Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Giải pháp xuất khẩu tàu thuỷ của ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.18 KB, 80 trang )

CHƯƠNG I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU

1. VAI TRÒ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾNHOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU

1.1 Vai trị của hoạt động xuất khẩu

T

rong q trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ
tồn cầu hố và khu vực hố , lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài

phạm vi biên giới một quốc gia;sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về
bề rộng và bề sâu, vai trị của các cơng ty đa quốc gia được tăng cường , hầu hết
các quốc gia chuyển sang xây dựng " mơ hình kinh tế mở " với việc khai thác
ngày càng triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế mỗi nước .Tự do hoá thương
mại đem lại lợi ích khơng chỉ riêng một quốc gia nào ; mà cho cả Thế Giới và lợi
ích lớn nhất đem đến cho người tiêu dùng .Với mơ hình kinh tế mở đồng nghĩa
với nền kinh tế hướng vào xuất khẩu .Các nước phát huy những lợi thế riêng của
mình để tham gia thị trường Thế Giới , đây là điều được đề cập đến trong lý
thuyết lợi thế so sánh của Ricardo . Bất kể quốc gia nào cũng tham gia được thị
trường Thế Giới bằng cách xuất khẩu những hàng hố có lợi thế nhất trong số
hàng hố có thể sản xuất. Chính lý thuyết của Ricardo đã châm ngịi cho tiến
trình tự do hố thương mại từ lâu . Ngày nay xu thế tồn cầu hố càng khơng thể
đảo ngược được, nhiều quốc gia cho rằng "thà hội nhập cịn hơn đứng ngồi cuộc"
; như vậy thách thức đối với tất cả các quốc gia cũng lớn và cơ hội cũng
nhiều .Việc tự do hoá thương mại đi liền với chun mơn hố sản xuất ở các
nước, việc đó chỉ đem lại hiệu quả khi quốc gia đó tập trung vào nhữnh ngành
nghề và lĩnh vực có thế mạnh .
0




Sự thành công của một loạt các con hổ Châu Á là bằng chứng sống cho
q trình Cơng nghiệp hố - Hiện đại hoá(CNH-HĐH) gắn liền với xuất khẩu.
Như vậy xuất khẩu có vai trị quan trọng trong cơng cuộc đổi mới kinh tế ,là quá
trình xuyên suốt thời kỳ CNH- HĐH . Bản thân các nước công nghiệp phát triển
kêu gọi các nước đang phát triển nhanh chóng thực hiện tự do hố thương mại ,
mục đích chính họ muốn mở rộng thị trường khi mà năng lực sản xuất trong
nước đã vượt trên nhu cầu trong nước .Tựu chung lại vai trò xuất khẩu thể hiện
qua một số mặt sau :

Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
Khi tham gia xuất khẩu bản thân mỗi doanh nghiệp phải tự vận động để
thích nghi với cơ chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế , muốn vậy doanh nghiệp
phải áp dụng mơ hình quản lý phù hợp với thị trường mở , thay đổi công nghệ
tăng năng suất giảm chi phí nhằm giảm giá thành sản phẩm . Khả năng cạnh
tranh các doanh nghiệp trong nước cao chính là sức mạnh kinh tế của một nước.
Đối với các nước đang phát triển đây là cơ hội cho họ điều chỉnh cơ cấu kinh tế
phù hợp với kinh tế Thế Giới , thực hiện tốt hơn công cuộc cải cách doanh
nghiệp.

Mở rộng thị trường , giảm thất nghiệp
Có ba vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm :
. Thị trường
. Giá cả
. Chất lượng sản phẩm
Trong đó thị trường là một trong số những nhu cầu bức thiết đối với mọi
doanh nghiệp, sự tồn tại của doanh nghiệp thuộc vào phạm vi thị trường mà nó
nắm trong tay. Bởi vậy mà đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu riêng cho lĩnh vực
thị trường. Tùy từngdoanh mghiệp, họ chọn cho mình cách đi riêng trong khâu

1


tìm kiếm và mở rộng thị trường hay bành chướng thị trường. Không dừng ở cấp
doanh nghiệp mà bản thân Chính phủ nhiều nước trên Thế Giới ln gắn chính
trị, ngoại giao song hành với việc mở rộng thị trường. Hai cuộc Đại chiến Thế
Giới lần thứ I và thứ II xuất phát từ nhu cầu mở rộng thị trường, cịn ngày nay
các quốc gia lựa chọn tìm kiếm thị trường bằng con đường ngoại giao hoặc chất
lượng- giá cả hàng hoá. Xuất khẩu tạo điều kiện thâm nhập vào thị trường Thế
Giới, nơi nhu cầu hàng hoá phong phú đa dạng. Mỗi quốc gia tiềm ẩn một tiềm
năng sản xuất hàng hố phong phú đa dạng, trong đó có sản phẩm mang tính đặc
thù dân tộc. Tăng cường các hoạt động buôn bán thương mại quốc tế giúp cho
Thế Giới trở nên gần gũivà nhiều khi trở thành biện pháp hiệu quả nhất trong
việc quốc tế hoá bản sắc dân tộc.Các cơng ty bị bó hẹp thị trường trong nước,
trong khi năng lực sản xuất tăng cao; nhu cầu trong nước thấp cịn nhu cầu bên
ngồi lớn. Như vậy bản thân cái nội sinh làm nảy sinh tính bức thiết nhu cầu
tiềm kiếm thị trường . Sự gặp gỡ giữa "Cung" nội địa và "Cầu"quốc tế đã trở nên
bức thiết không chỉ phạm vi một quốc gia; đứng trước diễn cảnh đó lợi ích của
một quốc gia thu được khơng đơn thuần 1+1=2 mà ngồi hai đơn vị giá trị về vật
chất cịn "+" thêm giá trị dân tộc.Có thể đi đến kết luận, nhu cầu thị trường và
đẩy mạnh xuất khẩu đã bổ xung cho nhau làm hoàn thiện tính khả thi của tự do
hố thương mại .
Gia tăng xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác triệt để
cơng xuất máy móc thiết bị , tiếp đến mở rộng quy mô sản xuất ; việc này gắn
liền với thu hút nhân công lao động tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội . Làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp, tại vấn đề này xin lưu ý các nhà hoạch định chính sách
rằng:do trú trọng đến xuất khẩu , nhất việc xuất khẩu gắn liền với ngành có lợi
thế so sánh cao nhất nên gây ra hiện tượng lao động xã hội có thiên hướng tập
trung vào ngành đó dẫn đến " thất nghiệp cơ cấu"- tức là có cự mất cân đối cung
cầu giữa các loại lao động. Khi sự biến động này là mạnh và kéo dài , thất

nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn . Tuy nhiên, ta
2


khơng nhìn nhận vấn đề trên một cách tiêu cực mà phủ nhận vai trò xuất khẩu,
nhưng đây là điểm yếu cho thiên hướng thái quá một ngành nghề hay khu vực
tham gia xuất khẩu lớn ; và có biến động khi thị trường Thế Giới mất ổn định .
Từ đó thấy được tính quan trọng đa dạng hố sản phẩm xuất khẩu, điều này xin
chuyển xuống phần tiếp theo .

Điều chỉnh cơ cấu kinh tế gắn liền đa dạng hố sản phẩm
Để thực hiện lý luận phần này tơi xin trích dẫn ngun văn ý tưởng tơi đã
trình bày ở phần mở rộng thị trường,giảm thất nghiệp : " Mỗi quốc gia tiềm ẩn
một tiềm năng sản xuất hàng hoá phong phú đa dạng". Khi tham gia xuất khẩu
các quốc gia thường chú trọng đến tính lợi thế trong trao đổi thương mại , cịn
những ngành có lợi thế thấp hay ngang bằng với các nước ; nhiều khi các quốc
gia đã bỏ quên . Song quá trình tham gia xuất khẩu làm tăng tính năng động của
xã hội; nâng cao cạnh tranh sản phẩm quốc nội , từ chỗ xuất khẩu những sản
phẩm có lợi thế sau mở rộng dần sang đến những sản phẩm kém về lợi thế ,biết
khắc phục bất lợi chuyển sang thành lợi thế:những tính năng trên tạo đà cho sự
đa dạng hố hàng hố xuất khẩu. Nó cịn góp phần phân cơng lao động trong
nước hợp lý và tự động điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Điều trên có ý nghĩa lớn đối
với các quốc gia đang phát triển, giúp điều chỉnh luồng vốn đầu tư và định
hướng phát triển kinh tế dài hạn , xâydựng chính sách ưu đãi và tập trung vốn
vào ngành trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội . Cịn những nước phát
triển hồn thiện tính chun mơn hố sản xuất .

Hồn thiện hệ thống pháp luật,phù hợp thông lệ quốc tế và cải
cách hành chính
Để tạo điều kiện các doanh nghiệp trong nước thuận lợi trong xuất khẩu

các cơ quan hữu quan cần hỗ trợ cho các công ty trong nước. Việc làm này cần
được thống nhất, bàn bạc kỹ lưỡng phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan và các bộ
3


với nhau như : hải quan, bộ tài chính, bộ thương mại, các cơ quan hành chính
khác...,sự hợp tác mang tính tồn diện là chất xúc tác giúp đẩy mạnh xuất khẩu.
Đứng trước nhu cầu bức bách của xuất khẩu buộc các ngành trên phải đổi mới
quản lý phù hợp tình hình trong nước và thơng lệ quốc tế. Việc xuất khẩu khơng
phải ln gặp thuận lợi do có sự khác biệt về điều kiện địa lý ; phong tục tập
quán dân tộc, hệ thống pháp luật... Lý do trên gây ra mâu thuẩn giữa các đối tác
làm ăn, vì mỗi bên ln muốn bảo vệ quyền lợi của mình nên trong quá trình xảy
ra tranh chấp mỗi bên muốn xử lý vụ kiện tại nước mình hoặc lựa chọn nước thứ
ba có hệ thống pháp luật khơng gây thiệt hại khi khởi kiện . Để tránh bị thiệt hại
cho quốc gia và bị động, ngành pháp luật cần ban hành những bộ luật mới nhằm
hoàn thiện hệ thống luật pháp bn bán với nước ngồi ; những bộ luật trên phải
phù hợp với thông lệ quốc tế và điều ước quốc tế . Ngoài ra, để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp trong nước thuận lợi trong trao đổi thương mại quốc tế bản
thân Chính phủ cần tăng cường công tác ngoại giao nhằm ký kết các bản tương
trợ tư pháp - đây là biện pháp tạo niềm tin giữa các doanh nghiệp hai nước và
cùng nhau thống nhất khi giải quyết các vụ kiện quốc tế .

