Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nội dung và phương pháp kế hoạch hóa TP HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.59 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
----------------

NGUYỄN HỮU TÍN

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP KẾ HOẠCH HÓA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Năm 2000


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ Ở CÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM ............ 7
1.1. KINH NGHIỆM KẾ HOẠCH HOÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC: ..................................7
1.1.1. Kế hoạch hoá tại Nhật Bản ..........................................................................7
1.1.2. Kế hoạch hoá tại Hàn Quốc.......................................................................10
1.1.3. Kế hoạch hoá ở Malaysia...........................................................................11
1.1.4. Kế hoạch hoá ở Trung quốc .......................................................................12
1.1.5. Một số nhận xét chung về kế hoạch của các nước .....................................14
1.2. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY .................................................................15
1.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý quản lý: ................................................................15
1.2.2. Nhận xét tổng quát về đổi mới cơ chế quản lý: ..........................................19
1.2.3. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới: ...............................................21
1.3. QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG VÀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ KINH TẾ Ở THÀNH


PHỐ HỒ CHÍ MINH...............................................................................................25
1.3.1. Quan điểm đổi mới qua các kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố (từ 1990 – đến
nay) ......................................................................................................................25
1.3.2. Vận dụng cơ chế quản lý mới ở Thành phố Hồ Chí Minh ..........................27
1.3.3. Các kết quả đạt được về mặt kinh tế – xã hội:...........................................29
Giai đoạn .............................................................................................................30
1.3.4. Những khó khăn và yếu kém : ....................................................................35

i


CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN QUA ................................................................. 39
2.1. XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ KẾ HOẠCH THEO THỜI GIAN.......................39
2.1.1. Quy hoạch phát triển .................................................................................39
2.1.2. Kế hoạch 5 năm về phát triển ....................................................................42
2.1.3. Kế hoạch kinh tế – xã hội hàng năm ..........................................................44
2.2. HỆ THỐNG KẾ HOẠCH THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC ............................45
2.3. XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ CÁC CÂN ĐỐI LỚN CHỦ YẾU ......................46
2.3.1. Cân đối vốn đầu tư phát triển ....................................................................46
2.3.2. Ngân sách ..................................................................................................47
2.4. QUY TRÌNH KẾ HOẠCH ...............................................................................48
2.4.1. Những ưu điểm trong việc đổi mới quy trình kế hoạch hoá ........................48
2.4.2. Những hạn chế trong qui trình kế hoạch hoá: ............................................49
2.5. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN QUA..................................................................49
2.5.1. Thành tựu đạt được của công tác kế hoạch hoá trong thời gian qua .........49
2.5.2. Những hạn chế đang tập trung khắc phục ..................................................52
CHƯƠNG 3

MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN KẾ HOẠCH
HOÁ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................................................................... 58
3.1- MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHO VIỆC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ
TRONG THỜI GIAN TỚI ......................................................................................58
3.1.1. Nội dung và phương hướng ưu tiên trong các kế hoạch phải bảo đảm
nguyên tắc đònh hướng XHCN..............................................................................59
3.1.2.Nội dung của kế hoạch phải cụ thể các mục tiêu ưu tiên và chương trình
trọng điểm để phối hợp trong chính sách và điều hành. ......................................59

ii


3.1.3. Việc phân cấp kế hoạch giữa Trung ương và đòa phương: .........................61
3.2. NỘI DUNG, TRÌNH TỰ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH 5 NĂM ...........................62
3.2.1. Cơ sở của kế hoạch đònh hướng (5 năm) ....................................................62
3.2.2. Tổ chức xây dựng kế hoạch: (phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong xây
dựng kế hoạch).....................................................................................................63
3.2.3. Nội dung và phương pháp lập kế hoạch 5 năm : ........................................65
3.2.4. Xác đònh các chỉ tiêu kế hoạch : ................................................................66
3.2.5. Quy trình lập kế hoạch 5 năm ....................................................................67
3.3. NỘI DUNG, TRÌNH TỰ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HÀNG NĂM .................70
3.3.1. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH HÀNG NĂM .....................70
3.3.2. XÂY DỰNG GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH TRONG KẾ HOẠCH HÀNG
NĂM.........................................................................................................................70

3.3.3. QUY TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH ..........................................................................71
3.3.4. PHƯƠNG THỨC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH .........................................................75
3.4. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO TIỀN ĐỀ CHO CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ
................................................................................................................................76
3.4.1. Đổi mới hệ thống thu thập và xử lý thông tin.............................................76

3.4.2. Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế ....................79
3.4.3. Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. ..............81
3.5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..........................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 85

iii



LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt nam, nền
kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các mặt. Song tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như thách thức đối với sự phát
triển bền vững kinh tế – xã hội trong thời gian tới đòi hỏi phải có những nổ lực
cải cách mới.
Kế hoạch hoá là một trong những công cụ quản lý kinh tế vó mô quan
trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo đònh hướng xã
hội chủ nghóa. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch hoá từ quan điểm, đònh hướng,
nội dung, quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ
đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình cải cách nói trên. Chất
lượng của việc đổi mới công tác kế hoạch hoá sẽ có ý nghiã quan trọng cho
những thành công của giai đoạn cải cách trong thời gian tới.
Để góp phần vào tiến trình đổi mới trên, chúng tôi quan tâm nghiên cứu
công tác kế hoạch hoá với các mục tiêu chủ yếu: Phân tích, đánh giá hiện
trạng công tác kế hoạch hoá trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số vấn
đề về nội dung và phương pháp kế hoạch hoá tại Thành phố Hồ Chí Minh trong
thời gian tới.
Phạm vi của đề tài tập trung đi sâu vào nghiên cứu cải tiến nội dung,
phương pháp và quy trình kế hoạch tại Thành phố Hồ Chí Minh, đáp ứng mục
tiêu đã trình bày ở trên. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các đơn vò cơ

quan quản lý nhà nước tham gia vào quá trình xây dựng và điều hành kế hoạch
phát triển kinh tế – xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh

5


Kết cấu của luận văn bao gồm ba chương: Chương 1 (25 trang) nêu lên
tổng quan về kế hoạch hoá ở các nước , từ đó rút ra những kinh nghiệm để ứng
dụng đổi mới công tác kế hoạch ở Việt nam. Tổng quan về kế hoạch ở Việt
nam trong thời gian gần đây nhằm phân tích thành tựu, yếu kém trong công tác
kế hoạch của Việt nam. Chương 2 (15 trang) đánh giá tình hình đổi mới công
tác kế hoạch ở Thành phố Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, quản lý kế hoạch
theo thời gian, hệ thống kế hoạch theo ngành và lónh vực, xây dựng và quản lý
các cân đối lớn, từ đó rút ra những nhận xét về những mặt làm được, tồn tại
trong công tác kế hoạch hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3 (20 trang)
đưa ra một số phương hướng và giải pháp để hoàn thiện kế hoạch hoá ở Thành
phố Hồ Chí Minh.

6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ Ở CÁC
NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM
1.1. KINH NGHIỆM KẾ HOẠCH HOÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC
Để nghiên cứu cải tiến công tác kế hoạch cho thích hợp, chúng tôi có
tham khảo kinh nghiệm của một số nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và
Trung quốc về: cơ cấu bộ máy, quá trình và các phương pháp xây dựng kế
hoạch. Bốn nước này được chọn để nghiên cứu vì Nhật Bản là 1 nước công
nghiệp đã phát triển, Hàn Quốc là một nước công nghiệp mới, Malaysia là một

nước trong ASEAN, đang phát triển và Trung Quốc là nước đang chuyển đổi từ
kinh tế tập trung sang kinh tế thò trường.
1.1.1. Kế hoạch hoá tại Nhật Bản
1.1.1.1. Đặc điểm chung: Kế hoạch hoá ở Nhật Bản đặc trưng cho phương
pháp kế hoạch trong nền kinh tế thò trường. Bản chất kế hoạch Nhật Bản mang
tính chỉ dẫn, Chính phủ không can thiệp mạnh vào hoạt động của khu vực kinh
tế tư nhân. Kế hoạch ở Nhật Bản là 1 quá trình thương lượng của xã hội thông
qua hệ thống hành chánh. Quá trình này bao gồm việc trao đổi thông tin chính
thức và không chính thức giữa khu vực tư và khu vực công. Một đặc điểm quan
trọng của kế hoạch Nhật Bản là quá trình kế hoạch rất linh hoạt. Nhất là đối
với kế hoạch đầu tư công cộng. Dự báo kế hoạch kinh tế quốc gia và kế hoạch
phát triển được xem xét liên tục theo sự thay đổi điều kiện kinh tế. Một đặc
điểm quan trọng khác của kế hoạch Nhật Bản là vai trò của chính quyền đòa
phương trong việc chuẩn bò các kế hoạch, Trung Ương không can thiệp trực tiếp

7


mà chỉ thông qua hệ thống chính sách để tác động vào quá trình xây dựng kế
hoạch của đòa phương .
Nhật Bản đã thực hiện 12 kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ sau
chiến tranh thế giới lần II đến nay: Hai kế hoạch đầu tiên chủ yếu nhằm vào
phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh (từ 1949 - 1960). Các kế hoạch kế tiếp
theo tập trung vào đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế (1958 - 1968). Kế tiếp
là các kế hoạch kết hợp hài hoà giữa tăng trường kinh tế và phát triển xã hội.
Từ năm 1980 trở lại đây, các kế hoạch kinh tế đều coi trọng việc dự báo các
luồng, các quan hệ mang tính toàn cầu và cải thiện chất lượng đời sống.
Mỗi kỳ kế hoạch thường được kết thúc sớm hơn dự kiến và thay thế
bằng kỳ kế hoạch mới. Hay nói cách khác, các kế hoạch thường “gối đầu”
nhau. Cách xây dựng kế hoạch như vậy rất năng động, nhằm đáp ứng sự thay

đổi nhanh của nền kinh tế thò trường.
1.1.1.2. Quá trình xây dựng kế hoạch
Hội đồng kinh tế (the Economic Council: EC) và Cục kế hoạch kinh tế
(the Economic Planning Acency: EPA) là 2 cơ quan chính trong quá trình xây
dựng kế hoạch. Quá trình này bắt đầu khi Thủ tướng yêu cầu Hội đồng kinh tế
chuẩn bò bản thảo kế hoạch mới. Hội đồng kinh tế, gồm những người có học
thức và kinh nghiệm như: những nhà nghiên cứu, nhà doanh nghiệp, hiệp hội
lao động, nhà báo và những quan chức Chính phủ đã nghó hưu. Cục kế hoạch
kinh tế (EPA) làm thư ký cho Hội đồng kinh tế và cung cấp cho Hội đồng các
tài liệu tham khảo: Các dự báo kinh tế dựa vào các mô hình kinh tế lượng,
cũng như chuẩn bò bản thảo kinh tế sơ khởi cho Hội đồng gồm tập hợp các quan
điểm, các kiến nghò chính sách ở các cấp thảo luận. Sau khi bản thảo hoàn

