháp lý và các quy định cho phép giao dịch được
thực hiện bằng cách mở rộng tín dụng. Phát triển tài chính nói chung được định
nghĩa là sự cải thiện số lượng, chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ trung gian tài
chính. Về cơ bản, phát triển của khu vực tài chính là khắc phục chi phí phát sinh
trong hệ thống tài chính. Chi phí thu thập thông tin, chi phí thực thi hợp đồng và chi
phí giao dịch tạo ra động cơ cho sự xuất hiện của các loại hợp đồng tài chính, thị
trường tài chính và trung gian tài chính. Mỗi loại chi phí khác nhau và kết hợp các
chi phí này với các hệ thống pháp luật, quy định và thuế khác nhau đã làm cho các
hợp đồng tài chính, thị trường tài chính và các bên trung gian tài chính rõ ràng minh
bạch giữa các quốc gia và trong suốt lịch sử.
Để đánh giá xem các hệ thống tài chính ảnh hưởng như thế nào đến các quyết
định về tiết kiệm và đầu tư và từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, Levin 2004
tập trung vào năm chức năng phổ biến của hệ thống tài chính để giảm chi phí thông
tin, chi phí thực thi và chi phí giao dịch. Đó là:
 Cung cấp thông tin về khả năng đầu tư và phân bổ vốn
 Theo dõi các khoản đầu tư và thực hiện quản trị doanh nghiệp sau khi cung cấp tài

chính
 Tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh, đa dạng hóa và quản lý rủi ro
 Huy động và tập hợp các khoản tiết kiệm

 Dễ dàng trao đổi hàng hóa và dịch vụ


8

Sự phát triển tài chính xuất hiện khi các công cụ tài chính, thị trường tài chính và
các bên trung gian tài chính cải thiện - mặc dù không nhất thiết phải loại bỏ những
ảnh hưởng của chi phí thông tin,chi phí thực thi và các chi phí giao dịch và từ đó
làm tốt hơn công việc tương ứng khi cung cấp năm chức năng tài chính. Do đó, phát
triển tài chính liên quan đến việc cải tiến các chức năng tài chính như trên. Mỗi
chức năng tài chính này có thể ảnh hưởng đến các quyết định về tiết kiệm và đầu tư
và từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Tầm quan trọng của phát triển tài chính
Có nhiều bằng chứng cho thấy sự phát triển của khu vực tài chính đóng một
vai trò rất lớn trong tăng trưởng kinh tế. Phát triển tài chính thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua việc tích lũy vốn và tiến bộ công nghệ bằng cách tăng tỷ lệ tiết
kiệm, huy động và tổng hợp tiết kiệm, cung cấp thông tin về đầu tư, tạo điều kiện và
khuyến khích dòng vốn nước ngoài, cũng như tối ưu hoá việc phân bổ vốn.
Các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển tốt hơn có khuynh hướng phát
triển nhanh hơn trong một thời gian dài, và có nhiều bằng chứng cho thấy tác động
này là nhân quả nghĩa là phát triển tài chính không chỉ đơn thuần là kết quả của tăng
trưởng kinh tế mà phát triển tài chính còn đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế.
Phát triển tài chính làm giảm nghèo đói và bất bình đẳng bằng cách mở rộng tiếp
cận tài chính cho người nghèo và các nhóm dễ bị tác động, tạo điều kiện cho quản
lý rủi ro bằng cách giảm tính dễ bị tác động trước những cú sốc và tăng đầu tư, tăng
năng suất, tạo ra thu nhập cao hơn.
Ngoài ra, phát triển ngành tài chính có thể giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng
trưởng bằng cách cung cấp cho họ khả năng tiếp cận tài chính. Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thường có nhiều lao động và tạo ra nhiều việc làm hơn là các công ty
lớn. Các doanh nghiệp này đóng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế

đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi.
Thước đo phát triển tài chính:
Một thước đo tốt về phát triển tài chính là rất quan trọng để đánh giá sự phát
triển của khu vực tài chính và hiểu được tác động của phát triển tài chính đối với