Xuất khẩu góp phần thu ngoại tệ mạnh
Việc đẩy mạnh xuất khẩu để thu ngoại tệ rất có ý nghĩa đối với các quốc
gia đang phát triển . Các quốc gia trên đang có nhu cầu rất lớn về vốn cho phát
triển kinh tế , nhu cầu này trải rộng trên nhiều lĩnh vực từ cơ sở hạ tầng đến nhu
cầu mua sắm hàng hoá tiêu dùng chuyên dụng hay nguyên vật liệu cho sản xuất .
Đứng trước nhu cầu lớn đòi hỏi phải có nguồn vốn dồi dào để đáp ứng kịp nhu
cầu kiến thiết đất nước . Nhưng hầu hết các quốc gia trên Thế Giới ở thời kỳ này
đều vấp phải việc thiếu vốn trầm trọng cho đầu tư . Đứng trước vấn đề trên các

quốc gia chọn giải pháp vay vốn nước ngoài bên cạnh huy động nguồnvốn trong
nước . Nguồn vốn nước ngoài ở đây được huy động qua hai kênh : thu hút đầu tư
nước ngoài ( bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp ) , vay nợ nước ngoài .
4


Trong đó, các khoản vay nợ nước ngồi thường đổ vào các dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng - bởi các dự án này đòi hỏi vốn lớn , thời gian thu hồi vốn lâu mức rủi do
cao. Các khoản vay này đều chịu lãi suất và vay bằng ngoại tệ mạnh, để bảo đảm
uy tín với nước hoặc các tổ chức quốc tế khác, những quốc gia trên phải trả lãi
và gốc theo đúng hạn mà hai bên đã thoả thuận . Để trả được các khoản nợ trên
các quốc gia đang phát triển ngoài việc cân bằng nội lực và ngoại lực, còn phải
thu hút ngoại tệ mạnh và đảm bảo tỷ lệ dự trữ ngoại tệ cao nhằm trả nợ . Ngoài
ra nhu cầu mua sắm nguyên vật liệu vật tư và trang thiết bị máy móc cao nên nhu
cầu ngoại tệ là rất lớn . Để thực hiện trang trải nhu cầu trên chỉ có xuất khẩu mới
thu hút được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và xây dựng đất
nước.

1.2 Các hình thức xuất khẩu
Đã có nhiều định nghĩa về xuất khẩu nhưng tựa chung xuất khẩu là hàng
háo của quốc gia được bán và trao đổi cho các cá nhân , tổ chức , doanh nghiệp
của nước ngoài thu ngoại tệ . Để hiểu được nội dung của xuất khẩu ta xét đến
một số hình thức xuất khẩu sau :
Tái xuất khẩu : trong đó hàng hố đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất
khẩu , rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất khẩu sang nước nhập khẩu , hình
thức này lợi nhuận cao nhưng nước tái xuất khẩu cũng nhận rủi ro cao . Tính ưu
việt của hình thức tái xuất tạo thêm nhiều cơng ăn việc làm trong nước và phát
triển các ngành hỗ trợ bổ xung,bên cạnh đó cũng bộc lộ những bất cập như có
một bộ phận lao động trong nước lại phụ thuộc vào hình thức tái xuất khẩu
Chuyển khẩu : là hình thức hàng hố được chuyển thẳng từ nước xuất

khẩu sang nước nhập khẩu thông qua nước thứ ba- làm khâu trung gian trong
quá cảnh hàng hoá . Về mặt ưu điểm chuyển khẩu không chịu rủi ro cao như tái
xuất khẩu, tạo thêm công ăn việc làm trong nước ở ngành vận tải và tạo điều
5


kiện phát triển thị trường tài chính do có sự chu chuyển hàng hoá nên thường
kèm theo giao dịch tiền tệ
Xuất khẩu tại chỗ : đây là hình thức xuất khẩu mới lạ sự ra đời loại hình
xuất khẩu này gắn liền với sự phát triển ngành công nghiệp du lịch và hoạt động
đầu tư ra nước ngoài mạnh mẽ của các tập đoàn đa quốc gia.
Xuất khẩu trực tiếp : là hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước được
đem bán trực tiếp với nước ngồi khơng thơng qua sự hỗ trợ của bất kỳ quốc gia
khác về mặt vận chuyển .
Xuất khẩu uỷ thác : là loại hình xuất khẩu thông qua đối tác thứ ba loại
xuất khẩu này tính ổn định trong xuất khẩu khơng cao do bị lệ thuộc vào đối tác .
Hình thức hàng đổi hàng : đây cũng là biện pháp xuất khẩu nhưng
thường áp dụng cho những quốc gia có quan hệ mang tính đặc biệt, hàng hố
thường khơng được trao đổi tự do mà dựa trên thoả thuận đã được đàm phán từ
trước rao đổi ngang giá trị .
Như vậy đi đến kết luận xuất khẩu là : bán hàng sảnxuất trong nước xuất
gỉa khỏi biên giới hoặc bán hàng ngay tại quốc gia mình cho tổ chức hoặc cá
nhân mang hàng ra biên giới kinh tế .

2 . SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM TRONG NGÀNH
CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ VIỆT NAM .