8


thiện sẽ được đệ trình lên Chính phủ và được các cơ quan Chính phủ thảo luận
và thông qua.
1.1.1.3. Quá trình thực hiện kế hoạch
Để liên kết giữa các đònh hướng trong chính sách trung hạn và quản lý
chính sách ngắn hạn, Văn phòng Hợp tác (Coordination Bureau) thuộc EPA
chuẩn bò kế hoạch kinh tế hàng năm. Kế hoạch hàng năm làm cơ sở để dự toán
ngân sách Chính phủ. Trong quá trình điều hành kế hoạch hàng năm Chính phủ
rất quan tâm đến các chỉ tiêu tăng trưởng. Nếu nền kinh tế không đạt các chỉ
tiêu đã được dự báo trong kế hoạch trung hạn thì Thủ tướng có thể yêu cầu Hội
đồng kinh tế điều chỉnh hoặc lập kế hoạch mới.
Dựa vào kế hoạch quốc gia, chính quyền đòa phương chuẩn bò các kế
hoạch của mình (chủ yếu là kế hoạch đầu tư công cộng). Ở Nhật Bản hơn 80%
tổng vốn đầu tư xã hội được thực hiện ở các chính quyền đòa phương nên kế
hoạch của họ có ý nghiã rất lớn trong phát triển cơ sở hạ tầng. Quá trình xây

dựng và điều hành kế hoạch ở mỗi đòa phương khác nhau, phụ thuộc vào điều
kiện thực tế. Chính phủ không can thiệp trực tiếp (chủ yếu là gián tiếp thông
qua hệ thống chính sách), đồng thời phân cấp rất mạnh làm cho kế hoạch trở
nên linh hoạt.
1.1.1.4. Phương pháp kế hoạch
Để nội dung kế hoạch đạt chất lượng cao và phù hợp với thực tế, Nhật
Bản đã hiện đại hoá các phương pháp xây dựng kế hoạch theo hai hướng: một
là nâng cao trình độ đội ngũ xây dựng kế hoạch, hai là trang bò phương tiện
phân tích thông tin hiện đại. Kế hoạch hoá theo các mô hình kinh tế lượng đã
rất phổ biến ở Nhật Bản từ năm 1965. Các kế hoạch kinh tế vó mô có tính chất
dự báo, song phạm vi tính toán rất rộng nhờ sử dụng các công cụ hiện đại, nên

9


có khả năng dự báo hầu hết các hoạt động trong nền kinh tế thò trường. Có 4
mô hình kinh tế lượng được áp dụng trong quá trình xây dựng kế hoạch của
Nhật Bản là mô hình vó mô trung hạn, mô hình đầu vào - ra, mô hình đa ngành
trung hạn, mô hình đa ngành dài hạn.
1.1.2. Kế hoạch hoá tại Hàn Quốc
Kế hoạch phát triển lần thứ I của Hàn Quốc được bắt đầu vào năm
1962,, đến nay đã thực hiện 7 kế hoạch 5 năm. Bốn kế hoạch đầu tiên tập trung
vào tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng trong những năm đó đã gây ra một số mất
cân đối kinh tế vó mô, đặc biệt là lạm phát. Vì thế mục tiêu phát triển kinh tế
của các kế hoạch về sau không chỉ là tăng trưởng cao mà quan trọng hơn là
nâng cao hiệu quả trong ổn đònh kinh tế vó mô. Đồng thời, Hàn Quốc luôn điều
chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu phù hợp với nhu cầu thò
trường khu vực và thế giới.
1.1.2.1. Quá trình xây dựng kế hoạch
Kế hoạch được tập trung từ Trung ương, chính quyền đòa phương chỉ thực

hiện các quyết đònh của Chính phủ, do vậy tạo điều kiện dễ dàng cho việc
chuyển đổi mục tiêu phát triển kinh tế. Ủy Ban kế hoạch kinh tế (Economic
Planning Board: EPB) chòu trách nhiệm xây dựng kế hoạch kinh tế. Bộ trưởng
Ủy Ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) có quyền hạn cao hơn các Bộ trưởng khác và
kiêm giữ chức Phó Thủ Tướng. Mỗi Bộ có một bộ phận làm kế hoạch, và đơn
vò này cũng có quyền hạn cao hơn các đơn vò khác trong Bộ để có thể đảm
nhiệm các hoạt động mà không gặp khó khăn. EPB và bộ phận kế hoạch trong
mỗi Bộ đề ra các chỉ tiêu hướng dẫn cho chuẩn bò kế hoạch kinh tế. Trên cơ sở
các chỉ tiêu hướng dẫn này, các cơ quan quản lý như: ngân hàng và các tổ chức

10


tài chính, các chuyên gia của các doanh nghiệp, các giáo sư ở các trường Đại
học, … xây dựng các kế hoạch của ngành mình.
Xây dựng kế hoạch 5 năm, gồm 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 chuẩn bò các nguyên tắc hướng dẫn (EPB thực hiện).
+ Giai đoạn 2 làm kế hoạch ở cấp Bộ.
+ Giai đoạn thứ 3, EPB thảo luận với mỗi Bộ đồng thời lấy ý kiến của
công chúng.
+ Giai đoạn 4 tổng hợp kế hoạch trình Thủ tướng phê chuẩn, ban hành.
+ Giai đoạn cuối cùng, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
1.1.2.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch.
Trong các giai đoạn kế hoạch, mô hình kinh tế lượng được sử dụng để
xác đònh tốc độ tăng trường phù hợp với các nguồn lực hiện có. Sau đó mô hình
đầu vào - ra (chia ra khoảng 40 hoặc 50 ngành) được sử dụng để tìm ra một số
ngành quan trọng, đồng thời cũng được dùng để kiểm tra khả năng của nguồn
lực (giới hạn nguồn tài nguyên). Nếu có giới hạn nào bò vi phạm thì tốc độ tăng
trưởng sẽ được điều chỉnh lại
Ngoài ra, mô hình đầu vào - đầu ra còn được sử dụng như là một công cụ