9

tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó để đo lường sự phát triển tài
chính vì phát triển tài chính là một khái niệm rộng lớn và có nhiều khía cạnh. Việc
lựa chọn các biến chính để thể hiện mức độ dịch vụ tài chính cung cấp cho nền kinh
tế, cách đo lường mức độ và hiệu quả của trung gian tài chính là những vấn đề chính
trong các nghiên cứu thực nghiệm. Xây dựng các chỉ số phát triển tài chính là một
nhiệm vụ hết sức khó khăn do sự đa dạng của các dịch vụ tài chính được cung cấp
trong hệ thống tài chính.
Về mặt lý thuyết, không có biến đại diện duy nhất nào có thể đo lường phát
triển tài chính. Về mặt thực nghiệm, có khá nhiều biến đo lường phát triển tài chính
khác nhau được sử dụng trong các nghiên cứu. Có thể phân các biến này thành hai
nhóm: nhóm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng và nhóm liên quan đến thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên, các biến đại diện cho phát triển tài chính liên quan đến
lĩnh vực ngân hàng được sử dụng rộng rãi hơn trong các nghiên cứu so với các biến
liên quan đến thị trường chứng khoán do hạn chế về số liệu ở những quốc gia đang
phát triển.
Hầu hết các tài liệu thực nghiệm về chủ đề này sử dụng tổng tiền tệ như tỷ số
M2 hoặc M3 so với GDP danh nghĩa để nắm bắt quy mô tổng thể và chiều sâu của
khu vực tài chính. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu như Khan và Senhadji (2003)
cho rằng M2/GDP có thể là một đại diện không có giá trị đối với phát triển tài chính
trong trường hợp các nước có hệ thống tài chính kém phát triển vì hai lý do. Thứ
nhất, mức độ tiền tệ hóa cao có thể liên quan đến tình trạng tài chính kém phát
triển.Thứ hai, M2 chủ yếu đáp ứng được chức năng của hệ thống tài chính cung cấp

các dịch vụ trung gian giao dịch hơn là chức năng liên kết giữa các đơn vị có vốn
thặng dư và đơn vị có vốn bị thâm hụt trong nền kinh tế. Một vài bài nghiên cứu của
Beck và cộng sự (2000a); Favara (2003); Deidda và Fattouh (2002) gợi ý sử dụng
M3/GDP, một tổng tiền tệ ít thanh khoản hơn, như là một đại diện cho sự phát triển
tài chính.
M3/GDP đáp ứng được tổng nợ thanh khoản của hệ thống tài chính, bao gồm
các khoản nợ của các ngân hàng, ngân hàng trung ương và các tổ chức trung gian


10

tài chính khác phản ánh tăng trưởng tài chính, và ngược lại liên quan đến dịch vụ tài
chính (King và Levine, 1993a /b ; Demetriades và Hussein, 1996; Favara, 2003).
Tuy nhiên, Fry (1997); Ang và McKibbin (2007) lại cho rằng tổng tiền tệ không
phải là đại diện tốt cho sự phát triển tài chính vì nó phản ánh mức độ dịch vụ giao
dịch được cung cấp bởi hệ thống tài chính chứ không phải là khả năng của hệ thống
tài chính phân phối quỹ từ người gửi tiền cho nhà đầu tư. Do đó, tỷ số tín dụng cho
khu vực tư nhân so với GDP là thước đo thay thế thứ ba được sử dụng rộng rãi nhất
để đo lườngphát triển tài chính (Demetriades và Hussein, 1996; King và Levine,
1993a; Beck và cộng sự, 2000a; Favara, 2003; Liang và Teng , 2006; Arcand và
cộng sự, 2011). Tầm quan trọng của thước đo này nằm ở chỗ tín dụng dành cho khu
vực tư nhân cho phép sử dụng các quỹ và phân bổ cho các hoạt động có hiệu quả
hơn. Thước đo này cũng loại trừ tín dụng do ngân hàng trung ương phát hành và do
vậy đây là một thước đo chính xác hơn về số tiền tiết kiệm mà các trung gian tài
chính chuyển tới khu vực tư nhân.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng thường
xuyên được trích dẫn nhiều nhất là nghiên cứu của King và Levine (1993). Tác giả
của nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bốn thước đo
phát triển tài chính cho 80 nước trong giai đoạn 1960-1989. Bốn thước đo đó là:
- LLY: tỉ lệ giữa nợ thanh khoản so với GDP. Nợ thanh khoản (Liquid liabilities) là