2.1 Vai trị của ngành cơng nghiệp tàu thủy đối với nền kinh tế quốc dân.
a . Vị trí của ngành cơng nghiệp tàu thuỷ trong nền kinh tế quốc dân .
Nghị quyết 03/NQ-TW ngày 6/5/1995 của Bộ Chính trị Ban chấp hành

Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ :

6


Ví trí và đặc điểm địa lý của nước ta, cùng với bối cảnh phức tạp trong
vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế
biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo
vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển. Phấn đấu trở thành một nước mạnh
về kinh tế biển.
Để có thể trở thành một nước mạnh về kinh tế biển chúng ta phải có một
ngành cơng nghiệp tàu thủy (CNTT) đủ mạnh, trong phạm vi nhất định có sức
cạnh tranh quốc tế, làm hạ tầng cần thiết cho một số ngành kinh tế biển như vận
tải, khai thác các tài nguyên trong lịng biển như dầu khí, hải sản, các khống sản
quý ... Hơn thế nữa, còn phát triển để tạo nên lực lượng đủ sức bảo vệ chủ quyền
lãnh hải và các vùng đặc quyền kinh tế trên biển.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng đã có chỉ

"Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng, năng lượng, nhiên
liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, luyện kim hố
chất ..."và sau đó đã khẳng định "Phát triển mạnh cơng nghiệp đóng và sửa chữa
tàu thuỷ " (1)
Phải nói rằng Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đúng khi định hướng
phát triển mạnh ngành CNTT do xác định đúng tầm quan trọng của ngành trong
xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như kinh tế quốc gia, bởi :

CNTT là một ngành công nghiệp lớn góp phần tạo nên thị trường
cho các ngành cơng nghiệp khác.
Công nghiệp tàu thuỷ thực ra là một ngành cơng nghiệp chế tạo tổng hợp.
Trong q trình làm ra sản phẩm của mình nó sử dụng sản phẩm của hầu hết các

ngành công nghiệp khác nhau như:
- Công nghiệp luyện kim, như các sản phẩm thép tấm, thép hình, nhôm,
đồng, các loại hợp kim cường độ cao...
7


- Công nghiệp chế tạo máy, các thiết bị động lực và phụ trợ: như các loại
động cơ điê-zel thuỷ, máy phát điện, cần cẩu, thiết bị cứu hoả, cứu sinh ...
- Công nghiệp điện, điện tử: như thiết bị thơng tin liên lạc thuỷ, nghi khí
hàng hải, thiết bị điện ...
- Công nghiệp chế tạo chất dẻo, vật liệu tổng hợp, hố chất như: sơn, dung
mơi, vật liệu composite...
- Điều khiển tự động, tin học ..
Với việc đồng thời sử dụng sản phẩm của hầu hết các ngành nói trên làm
vật tư đầu vào của mình ngành CNTT sẽ thúc đẩy các ngành cơng nghiệp đó
cùng phát triển. Hơn nữa, là một ngành công nghiệp liên ngành, khi phát triển
CNTT sẽ trở thành động lực thúc đẩy nhiều lĩnh vực khoa học cơng nghệ khác
phát triển nhanh chóng, đồng bộ ; từ khâu nghiên cứu, thiết kế đến kiểm định kỹ
thuật và ứng dụng công nghệ mới. Bản thân CNTT cũng là ngành công nghiệp
chế tạo thu hút nhiều lao động kỹ thuật và là ngành tạo ra giá trị doanh thu rất
lớn; nhất là khi sản phẩm của nó đạt được trình độ xuất khẩu .
Ở hầu hết các nước có CNTT phát triển, song song với hệ thống các nhà
máy đóng và sửa chữa tàu được xây dựng, các ngành công nghiệp khác cũng
phát triển, chuyên môn hố các cơ sở sản xuất của mình để cung ứng sản phẩm
cho ngành CNTT. Ví dụ như các xí nghiệp sản xuất động cơ điêzel thuỷ, thiết bị
điện tàu thuỷ, sơn tàu thuỷ ... Chỉ tính riêng ở Nhật Bản năm 2000 doanh số xuất
khẩu các mặt hàng maý móc, thiết bị tàu thuỷ đã đạt giá trị 164,274 tỉ yên/tổng
doanh số 870,129 tỉ yên (2)

Phát triển ngành CNTT gắn liền với thực hiện chiến lược kinh tế

biển quốc gia .
Căn cứ vào các chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu giai đoạn 1993-2001, trong
đó mức tăng GDP là 7,5%/năm và dự báo cho giai đoạn 2003-2010 là 7%/năm,
Bộ giao thông vận tải tại "Báo cáo Chiến lược quốc gia phát triển GTVT đến
8


2010 & định hướng phát triển đến 2020-Tháng 3-2002" đã đưa ra nhu cầu phát
triển phương tiện vận tải thuỷ từ nay đến năm 2010-2020 như sau:

- Đội tàu vận tải :
Bảng 1: Dự báo nhu cầu Tàu các loại của Việt Nam 2010-2020
Chỉ tiêu
phát triển

Đội tàu

Đơn vị

Loại phương tiện

Ở năm

Ở năm

2010

2020

- Đội tàu viễn dương


Triệu DWT

2,415

5,650

- Đội tàu ven biển

Triệu DWT

0,825

1,556

biển
- Trong đó trọng tải Triệu DWT
bình
Đội tàu
sơng

DWT/chiếc
- Trọng tải
- Công suất

10.000

15.000

quân

Triệu DWT
Triệu mã

1,929
2,313

3,00
3,650

lực
Triệu ghế

- Tàu chở khách
0,320
0,480
Nguồn : Master Plan for Rehebitation of Coastal Transportrtion of Vietnam , 1999