để phân tích các tác động của chính sách như: mở rộng xuất khẩu hay thay thế
nhập khẩu.
1.1.3. Kế hoạch hoá ở Malaysia
Năm 1961, Bộ phận kế hoạch kinh tế (Economic Planning Unit) của
Chính phủ được thành lập để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia. Từ
đó đến nay, đã thực hiện 7 kế hoạch 5 năm. Do Malaysia là một quốc gia đa
chủng tộc và sự chênh lệnh thu nhập rõ nét giữa các nhóm dân cư, nên vấn đề
phân phối luôn trở thành trọng tâm của tất cả các kế hoạch. Vì vậy ngay từ

11


những năm đầu phát triển, quan điểm kinh tế của Malaysia là “Tăng trưởng và
công bằng”. Hai thập niên vừa qua nền kinh tế Malaysia đã có sự phát triển và
thay đổi cơ cấu kinh tế đáng kể, lợi ích xã hội được cải thiện nhiều.
1.1.3.1. Quá trình xây dựng kế hoạch
+ Hội đồng Kế hoạch Quốc gia (National Planning Council: NPC) để
xây dựng kế hoạch. Bên cạnh NPC, còn có Hội Đồng Hành Động quốc gia xem
xét các vấn đề thực hiện chương trình phát triển và các dự án, Hội đồng Bảo
An Quốc gia giải quyết các vấn đề an toàn. Thủ tướng làm Chủ tòch của 3 Hội
đồng này. Ủy ban kế hoạch phát triển quốc gia (NDPC) là cơ quan tổng thư ký
của Chính phủ, phối hợp hoạt động của 3 tổ chức trên. Quá trình xây dựng và
điều hành kế hoạch ở Malaysia là 1 quá trình hoạt động 2 chiều giữa NDPC và
Các Bộ Ngành.
1.1.3.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch
Bên cạnh các mô hình vó mô, việc phân tích vùng và nghiên cứu ở các
cấp đòa phương, … cũng được thực hiện để bổ sung cho các mô hình vó mô.
Nghiên cứu này ngày càng trở nên quan trọng khi vai trò của thò trường càng
tăng trong quá trình phân bổ tài nguyên, chiến lược hướng xuất khẩu và các
chính sách giảm bớt luật lệ và tự do hoá. Giữa thập niên 60, NDPC đã sử dụng

các mô hình vó mô để dự báo nhu cầu vốn cho các kế hoạch phát triển và các
chỉ tiêu tăng trưởng. Giữa thập niên 80 các mô hình được sử dụng rộng rãi để
xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu vó mô trong kế hoạch lần thứ 3 của
Malaysia.
1.1.4. Kế hoạch hoá ở Trung quốc
Từ thập niên qua, Trung quốc tiến hành cải cách với quy mô lớn, cơ chế
hoạt động hệ thống kinh tế thay đổi rất lớn. Thứ nhất, cơ cấu sở hữu doanh

12


nghiệp được đa dạng hoá: từ sở hữu Nhà Nước thành các loại sở hữu khác
nhau. Thứ hai, quyền quyết đònh của người quản lý doanh nghiệp rộng hơn.
Thứ 3, hoạt động theo cơ chế (quy luật) của thò trường.
Để phù hợp với các yêu cầu thay đổi ở trên, hệ thống kế hoạch và
phương pháp kế hoạch cũng phải chuyển đổi, quá trình thay đổi theo các khiá
cạnh sau:
+ Giảm phạm vi của kế hoạch pháp lệnh, tăng kế hoạch hướng dẫn. Tuy
nhiên, đối với các hoạt động mà thò trường không đủ để điều khiển cung – cầu
thì cần phải được chỉ đònh bởi kế hoạch trực tiếp. Ví dụ: Cơ sở hạ tầng, các tổ
chức lợi ích xã hội và công cộng, những ngành công nghiệp quan trọng cho
phát triển dài hạn và ổn đònh kinh tế.
+ Kế hoạch chuyển từ việc phân bổ vốn, nguyên vật liệu đến việc phân
tích, nghiên cứu và đưa ra các chính sánh hướng dẫn … Sử dụng các công cụ
chính sách tác động đến hoạt động của nền kinh tế như: lãi suất, giá cả, thuế,
chi tiêu ngân sách. Doanh nghiệp có quyền quyết đònh trong hoạt động của họ.
+ Hiện đại hoá phương pháp làm kế hoạch và ứng dụng các mô hình kinh tế
lượng. Hầu hết các mô hình này được xây dựng ở các Viện nghiên cứu Trung
quốc, sau đó kết quả được gởi đến các cơ quan quản lý kinh tế để tham khảo
trong khi làm quyết đònh.

+ Tổ chức lại hệ thống thông tin thống nhất trên toàn quốc: Thống kê, Ngân
hàng, Tài chính, các Bộ chuyên ngành, các đòa phương để làm cơ sở cho việc
phân tích, dự báo và điều hành kế hoạch.