thước đo khái quát của cung tiền (M3) bao gồm: tiền mặt, tài khoản ngân hàng và
tài khoản ở các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Khi số liệu M3 không có sẵn thì tác
giả sử dụng thước đo M2 hẹp hơn trong đó không tính đến tài khoản tiền gởi ngoại
tệ có kỳ hạn, cổ phần trong các quỹ đầu tư và thương phiếu (nợ doanh nghiệp ngắn
hạn).
- BANK: tỉ lệ tài sản ngân hàng so với tài sản ngân hàng + tài sản ngân hàng trung
ương. Mục đích để đo lường tầm quan trọng tương đối của ngân hàng so với cơ
quan tiền tệ.
-

PRIVATE: tỉ lệ các khoản vay cho khu vực tư nhân phi tài chính so với tổng tín
dụng nội địa, đo lường phạm vi tín dụng được chuyển đến khu vực tư nhân.


11
- PRIVY: cũng là một thước đo về sự tham gia của khu vực tư nhân. PRIVY là tỉ lệ

các khoản vay cho khu vực tư nhân phi tài chính so với GDP.
Một số nghiên cứu sử dụng tỷ lệ tài sản ngân hàng thương mại chia cho tổng
tài sản ngân hàng thương mại và tài sản của ngân hàng trung ương (Ang và
McKibbin, 2007; Campos và Kinoshita, 2008; Rioja và Valev, 2004a, b). Biến này
đánh giá tầm quan trọng tương đối của một loại hình tổ chức tài chính cụ thể (các
ngân hàng thương mại) trong hệ thống tài chính. Ang và McKibbin (2007) cho rằng
lợi thế của thước đo này là các ngân hàng thương mại sử dụng hiệu quả hơn các
ngân hàng trung ương thông qua việc tiết kiệm cho các cơ hội đầu tư có lợi nhuận.
Thay vì sử dụng nhiều biến số khác nhau liên quan chặt chẽ đến nhau,
Samargandi, Fidrmuc và Ghosh (2015) xây dựng một chỉ số tổng hợp về phát triển
tài chính để đại diện cho sự phát triển chung trong ngành tài chính. Biến kết quả này
kết hợp ba chỉ tiêu đã được sử dụng rộng rãi trong phát triển tài chính: tỷ lệ nợ phải
trả (hoặc M3) với GDP danh nghĩa; tỷ lệ tài sản ngân hàng thương mại so với tổng

tài sản của ngân hàng thương mại và tài sản ngân hàng trung ương; tỷ lệ tín dụng
ngân hàng cho khu vực tư nhân so với GDP. George Adu (2013) cùng cộng sự cũng
sử dụng một tập hợp các chỉ số đại diện cho phát triển tài chính.
2.1.2 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu khá thống nhất là sự tăng sản lượng thực tế
của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Thước đo phổ biến là
mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một năm hoặc mức tăng GDP bình
quân đầu người trong một năm. Một số nước sử dụng các chỉ số khác để xác định
mức tăng trưởng kinh tế như: GNP (tổng sản phẩm quốc gia); GNI (tổng thu nhập
quốc gia); NNP (sản phẩm quốc gia ròng) hoặc NNI (thu nhập quốc gia ròng). Các
chỉ số trên thường được tính trong một năm và đều có thể sử dụng theo tiêu chí bình
quân trên đầu người.
Tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người chủ yếu là do cải thiện năng suất,
còn được gọi là hiệu quả kinh tế. Tăng năng suất có nghĩa là sản xuất nhiều hàng
hoá và dịch vụ hơn với cùng đầu vào lao động, vốn, năng lượng, và nguyên vật liệu.