- Đội tàu cơng trình :
Dự báo khối lượng thi công, nạo vét tạo bãi ở năm 2002 là khoảng 30 triệu
m3/năm và ở năm 2010 khoảng 60 triệu m 3/năm. Do đó trong mỗi năm đội tàu
cuốc hút sơng, cửa biển và ven biển cần tăng cường tổng năng suất bổ sung từ
10.000m3/h tới 15.000m3/h. Bên cạnh các tàu cuốc, tàu hút cịn phải có các tàu
xây dựng cơng trình biển như tàu khoan, sà lan đóng cọc, tàu lắp đặt dàn khoan,
9


cần cẩu nổi, tàu thả phao và lắp đặt đường ống... Dự báo đội tàu cơng trình ở
năm 2002 cần có 40 chiếc các loại với năng suất cuốc, hút là 40.000m 3/h và có
tổng cơng suất là 200.000 mã lực. ở năm 2010 đội tàu này sẽ tăng lên 120 chiếc
với năng suất cuốc hút là 120.000m3/h và có tổng cơng suất là 800.000 mã lực.

Trung bình mỗi năm cần bổ sung một thủy đội cơng trình gồm 12 tàu các loại
với tổng công suất từ 40.000 - 60.000mã lực(CV).

- Đội tàu khai thác và dịch vụ dầu khí :
Dự kiến sản lượng khai thác dầu khí của nước ta (chủ yếu trên biển) sẽ là
20 triệu tấn vào năm 2002, 25 triệu tấn vào năm 2007. Như vậy, căn cứ kế hoạch
dự kiến này, để phục vụ cho nhiệm vụ thăm dị, xây dựng cơng trình khai thác
dầu khí với mức tăng sản lượng từ 1.000.000T đến 2.000.000T/năm, hàng năm
cần bổ sung từ 2 đến 3 chiếc tàu dịch vụ dầu khí với tổng cơng suất khoảng
20.000CV; lắp đặt thêm 5 dàn khoan khai thác và bổ sung từ 1 đến 2 kho chứa
dầu nổi. Tổng số tàu dịch vụ khai thác dầu khí đến năm 2002 phải có 60 chiếc và
đến năm 2010 cần 120 chiếc(5)(6)(15) .

- Đội tàu đánh bắt cá xa bờ:
Đây là nhu cầu hết sức cấp bách đối với ngành thủy sản của nước ta. Việc
phát triển đội tàu này không những đáp ứng tốt cho việc khai thác nguồn lợi bãi
sâu xa bờ tại các vùng biển và thềm lục địa mà còn đáp ứng được yêu cầu về an
ninh quốc phòng trong chiến lược kinh tế biển của chúng ta. Hàng năm, chúng ta
cần phải đóng bổ sung hàng nghìn tàu đánh cá xa bờ có cơng suất từ 90 đến 600
sức ngựa. Phục vụ cho chương trình đánh cá xa bờ mỗi năm Chính phủ đầu tư từ
nguồn Quỹ hỗ trợ đầu tư cho ngư dân và các công ty đánh cá vay khoảng 600 tỉ
VNĐ để đầu tư cho đóng tàu(5)(9)(15) .

- Đội tàu du lịch ven biển, sơng, vùng hồ:
Bao gồm các loại du thuyền, các loại tàu chở khách ven biển sẽ được bổ
sung và ngày một gia tăng cùng với nhu cầu đi lại và sự mở mang của ngành du
lịch biển và các vùng hồ. Dự kiến mỗi năm sẽ bổ sung từ 5000 tới 8000 số ghế
10



hành khách với tổng trọng tải khoảng 30.000T ở năm 2002 và 60.000T ở năm
2010(6)(9)(15) .

- Đội tàu quân sự :
Để đảm bảo khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia và vùng đặc quyền kinh
tế, cần bổ sung hàng năm: 5000DWT trọng tải tàu vận tải quân sự, 1 đến 2 tàu
chở quân hoặc đổ bộ, 1 đến 2 tàu tuần dương, 2 đến 4 tàu tên lửa kiêm săn ngầm,
4 đến 6 tàu tuần tiễu. Ngoài ra lực lượng hải quân cần phải được trang bị thêm
các tàu: 1 tàu chỉ huy đô đốc, 2 tàu đo đạc trinh thám, 10 tàu đổ bộ siêu tốc, 2 tầu
huấn luyện đa năng. Đến năm 2007 cần có 170 chiếc và năm 2010 cần có 600
chiếc tàu chiến các loại(6)(9)(15) .

- Đội tàu tuần tra ven biển và nội địa :
Phục vụ các lực lượng biên phòng, hải quan, cảnh sát biển, cảnh sát
đường thủy, kiểm ngư, thuế vụ v.v... Hàng năm cần khoảng: 4 đến 6 tàu tuần tra
ven biển với công suất 2000 - 6000 sức ngựa; 20 đến 30 tàu tuần tra cửa biển,
trong sông, với công suất đến 2000 sức ngựa; 30 canô tuần tra vỏ nhôm, với
công suất đến 1000 sức ngựa; 30 canô tuần tra vỏ nhựa với công suất đến 500
sức ngựa. Đến năm 2007 cần có 280 tàu và năm 2010 có 600 tàu tuần tra các loại
.