13


1.1.5. Một số nhận xét chung về kế hoạch của các nước
Từ kinh nghiệm kế hoạch hoá của các nước có thể rút ra một số kết luận
chung của việc xây dựng kế hoạch để có thể ứng dụng cho cả nước nói chung
và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như sau:
-

Kế hoạch là một quá trình phức tạp bao gồm thu thập khối lượng lớn thông
tin, đánh giá kết quả đạt được trong thời gian qua, dự báo xu hướng trong
tương lai, và thiết lập các chỉ tiêu cũng như các biện pháp chính sách. Các
nước đều có các kế hoạch ngắn, trung và dài hạn và là tài liệu quan trọng
để cụ thể hoá chính sách ở các giai đoạn khác nhau.

-

Trong các loại kế hoạch, các nước tập trung nhiều nhất vào kế hoạch trung
hạn (thời hạn là 5 năm), có sự đánh giá và điều chỉnh.

-

Các nước đều có bộ phận kế hoạch riêng, tạo cơ chế thuận lợi cho việc xây
dựng và điều hành kế hoạch và Lãnh đạo rất quan tâm đến công tác kế
hoạch.


-

Mối quan hệ giữa kế hoạch hàng năm và kế hoạch trung hạn (5 năm) là rất
quan trọng.

-

Kế hoạch được xây dựng theo phương pháp liên tục, các chỉ tiêu kế hoạch
được điều chỉnh linh hoạt.

-

Mô hình kinh tế hiện đại được ứng dụng rộng rãi trong việc xây dựng và dự
báo kế hoạch. Chất lượng và trình độ của đội ngũ chuyên viên kế hoạch rất
được quan tâm chú trọng, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ.

-

Khi nền kinh tế ngày càng phát triển và giao lưu với thế giới nhiều hơn,
việc xây dựng kế hoạch có xem xét đến các khiá cạnh hội nhập quốc tế
trong các mô hình xây dựng kế hoạch.

14


-

Các cơ quan và các thành phần kinh tế khác nhau (doanh nghiệp, viện
nghiên cứu, trường, các nhà kinh tế, …) đều tham gia vào việc xây dựng kế
hoạch (có sự trao đổi thông tin liên tục giữa khu vực chính phủ và khu vực

tư nhân trong việc xây dựng kế hoạch).

-

Mỗi vùng, mỗi tỉnh và các cấp khác nhau trong một quốc gia đều có bộ
phận kế hoạch, nhất là ở Trung Quốc giống với nước ta. Tuy nhiên, họ đã
ứng dụng mô hình I/O để tính GDP và tốc độ tăng trưởng cho mỗi đòa
phương.

-

Việc thực hiện có hiệu quả và phối hợp kế hoạch phát triển ở các cấp khác
nhau đã trở thành vấn đều quan trọng ở các nước.

1.2. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
1.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý quản lý:
Đại hội đảng toàn quốc lần VI (năm 1986) đã đánh giá tình hình thực
hiện nhiệm vụ của Đại hội V đồng thời đề ra đường lối đổi mới chính sách kinh
tế nhằm khai thác nhanh, có hiệu quả, phát huy mọi khả năng hiện có và tiềm
tàng của nền kinh tế. Đại hội đã xác đònh những mục tiêu cụ thể về kinh tế –
xã hội cho những năm 1986 – 1990 như sau : “sản xuất đủ tiêu dùng và có tích
lũy. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất, trước
hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các
ngành sản xuất vật chất. Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất
mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng
cố thành phần kinh tế XHCN bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập
thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối,
làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân


15


…. Hình thành đồng bộ hệ thống mới về quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hóa làm
khâu trung tâm, thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN theo đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ …” (trích “Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI” – 1986
– Nhà xuất bản sự thật : trang 43, 44).

Đường lối đổi mới kinh tế ra đời đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
nước ta một cách rõ rệt. Thành tựu quan trọng là bước đầu hình thành nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thò trường có sự quản lý
của nhà nước theo đònh hướng XHCN. Đảng ta đã khẳng đònh phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Đây là chủ trương đúng đắn và kòp thời nhằm tháo gỡ những
khó khăn, trở ngại của nền kinh tế sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu.
Chính sách này giúp các thành phần kinh tế có điều kiện mở rộng sản xuất, tạo
ra nhiều sản phẩm và dòch vụ cạnh tranh với nhau làm cho thò trường trở nên
nhộn nhòp hơn. Có thể nói đường lối đổi mới của Đảng đã đề ra tại đại hội
đảng toàn quốc lần VI là chiếc chìa khóa mở đầu cho công cuộc đổi mới ở
nước ta, là tiền đề cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới.
Đường lối đổi mới này đã được Đảng đúc kết từ thực tiễn của cả một quá trình
xây dựng phát triển đất nước.
Đại hội đảng lần thứ VII ngoài những đánh giá thành tựu đạt được từ
đường lối đổi mới do đại hội VI đề ra củng đã đánh giá nhận đònh những khó
khăn thách thức mới. Đó là đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất còn ở tình trạng đình đốn, lao động
thiếu việc làm tăng lên, chế độ tiền lương bất hợp lý làm cho đời sống của
những người ăn lương bò giảm sút, đời sống của một bộ phận nông dân còn gặp