12

Tỷ lệ tiết kiệm cao cũng liên quan đến mức sống. Tiết kiệm cao hơn về lâu dài sẽ
dẫn đến sản lượng đầu ra (thu nhập) bình quân đầu người cao hơn do sự tích lũy vốn
của mỗi cá nhân cũng tăng lên. Do đó, tăng trưởng kinh tế thường được tính theo
giá trị thực, tức là các điều khoản có điều chỉnh theo lạm phát, để tránh ảnh hưởng
làm méo mó của lạm phát lên giá hàng hoá sản xuất. Trong kinh tế học, tăng trưởng
kinh tế hay lý thuyết tăng trưởng kinh tế thường đề cập đến tăng trưởng sản lượng
tiềm năng, nghĩa là sản xuất ở mức việc làm đầy đủ, là do tăng trưởng tổng cầu hoặc
đầu ra quan sát được.
Đánh giá được tầm quan trọng của phát triển tài chính đối với tăng trưởng
kinh tế, các nhà nghiên cứu trước đây đã đưa ra nhiều nghiên cứu về vai trò của phát
triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế. Lập luận của các bài nghiên cứu chủ yếu

dựa trên nền tảng các mô hình tăng trưởng như: mô hình tăng trưởng cổ điển, mô
hình tăng trưởng tân cổ điển, mô hình tăng trưởng nội sinh.
Mô hình tăng trưởng cổ điển tiên phong bởi Adam Smith (1776), David
Ricardo (1817) sau đó tiếp tục bởi Ramsey (1928), Harrod (1939) và Domar (1947).
Để giải thích tăng trưởng kinh tế, các lý thuyết cổ điển tập trung vào các yếu tố
trong sản xuất như vốn, lao động, đất đai. Mô hình Harrod – Domar giả định mở
rộng quy mô và dự báo tỷ lệ tiết kiệm cao hơn có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
cao hơn. Sự mở rộng nguồn vốn mới thông qua đầu tư chỉ được thực hiện khi nền
kinh tế tiết kiệm được một phần thu nhập quốc dân. Sự đầu tư thông qua nguồn tiết
kiệm này sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Harrod (1939), Domar (1947) lập luận
rằng việc mở rộng lao động sẽ dẫn đến sự sụt giảm trong tích lũy vốn trên lao động,
năng suất lao động thấp hơn và giảm thu nhập, cuối cùng gây ra suy giảm kinh tế.
Tuy nhiên, mô hình Harrod-Domar có những hạn chế nhất định. Do dựa vào giả
định hệ số cố định nên mô hình thiếu tính linh hoạt, không chính xác khi xác định
trong một khoảng thời gian dài và khi các doanh nghiệp thay đổi các yếu tố đầu vào
trong quá trình sản xuất thực tế.
Do những nhược điểm của mô hình Harrod-Domar, dựa trên những tư tưởng
của lý thuyết tân cổ điển, Solow (1956) đã xây dựng mô hình tăng trưởng mang


13

những ý tưởng mới, được gọi là mô hình tăng trưởng Solow. Đây được xem là
nguồn gốc của lý thuyết tăng trưởng hiện đại. Solow thừa nhận là có nhiều vấn đề
phát sinh từ hàm sản xuất cứng nhắc trong mô hình trước đó (mô hình Harrod Domar). Nếu như mô hình của Harrod-Domar chỉ nhấn mạnh đến vai trò của vốn
sản xuất (thông qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng kinh tế, thì mô hình
Solow đã đưa thêm nhân tố lao động và công nghệ vào phương trình tăng trưởng
kinh tế và ông cũng khẳng định rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng kinh tế, cả ngắn hạn và dài hạn. Solow đã thay hàm sản xuất có hệ số cố định
bằng hàm sản xuất tân cổ điển cho phép có tính linh hoạt hơn và có sự thay thế giữa