- Dự báo nhu cầu sửa chữa tàu các loại :
Trong những năm tới CNTT sẽ đảm nhận hầu hết các nhu cầu sửa chữa
cho đội tàu trong nước. Ngoài ra sẽ đảm nhận các kế hoạch sửa chữa cho nước
ngoài.
Bảng 2 : Dự báo nhu cầu sửa chữa tàu 2002-2010
Đơn vị:1.000.000USD

Năm 2002


Các nhiệm vụ sửa chữa

11

Năm 2010


Nhu

Khả

Nhu

Khả

cầu

năng

cầu

năng

toàn

trong

toàn

trong


bộ

nước

bộ

nước

400

200

1.600

1.200

1. Nhu cầu sửa chữa toàn bộ đội tàu
Việt Nam (lấy 3% giá trị đội tàu
hàng năm).
2. Sửa chữa tàu cho nước ngoài.
3. Sửa chữa tàu tại các nhà máy liên
doanh.

60

300

200


2.000

Tổng cộng
400
460
1.600
Nguồn : Quy hoạch ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010- Trang 1

3.500

- Sản xuất kết cấu thép và các mặt hàng phi tiêu chuẩn :
cho các nhà máy đang và sẽ được xây dựng như: Nhiệt điện, xi măng,
đường, hóa chất, các cơng trình dầu khí trên biển v.v... đang có nhu cầu rất lớn.
Hàng năm Việt Nam cần chế tạo hàng vạn tấn kết cấu thép này.

- Xây dựng cơng trình biển và cơng trình cơng nghiệp :
Đây là khối lượng công việc rất lớn trong thời kỳ đẩy mạnh đầu tư cơ sở
hạ tầng như: Cảng biển nước sâu, các nhà máy đóng tàu, các cơng trình biển
phục vụ an ninh quốc phịng, đường xá, cầu cống v.v...
Tổng giá trị hàng hóa (cả đóng mới và sửa chữa) từ nay tới năm 2007 là
2.240 triệu USD, trong đó đóng mới là 1.960 triệu USD và sửa chữa là 460 triệu
USD. Tới 2010 có thể đạt tới 6.000 triệu USD. Trong đó giá trị đóng mới là
4.000 triệu USD, giá trị sửa chữa là 2.000 triệu USD (6)(9)(15).
Như vậy có thể nói tuỳ theo mức độ tăng cường về cơ sở vật chất kỹ thuật,
các cơ sở CNTT của ta nếu được đầu tư thoả đáng thì từ nay đến năm 2010 có
thể tạo ra được một khối lượng giá trị hàng hố về đóng mới, sửa chữa tàu
thuyền các loại là 6 tỷ USD .
Thực tế, trong những năm vừa qua, xét trên số liệu tổng kết các kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh trong các năm 1998/1999/2000 của riêng Tổng
12



cơng ty CNTT Việt Nam có thể thấy mức tăng trưởng bình quân của các đơn vị
trực thuộc là 30%/năm. Doanh thu của Tổng công ty trong 2 năm gần đây đạt
gần 1000 tỷ VNĐ/năm. Trong phương án kinh doanh cho giai đoạn kế hoạch
2002-2007 Tổng công ty đề ra mục tiêu Tổng giá trị sản lượng khoảng 14.197 tỷ
VNĐ; Bình quân năm là 2.330 tỷ VNĐ, hay tốc độ tăng trưởng bình quân hàng
năm sẽ là 30-35%.
Nếu xem xét các số liệu trên trong khung cảnh một nền kinh tế có cơ cấu
khơng cân đối như của Việt Nam hiện nay, khi thu nhập quốc dân chủ yếu là từ
nông nghiệp và xuất khẩu nguyên liệu thô hoặc làm hàng gia cơng, thì mỗi đồng
thu nhập có được từ sản xuất cơng nghiệp; nhất là cơng nghiệp cơ khí là một
điều rất đáng khích lệ và tự hào .
Bảng 3 : Kết quả kinh doanh của Tổng cty CNTT Việt Nam

Giá trị sản

Sản phẩm

Tốc độ PT

Tốc độ PT

lượng

Chủ yếu

(%)

(%)


(triệu đồng)
Năm 1998

426.000

Tàu 400-

100%

462.000

3.500T,..
Tàu dầu 3500T,

115%

Năm 1999

nghiên cứu
Năm 2000

biển...
Tàu 6500T, ụ

672.000

145%

nổi 8500T,..

Tàu 6500T, ụ
Năm 2001
850.000
nổi 8500T, ...
127%
Cộng :
2.410.000
B.quân/năm
602.500
130%
Nguồn : Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh và chương trình phát triển giai đoạn
2002-2007 của TCty CNTT Việt Nam , Tháng 8/2001

13


Tóm lại, khả năng đóng góp của ngành CNTT đối với nền kinh tế quốc gia
là rất lớn và lâu dài, đây cũng là điểm thuận lợi cho việc xác định chiến lược thị
trường cho ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Ngoài ra, như chúng ta đã biết để xây dựng được "quốc gia mạnh về kinh tế
biển" phát triển bền vững địi hỏi phải có một ngành cơng nghiệp mang tính chất
hậu cần, đủ khả năng chủ động trong cung cấp một khối lượng lớn thiết bị, dịch
vụ có yêu cầu kỹ thuật cao, làm cơ sở hạ tầng. Trang thiết bị kỹ thuật đặc trưng
cho các phân ngành kinh tế biển thường tập trung cho các lĩnh vực như:


Khảo sát và nghiên cứu biển,




Xây dựng các cơng trình biển,



Thăm dò khai thác tài nguyên biển, trước tiên là thăm dị, khai thác dầu khí và
các nguồn lợi hải sản,



Vận tải biển và dịch vụ cảng,



Du lịch trên biển ...
Các trang bị này có nhiều nét khác biệt nhau; Nhưng chiếm tỷ trọng nhiều

nhất vẫn là các phương tiện chuyên chở, các loại thiết bị nổi có chung một cơ sở
khoa học và công nghệ là công nghiệp tàu thuỷ.
b . Tính tương hỗ giữa ngành cơng nghiệp tàu thủy với các sản phẩm
ngành cơ khí .
Trong giai đoạn và vận hội mới của phát triển kinh tế ,Chính phủ đã xác định
ngành cơ khí vẫn đóng vai trị quan trọng trong q trình cơng nghiệp hố- hiện
đại hố (CNH- HĐH) đất nước .Với quan điểm và định hướng mới cho sản
phẩm co khí thay thế nhập khẩu , đồng thời chuyển dần trọng tâm sang xuất khẩu
gắn chế tạo cơ khí với cơ giới hố nơng nghiệp . Trong q trình khơi phục
ngành cơ khí có tới 50,2% (trên tổng số 463 xí nghiệp ) là xí nghiệp cơ khí chế
tạo . Đây là tiềm năng lớn cho ngành chế tạo máy động lực ;thực té ta đã sản
xuất được động cơ 6-8-12 mã lực tuy nhiên thị trường vẫn khơng ổn định và hạn
hẹp khó khăn trong phát triển động cơ cỡ lớn. Nhưng đây là tín hiệu đáng mừng
14



cho phát triển ngành chế tạo động cơ cỡ lớn và một số sản phẩm cơ khí khác .
Đây là cơ hội cho ngành cơ khí nước nhà vươn lên phát triển một cách toàn diện
từ động cơ đến chế tạo máy và những sản phẩm cắt gọt gia công khác .Khơng thể
phủ nhận vai trị hỗ tợ bổ xung lẫn nhau giữa hai ngành đống tàu và chế tạo cơ
khí; thực tế trên Thế Giới xuất hiện trung tâm đóng tàu gắn trung tâm sản xuất
động cơ cỡ lớn và các sản phẩm phụ cơ khí .
Có thể nói tiềm năng xuất khẩu của ngành cơ khí Việt Nam là rất lớn . Với
quan điểm định hướng thị trường cho sản phẩm cơ khí là "thay thế nhập khẩu ,
đồng thời chuyển dần trọng tâm sang xuất khẩu "Bộ công nghiệp Việt Nam dự
báo " năm 2010, ngành cơ khí Việt Nam xuất khẩu sẽ phải đạt khoảng 30% tổng
giá trị sản phẩm cơ khí , tức khoảng 1,33tỷ USD/năm".Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam (theo cách phân loại của Việt Nam là một bộ phận của ngành cơ khí chế tạo
) nói riêng hiện có nhiều điều kiện thuận lợi khách quan , chủ quan để phát
triển ,gia nhập thị trường đống và sửa chữa tàu quốc tế .

Về khách quan: Việt Nam có bờ biển dài, với điều kiện tự nhiên rất thuận
lợi cho phát triển vận tải ven biển như nhiều vịnh biển kín gió có độ sâu tự nhiên
lớn, khơng sa bồi, cónhiều cửa biển cửa sông lớn lại nằm kề bên các tuyến
đường hàng hải quốc tế huyết mạch của Thế Giới như Á-Âu-Mỹ, Bắc á- Âu,
tuyến khu vực Đông Nam Á... Việt Nam hội đủ các yếu tố phục vụ nhu cầu
quốc gia và tham gia hệ thống cảng trung chuyển quốc tế. Đó cũng chính là một
yếu tố thuận lợi đầu tiên cho việc phát triên ngành cơng nghiệp đóng và sửa chữa
tầu biẻn.
Ngoài ra, trong những năm gần đây các chuyên gia trong lĩnh vực hàng hải đã
ghi nhận xu hướng chuyển dịch các trung tâm cơng nghiệp đóng tàu về khu vực
Châu á Thái Bình Dương song song với sự phát triển của các nền kinh tế năng
động kéo theo sự tấp lập của các tuyến vận tải quốc tế. Hơn nữa, giá thành tàu
đóng mới và sửa chữa các loại tàu thông thường của các nhà máy Châu Âu là rất

cao so với Nhà maý đóng tàu Châu á. Hiện tại, ở các nước công nghiệp phát triển
15


chi phí nhân cơng lên cao trong khi các sản phẩm tàu thương là đơn chiếc, khả
năng ứng dụng tự động hố khó khăn, chi phí đầu tư đổi mới thiết bị là không
nhỏ. Một lý do nữa là nganh CNTT không phải là nganh công nghiệp sạch như
các ngành công nghệ sử dung công nghệ cao như: điện tử-máy tính trong khi các
chỉ tiêu về mơi trường của khu vực Châu Âu là rất cao .... Đồng thời ,CNTT có
một đặc điểm là nó thường phải được phát triển mạnh mẽ ở những khu vực có
tuyến giao thơng đương biển bật rộn nhất. Theo nhận định của Lloyd's List,tất cả
các yếu tố đó hội tụ gần như đầy đủ trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương.