16



nhiều khó khăn … Đại hội cũng đã đánh giá tình hình Quốc tế lúc này có nhiều
diễn biến phức tạp đã làm đảo lộn về thò trường xuất nhập khẩu truyền thống,
những chương trình hợp tác kinh tế … Trên cơ sở đánh giá tình hình trong nước
và Quốc tế Đại hội đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm
1991 –1995. Các mục tiêu chủ yếu là : “Vượt qua khó khăn thử thách, ổn đònh
và phát triển kinh tế … Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững phát
triển sản xuất, bắt đầu có tích lũy nội bộ, tạo thêm nhiều việc làm ổn đònh, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân … Chính sách kinh tế được
Đại hội đảng lần thứ VII đề ra là : “Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo đònh hướng XHCN. Cơ chế vận hành nền kinh tế này là
cơ chế thò trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính
sách. Trong cơ chế đó, các đơn vò có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh ,
quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thò
trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vò kinh tế lựa chọn lónh vực hoạt
động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả; nhà nước quản lý
nền kinh tế nhằm đònh hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thò
trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh
tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội … Khẩn
trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế
quốc doanh phát triển có hiệu quả …Đảm bảo chính sách tiền lương và thu
nhập, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế …”.
Sau 5 năm thực hiện Nghò quyết Đại hội VII, đại hội đảng bộ toàn quốc
lần thứ VIII (từ ngày 28/6/1996 đến 1/7/1996) đã đánh giá 5 năm thực hiện

17



Nghò quyết đại hội VII và 10 năm đổi mới. Đại hội đã nhận đònh các nhiệm vụ
và mục tiêu do đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 –1995 đã được hoàn thành về
cơ bản và công cuộc đổi mới 10 năm đã thu được những thắng lợi to lớn. Đó là
nước ta đã vượt qua khủng hoảng kinh tế – xã hội, đời sống người dân dần dần
được cải thiện, tốc độ phát triển kinh tế đạt mức cao nhất từ trước đến nay (tốc
độ tăng bình quân GDP giai đoạn 1991 – 1995 là 8,2%), lạm phát bò đẩy lùi ….
Đánh giá, nhận đònh bối cảnh Quốc tế, thời cơ và thách thức, đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu là : “ …tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa … Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp … Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan
trọng của thời kỳ phát triển mới – đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ,
vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng
bộ, tiếp tục phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thò
trường có sự quản lý của nhà nước theo đònh hướng XHCN, phấn đấu đạt và
vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn đònh và phát triển kinh tế – xã
hội đến năm 2000 : tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi
với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng,
cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ của nền kinh tế,
tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế là một động lực to
lớn tác động đến tương lai của đất nước khi bước vào thế kỷ XXI. Đây là chủ
trương đúng đắn, phù hợp với thời đại của những tiến bộ khoa học – kỹ thuật
được áp dụng và đưa vào ứng dụng trong thực tế ngày càng nhiều như hiện nay.

18



Việc cơ giới hóa trong nông nghiệp, đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất
trong công nghiệp, phát triển các ngành dòch vụ như giao thông, bưu điện, tài
chính, ngân hàng … đã làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước ta từ nghèo nàn,
lạc hậu trở nên giàu có, hiện đại trước thềm thế kỷ mới.

1.2.2. Nhận xét tổng quát về đổi mới cơ chế quản lý:
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ năm 1986 thực ra đã được
chuẩn bò trong giai đoạn tiền đổi mới (từ năm 1979 đến trước Đại hội VI, tháng
12-1986) và diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế lâm vào khủng hoảng gay gắt
trong khi thiếu các nguồn viện trợ nước ngoài để tiếp tục duy trì nền kinh tế
theo mô hình cũ. Trong điều kiện gay gắt đó, các biện pháp ở tầm vó mô diễn
ra sau Hội nghò Trung ương VI (khóa IV), tháng 9 – 1979 trong nông nghiệp (cơ
chế khoán), mở rộng tự chủ cho doanh nghiệp trong công nghiệp (kế hoạch ba
phần) đã tăng thêm sản phẩm hàng hóa và đã là sự tập dượt và chuẩn bò cho
nông dân, công nhân và các nhà quản lý doanh nghiệp đón nhận những cải
cách mới theo hướng cơ chế thò trường.
Do quá trình đổi mới nhận thức diễn ra từng bước và các biện pháp đổi
mới nằm giải quyết những vấn đề thực tế của cuộc sống, trong bối cảnh ổn
đònh về chính trò và xã hội, nên trên toàn bộ tiến trình đổi mới, phương pháp
chủ yếu là phương pháp từng bước (như cách nói của Tổng Bí thư Đỗ Mười là
“Mưa dầm thấm đất”). Tuy vậy, trong năm 1989, Việt Nam đã áp dụng liệu
pháp sốc trong việc thực hiện một loạt những cải cách quan trọng chuyển sang
cơ chế thò trường như tự do hóa giá, tự do hóa mậu dòch, sử dụng các công cụ
tiền tệ. Các biện pháp cải cách khác được tiến hành từng bước với tốc độc khác
nhau cũng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế, tuy rằng tốc độ cải cách ở một số

19


lónh vực như cải cách doanh nghiệp nhà nước, vấn đề quyền sủ dụng đất đai....