các yếu tố sản xuất. Trong mô hình Solow, các tỷ số vốn và sản lượng; vốn và lao
động không còn cố định nữa mà thay đổi tuỳ theo nguồn vốn và lao động tương đối
trong nền kinh tế và quá trình sản xuất. Mô hình Solow được triển khai để phân tích
các nền kinh tế công nghiệp, nhưng đã được sử dụng rộng rãi để tìm hiểu tăng
trưởng kinh tế tại tất cả các nước trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển. Lý
thuyết tăng trưởng tân cổ điển có các kết luận chính: tốc độ tích lũy vốn tác động
đến mức thu nhập dài hạn; tốc độ tích lũy vốn không ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng; tốc độ tăng trưởng được quyết định bởi tốc độ tăng trưởng lực lượng lao
động và thay đổi công nghệ; với tỷ lệ tiết kiệm và thay đổi công nghệ như nhau các
nước có hệ số vốn trên sản lượng thấp hơn (đang phát triển) sẽ tăng trưởng nhanh
hơn các nước có hệ số vốn trên sản lượng cao hơn (nước phát triển). Mô hình này đã
có ảnh hưởng vô cùng to lớn và vẫn là trọng tâm của phần lớn các lý thuyết tăng
trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển, cho thấy tiết kiệm, tăng dân số và
tiến bộ công nghệ có ảnh hưởng như thế nào tới mức sản lượng và tốc độ tăng
trưởng của một nền kinh tế theo thời gian. Lao động, vốn, công nghệ được xem là
các yếu tố quan trọng trong mô hình tăng trưởng kinh tế tân cổ điển.
Đóng góp gần đây nhất cho lý thuyết tăng trưởng kinh tế là mô hình tăng
trưởng nội sinh. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Lucas (1988) giả định rằng mức
sinh lợi của nền kinh tế quốc gia tăng dần theo qui mô, chứ không phải không đổi
theo qui mô. Việc tăng gấp đôi vốn, lao động, và các yếu tố sản xuất khác sẽ dẫn


14

đến tăng hơn gấp đôi sản lượng. Mô hình tăng trưởng nội sinh làm nổi bật vai trò
của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ở các nước đang
phát triển thông qua tác động của dịch vụ tài chính khu vực dựa vào tích lũy vốn và
đổi mới công nghệ. Các dịch vụ tài chính trên bao gồm hoạt động huy động nguồn
tiết kiệm, thu thập thông tin hoạt động đầu tư, phân bổ nguồn lực, và tối thiểu hóa
rủi ro.

2.1.3 Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế
Trên thực tế, rất nhiều nghiên cứu khảo sát mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế, mặc dù có những kết quả khác nhau về tác động và
mối quan hệ nhân quả. Nhưng nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định
sự phát triển tài chính có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, ngay cả sau
khi đã tính đến các biến số khác nhau của tăng trưởng kinh tế cũng như các sai lệch
tiềm ẩn, bỏ sót các biến số và tác động của các quốc gia không quan sát được tác
động đến mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Quan điểm của Schumpeter (1911), thường được coi là khung đầu tiên trong
việc phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Ông cho
rằng một hệ thống tài chính hoạt động tốt giúp đưa tiết kiệm vào đầu tư, phân bổ
hiệu quả nguồn lực từ những ngành hoạt động không hiệu quả sang ngành hoạt
động hiệu quả thúc đẩy đổi mới công nghệ dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, việc
tạo ra thị trường tài chính và dịch vụ tài chính tốt trước nhu cầu của thị trường sẽ
dẫn đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc chuyển các nguồn lực khan hiếm từ các
đơn vị thừa sang các đơn vị thâm hụt theo tỷ suất sinh lợi trên đầu tư cao nhất.
Theo nghiên cứu của McKinnon (1973) cho rằng tự do hóa tài chính đã khiến
cho vai trò của các định chế tài chính được nâng lên, khuyến khích tiết kiệm và hạn
chế tích lũy vốn, điều này khiến dòng vốn chuyển từ những ngành sản xuất kém
hiểu quả sang những ngành sản xuất hiệu quả hơn. Sự phát triển của thị trường tài
chính góp phần làm đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro và cung cấp cho
nhà đầu tư nhiều cơ hội để tăng lợi nhuận. Năng lực sản xuất của nền kinh tế được
quyết định bởi số lượng cũng như chất lượng các khoản đầu tư. Việc nới lỏng


15

tín dụng, đặc biệt là vốn lưu động, sẽ tác động làm tăng tính hiệu quả của quá trình
phân bổ nguốn lực, làm giảm chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng
thực tế.

Goldsmith (1969) thực hiện nghiên cứu thực nghiệm sử dụng dữ liệu từ 35
quốc gia, kết quả cho thấy có một mối quan hệ tích cực giữa phát triển tài chính và
tăng trưởng kinh tế, nhưng mối quan hệ này chỉ một chiều từ phát triển tài chính dẫn
đến tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu của ông đã không kiểm soát
một cách có hệ thống cho các biến giải thích khác có liên quan.
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống tài chính cũng có thể là do tăng trưởng
kinh tế. Điều đó có nghĩa là tăng trưởng kinh tế có thể tạo ra nhu cầu về các dịch vụ
tài chính nhiều hơn và do đó hệ thống tài chính sẽ phát triển để đáp ứng với sự mở
rộng kinh tế. Theo nghiên cứu của Berthelemy và Varoudakis (1996) khi các hoạt
động kinh tế phát triển, sẽ có nhiều nhu cầu hơn về cả vốn vật chất và vốn thanh
khoản. Do đó, sự tăng trưởng trong khu vực kinh tế thực sẽ thúc đẩy ngành tài chính
mở rộng dẫn đến tăng tính cạnh tranh và hiệu quả trong hoạt động của các trung
gian tài chính và thị trường tài chính.
Robinson (1952) cho rằng phát triển tài chính không gây ra tác động nhân
quả đối với tăng trưởng kinh tế mà là tăng trưởng kinh tế dẫn đến phát triển tài
chính. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về dịch vụ tài chính ngày càng cao.
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu cho rằng giữa phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế có mối quan hệ nhân quả hai chiều như nghiên cứu của Patrick
(1966). Nghĩa là phát triển tài chính là kết quả của tăng trưởng kinh tế hay ngược lại
tăng trưởng kinh tế là kết quả của phát triển tài chính. Theo Patrick, vào giai đoạn
đầu của tăng trưởng kinh tế, phát triển tài chính sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế bằng
cách hình thành vốn thực trên đầu người. Ở giai đoạn sau, tăng trưởng kinh tế sẽ tạo
ra sự gia tăng nhu cầu về các dịch vụ tài chính, từ đó tạo ra sự phát triển tài chính
trong khu vực.
Với sự xuất hiện của lý thuyết tăng trưởng nội sinh (Romer, 1986; Lucas,
1988), đã có mối quan tâm mới về vai trò của sự phát triển tài chính trong việc thúc