là chậm so với yêu cầu và kinh nghiệm của một số nước khác. Đổi mới ở Việt
Nam không phủ đònh sạch trơn quá khứ, mà là có sự kế thừa, phát huy các mặt
tích cực của quá khứ, đồng thời từng bước đổi mới một cách sâu sắc.
Công cuộc cải cách được khởi đầu từ nông nghiệp, khu vực kinh tế quan
trọng nhất của Việt Nam với 80% dân số, được mở rộng sang công nghiệp, đã
tranh thủ được sự đồng tình, hưởng ứng của toàn xã hội. Tiếp đó, cải cách được
tiếp tục ở khâu tài chính, giá cả, thương mại, khi các đơn vò sản xuất có nhu cầu
và đòi hỏi những điều chỉnh theo hướng tự do hóa giá, thương mại, để giải
phóng sức sản xuất, mở đường cho cải cách kinh tế ở tầm vó mô có tính bước
ngoặt tại Đại hội VI và các cải cách khác năm 1989. Như vậy, quá trình cải
cách kinh tế ở Việt Nam là quá trình tác động qua lại giữa cải cách ở khâu vi
mô và ở tầm vó mô, trong đó cải cách ở tầm vi mô, như mở rộng quyền tự chủ
của các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cơ cế khoán trong nông nghiệp, đã
tạo ra môi trường thuận lợi cho tự do hóa giá cả, thương mại. Ngược lại, chính
việc thiết lập cơ chế giá thò trường, tự do hóa, thương mại vật tư, mở rộng xuất
nhập khẩu ... đã tạo ra môi trường kinh tế thích hợp để các doanh nghiệp nhà
nước và tư nhân trong trên nhiều lónh vực thương nghiệp, dòch vụ và sản xuất.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn mười năm qua đã thực sự đem lại
những thay đổi hết sức cơ bản, sâu sắc, không thể đảo ngược được trong chính
sách vàc cơ chế của Nhà nước ở các cấp, trong cơ cấu kinh tế về ngành và về
các thành phần kinh tế, trong thu nhập và tiêu dùng, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt
động kinh tế và xã hội. Đổi mới đã làm thay đổi cơ bản hành vi của các doanh
nghiệp cũng như tâm lý hàng của từng người dân trong sản xuất, tiêu dùng, học
tập. Mặc dầu còn xa mới đạt được mục tiêu đề ra, nhưng công cuộc đổi mới ở
Việt Nam theo các tiêu chuẩn được thừa nhận, thực sự là một cuộc cải cách sâu
sắc. Những thay đổi đó có thể cảm nhận được ở từng gia đình, từng con người,
20


ở những thay đổi trong phạm vi, động thái, tâm lý và nhất là trong cuộc sống,

nguồn thu nhập, các quan hệ giao tiếp và thông tin ở từng người. Đó là những
thay đổi tiến bộ, đã bước đầu phát huy được sáng tạo, tinh thần hăng say lao
động, học tập, đổi mới từng người dân, dó nhiên với mức độ khác nhau giữa các
vùng, giữa thành thò và nông thôn. Sự ỷ lại, dựa dẫm, lợi dụng sự bao cấp của
nhà nước đã được khắc phục một bước quan trọng. Tinh thần kinh doanh đã bắt
đầu khơi dậy, tạo ra cơ hội và đòi hỏi mỗi người phải phấn đấu, nhân cách con
người được khẳng đònh trong sự đa dạng và phong phú hơn. Những thay đổi đó
là sâu rộng và mạnh mẽ nhất kể từ năm 1975 đến nay. Đó là những thay đổi
bền vững, không thể đảo ngược được.
Đổi mới đã tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình Việt Nam hội nhập kinh
tế quốc tế, gia nhập khối ASEAN và chuẩn bò gia nhập những tổ chức kinh tế
quốc tế khác, vượt qua được cấm vận và bao vây kinh tế, cải thiện rõ rệt vò trí
quốc tế, tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế. Đổi mới là một quá trình phù
hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với quá trình chuyển đổi sâu rộng trên thế
giới. Công cuộc đổi mới là nhân tố quyết đònh để Việt Nam vượt qua được khủng
hoảng và suy thoái kinh tế, tạo được tăng trưởng cao và lâu bền nhất từ trước
đến nay, qua đó góp phần vào ổn đònh xã hội và chính trò. So sánh với các nước
trong quá trình chuyển đổi cho thấy, Việt Nam đã vượt qua được những thử
thách to lớn và công cuộc đổi mới đã tránh cho dân tộc phải chòu những hy
sinh, thiệt thòi không cần thiết.
1.2.3. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới:
Cải cách kinh tế của Việt nam trong thời gian qua được đánh giá là
thành công, nhất là trong hoàn cảnh bò bao vây về kinh tế (trước năm 1995) và
mất đột ngột nguồn tài trợ của Liên Xô, cũng như mất thò trường truyền thống
này.

21


Giai đoạn 1990 – 1995: Do công cuộc tự do hoá giá cả, kết hợp với các

công cụ tài chính tiền tệ, kể cả việc phá giá đồng tiền để kiểm soát lạm phát.
Kết quả là lạm phát từ 400% năm 1988 xuống còn 5,2% năm 1993 (xem bảng
1), đây cũng là cơ sở để Việt nam tiến hành cải cách kinh tế ở 3 khu vực kinh
tế. Cải cách về quyền sử dụng đất đai và phương thức sản xuất kể từ năm 1988
ở khu vực nông nghiệp và nông thôn đã tạo cơ sở khuyến khích, giải phóng lao
động của hàng triệu nông dân, tạo ra một cuộc cách mạng về năng suất lao
động ở khu vực này, nên Việt nam từ một nước nhập khẩu gạo đã trở thành
một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan). Trong công
nghiệp, cải cách doanh nghiệp nhà nước bước đầu từ việc giao quyền tự chủ
cho các doanh nghiệp và sắp xếp lại, đến đầu những năm 1990 số doanh
nghiệp nhà nước đã giảm một nửa so với những năm 1980. Kinh tế đối ngoại
đã phát triển theo đường lối mở cửa với sự phát triển, đa dạng hoá và khuyến
khích xuất khẩu. Đầu tư nước ngoài đã phát triển mạnh mẽ, là nguồn vốn đầu
tư quan trọng cho tăng trưởng kinh tế nhanh trong giai đoạn này (xem bảng 2).
Việt nam đã chính thức gia nhập Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á vào
tháng 7/1995 và chấp thuận tham gia chương trình AFTA kể từ ngày 1/1/1996.
Kết quả cải cách kinh tế của Việt nam đã đạt được những kết quả to lớn như:
tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1990 – 1995 là 8,1% (xem bảng 1), xuất
khẩu tăng bình quân 29,1%, đầu tư nước ngoài tăng đáng kể và lạm phát được
khống chế ở mức một con số.
Bảng 1: Các chỉ số về tốc độ tăng trưởng GDP, giá trò sản xuất công nghiệp,
xuất khẩu và tỉ lệ lạm phát từ 1986 – 1999 của Việt nam (%)
198
6
GDP
2.33
Giá trò 6.2
sản xuất
công


198
7
3.64
10.0

198
8
5.98
14.3

198
9
4.69
-3.3

199
0
5.10
3.1

199
1
5.96
10.4

1992

1993

8.65

17.1

8.07
12.7

22

199
4
8.84
13.7

199
5
9.54
14.5

199
6
9.34
14.1

199
7
8.80
13.2

199
8
5.80

12.1

199
9
4.8
10.4


nghiệp
Xuất
khẩu
Lạm
phát

-

-

-

-

23.5

13.2
67,6

23.7

15.7


35.8

34.4

33.2

26.6

1.7

23.1

17,5

5,2

14,4

12,7

4,5

3,6

9,2

0,1

Nguồn: Số liệu thống kê cả nước – Tổng Cục Thống kê – Hà Nội

Giai đoạn từ 1996 đến nay: Nền kinh tế Việt nam bắt đầu xuất hiện
những dấu hiệu chững lại. Tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất là 9,54%
vào năm 1995 đã giảm dần xuống mức 5,8% năm 1998 và 4,8% năm 1999,
thấp nhất kể từ năm 1990 trở lại đây. Kể từ năm 1998 khủng hoảng tài chính
khu vực đã tác động xấu đến nền kinh tế thông qua việc giảm xuất khẩu và
đầu tư nước ngoài.
Bảng 2: FDI vào Việt nam từ năm 1988 – 1999 (chưa tính các dự án của
VIETSOPETRO)

Số
dự
án
Vốn
đăng ký
(tr.
USD)

198
8
37

198
9
68

199
0
108

199

1
151

199
2
197

199
3
269

199
4
343

199
5
370

1996

1997

1998

1999

Tổng

325


345

275

278

2,766

371.
8

582.
5

839

132
2

216
5

290
0

376
7

653

1

8497

4649

3897

1535

37056

Nguồn: Số liệu thống kê cả nước Tổng Cục Thống kê – Hà Nội, 1999
Như vậy ở Việt nam từ năm 1995 trở lại đây, do kết quả của cuộc cải
cách cơ chế ở những năm trước đây không còn phát huy tác dụng như những
năm đầu cải cách kinh tế và những cải cách đó chưa thể giải quyết triệt để
những vấn đề phát sinh mới trong giai đoạn hiện nay, cộng thể nền kinh tế Việt
nam bò ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực nên Việt nam bò
tăng trưởng chậm lại. Do đó trong giai đoạn mới, cần có những cải cách mới để
thúc đẩy nền kinh tế Việt nam phát triển nhanh hơn.

23


Nhìn nhận kế hoạch hoá và thò trường với tư cách là các công cụ và lực
lượng điều tiết kinh tế vó mô. Trong cơ chế hiện hành, nhà nước thực hiện chức
năng quản lý kinh tế của mình đối với các doanh nghiệp thông qua hai kênh:
điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính (một số
ít), còn lại chủ yếu là điều tiết gián tiếp thông qua các công cụ khác, vận dụng
cơ chế thò trường để tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, dùng các đòn

bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây sức ép kinh tế buộc các doanh nghiệp
phải phát triển trong khuôn khổ và theo hướng kế hoạch do nhà nước vạch ra.
Việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đòi
hỏi phải có cách nhìn và cách làm mới trong công tác kế hoạch hoá của nhà
nước. Kế hoạch hoá kinh tế quốc dân của nhà nước phải thực sự bao hàm được
các hoạt động kinh tế chủ yếu, không phải chỉ khu vực kinh tế nhà nước, kinh
tế quốc doanh, mà tất cả các thành phần kinh tế; khắc phục khuyết tật cơ bản
của hệ thống kế hoạch hoá trường đây, chỉ nặng về kế hoạch hiện vật, vừa
chắp vá, vừa thiếu khoa học và không đủ độ tin cậy.
Cách tổng hợp kế hoạch hoá từ dưới lên theo kiểu cộng dồn như trước
đây không còn phù hợp nữa, mà kế hoạch hoá nhà nước phải được xây dựng
trên cơ sở tầm vó mô, phân tích kinh tế, dự báo nhu cầu, điều tra khả năng của
các thành phần kinh tế. Hiện nay công tác kế hoạch hoá vẫn chưa bao hàm hết
tất cả các thành phần kinh tế. Để nâng cao chất lượng của kế hoạch hoá, các cơ
quan nhà nước đã từng bước cải tiến đẩy mạnh công tác điều tra và dự báo kinh
tế; đổi mới công tác thống kê, bảo đảm thống kê đầy đủ, kòp thời, chính xác.
Như vậy, cần phải đổi mới công tác kế hoạch hoá để có thể quản lý và
điều hành nền kinh tế một cách hiệu quả hơn, góp phần vào đẩy nhanh tốc độ

24


×