16


đẩy tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết này nhấn mạnh vai trò tích cực của phát triển tài
chính trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cụ thể, bằng cách huy động tiết kiệm,
phân bổ nguồn lực cho các khoản đầu tư hiệu quả nhất, giảm chi phí, giao dịch và
giám sát, đa dạng hóa rủi ro và tạo điều kiện trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Điều này
dẫn đến việc phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, tích lũy nhanh hơn về vốn vật chất và
con người, và tiến bộ công nghệ nhanh hơn.
Ví dụ, công trình lý thuyết của Greenwood và Jovanovic (1990) cho thấy các
trung gian tài chính thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế bằng cách cho phép tỷ
suất sinh lời trên vốn cao hơn, trong khi chính sự tăng trưởng thúc đẩy sự mở rộng
của các tổ chức tài chính, một cách ngụ ý mối quan hệ hai chiều giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế.
Wang (1999) cũng đưa ra một số phản biện bằng cách tiếp cận các vấn đề về
đặc điểm kỹ thuật và sai lệch nội sinh có thể xảy ra trong hầu hết các nghiên cứu về
mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Ông lập luận rằng việc
sử dụng phương pháp tiếp cận chức năng sản xuất dẫn đến kết luận sai lầm vì một
thước đo phát triển tài chính cũng là một thành phần của chức năng sản xuất. Wang
(1999) tiếp tục lập luận rằng phương pháp này giả định tăng trưởng kinh tế như biến
nội sinh, do đó chỉ kiểm nghiệm tính nhân quả từ phát triển tài chính dẫn đến tăng
trưởng kinh tế trong khi bỏ qua khả năng xảy ra nguyên nhân ngược lại hoặc thậm
chí hai chiều.
Trong một nghiên cứu gần đây, Xu (2000) tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ cho
thấy sự phát triển tài chính, chủ yếu thông qua kênh đầu tư, ảnh hưởng tích cực đến
tăng trưởng.
Nghiên cứu của Chee-Keong và Chan (2011) kết luận rằng sự phát triển các
mô hình lý thuyết và sử dụng các hồi quy trong việc điều tra mối quan hệ giữa phát
triển tài chính và tăng trưởng kinh tế đã cho thấy chắc chắn rằng có một mối quan
hệ nhân quả tích cực giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế trong khoảng
thời gian ngắn hạn. Một trong những kết quả cho thấy phát triển tài chính là yếu tố



17

quyết định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không chỉ ở các nước phát triển, mà còn ở
các nước đang phát triển.
2.2. Bằng chứng thực nghiệm
Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế đã được tranh
luận nhiều trong các lý thuyết. Trong khi đó các nghiên cứu thực nghiệm thường
cung cấp mối quan hệ trực tiếp giữa các đại diện của phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế, vẫn còn nhiều tranh cãi về cách thức giải thích các kết quả này.
Nghiên cứu do đó thảo luận về bốn nguồn tranh luận chủ yếu, đó là: lựa chọn và đo
lường các chỉ số phát triển tài chính, định hướng nhân quả của phát triển tài chính
và tăng trưởng kinh tế, sử dụng các cách tiếp cận thực nghiệm cho giả thuyết tăng
trưởng tài chính và các cuộc tranh luận liên quan đến các kênh thông qua đó phát
triển tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Dựa trên nghiên cứu của Goldsmith, King và Levine (1993) đã thêm các biến
kiểm soát vào mô hình hồi quy của họ và sử dụng một tập dữ liệu có chứa nhiều
quốc gia hơn. Họ đã chạy hồi quy trên một mẫu 77 quốc gia qua giai đoạn 19601989, sau khi kiểm soát các yếu tố khác ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như
thương mại, giáo dục và ổn định chính trị. Kết quả là phát triển tài chính dẫn đến
tăng trưởng kinh tế.
Levine và Zervos (1998) bổ sung thêm các thước đo của thị trường chứng
khoán cho mô hình hồi quy của họ và kiểm soát một cách có hệ thống các yếu tố
khác ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn bao gồm phát triển ngân hàng. Họ
cho thấy sự thanh khoản của thị trường chứng khoán và phát triển ngân hàng có thể
dự đoán tăng trưởng kinh tế. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Beck và Levine
(2004).
Các phát hiện của Demetriades và Hussein (1996) sau khi kiểm tra các mối
quan hệ nhân quả khác nhau giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế cho 16
nước đang phát triển theo dữ liệu chuỗi thời gian. Kết quả cho thấy có một số bằng
chứng về giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ nhân quả
hai chiều và một số bằng chứng kết luận tăng trưởng kinh tế dẫn đến phát triển tài



×