Về chủ quan: Việt Nam có một đội ngũ cán bộ cơng nhân đóng tàu có
tay nghề khá, được đào tạo cơ bản tại các nước Châu Âu có trình độ đóng tàu
cao như Liên Xô cũ, Ba lan, Đông Đức (cũ) ... Ngay từ cuối những năm 50 và
cho đến tận những năm 80 sau này Nhà nước ta đã có kế hoạch đầu tư lâu dài
cho ngành cơ khí. Hầu hết những học bổng đào tạo bậc đại học và sau đại học ở
nước ngoài được dành cho những người ưu tú nhất. Ngành giao thông vận tải
được giao nhiệm vụ chuẩn bị một đội ngũ cán bộ công nhân viên đưa đi thực tập
tại Cộng hoà nhân dân Ba lan nhằm chuẩn bị cho kế hoạch đóng tàu vạn tấn
ngay từ đầu những năm 70(10) ... Trong thời gian chiến tranh chống Mỹ ,những
con tàu vận tải vũ khí nổi tiếng trên đường mịn Hồ Chí Minh trên biển và các
con tàu không người lái phá thuỷ lôi trên luồng lạch cảng sơng biển của nước ta
chính là sản phẩm của đội ngũ đóng tàu này. Hiện tại, Đảng và Chính phủ đã có
những quyết sách, chủ trương tiếp tục đầu tư cho phát triển ngành cơ khí nói
chung và CNTT nói riêng; xác định đó là một trong những ngành mũi nhọn của
công nghiệp Việt Nam trong thế kỷ tới.
Lợi ích của việc xuất khẩu các sản phẩm cơ khí nói chung và của ngành
CNTT nói riêng là rất to lớn. Theo quy luật giá cánh kéo, giá sản phẩm nông

nghiệp và nguyên liệu sẽ ngày càng hạ; Trong khi giá các sản phẩm đã chế biến,
nhất là các sản phẩm công nghiệp sẽ ngày càng tăng. Muốn tăng kim ngạch xuất
khẩu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải tính đến việc mau chóng tăng nhanh giá trị
16


xuất khẩu hàng hố cơng nghiệp. Do sản phẩm của ngành CNTT chủ yếu là các
con tàu; giá trị của các sản phẩm này thường không nhỏ. Thấp nhất một sản
phẩm nhỏ như tàu đánh cá kéo lưới đuôi, vỏ thép loại có chiều dài 30m, cơng
suất 600CV; giá mua của các chủ tàu Bắc Âu cũng vào khoảng 3-4 triệu USD
tuỳ thuộc mức độ trang thiết bị của tàu. Các loại vật tư thiết bị chính hiện nay
vẫn cịn phải nhập ngoại, song các loại thiết bị phụ trợ như bơm, van, thiết bị nội
thất tàu thuỷ hoàn toàn có thể dùng từ nguồn trong nước nếu các loại thiết bị đó
đảm bảo chất lượng, có chứng chỉ của cơ quan Đăng kiểm cho phép dùng cho
tàu thuỷ. Nếu chỉ làm gia công chế tạo phần vỏ thép và lắp đặt thiết bị do người
mua cung cấp thì trị giá xuất khẩu (doanh thu) cũng khoảng 700-800.000$/một
tàu cho loại tàu này. Như vậy, đối với sản phẩm tàu thuỷ phần giá trị nội địa
hồn tồn có thể tăng lên nhanh chóng nếu các ngành khác cùng hợp tác cung
cấp các sản phẩm cho làm hàng xuất khẩu hoặc xuất khẩu tại chỗ này.
Tuy vậy, cũng cần phải nói rằng thị trường sản phẩm tàu thuỷ và phương
tiện nổi của chúng ta không đồng nhất, không ổn định và dung lượng là nhỏ so
với thị trường quốc tế. Đầu tư phát triển công nghiệp tàu thuỷ là cần thiết. Nhưng
cũng cần phải chuẩn bị trước cho khả năng dư thừa sản phẩm. Do đó cần có xuất
khẩu để đảm bảo thị trường ổn định. Có như vậy ngành cơng nghiệp tàu thuỷ
mới phát triển bền vững và hiện đại hoá được. Việc xuất khẩu sản phẩm của
ngành công nghiệp tàu thuỷ sẽ giúp cho các đơn vị trong ngành có nguồn tài
chính để nhập khẩu trang thiết bị, tái đầu tư hiện đại hố cơ sở vật chất của mình.
Nhất là từng bước thực hiện được chiến lược nội địa hố sản phẩm tàu thuỷ để
có thể chủ động cạnh tranh hơn nữa.


2.2 Tính cấp thiết của việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm Cơng nghiệp tàu
thủy Việt Nam

Tính cấp thiết thể hiện trên một số mặt sau :
17


Một là : Sự phát triển của công nghiệp tàu thuỷ là "bà đỡ" cho sự phát
triển của một số ngành công nghiệp khác như chế tạo máy, luyện kim, điện tử,
hố chất ... Vì sản phẩm của đầu ra của các ngành đó lại chính là ngun liệu, vật
tư đầu vào của ngành CN tàu thuỷ. Ví dụ: trong khi xây dựng phương án 2 để có
được sản phẩm tàu hút bùn công suất 1.500m3/h xuất khẩu cho I-rắc với giá
cạnh tranh, Tổng công ty CNTT Việt Nam đã khảo sát và thấy rằng 50% khối
lượng thiết bị cho sản phẩm này, kể cả bơm hút bùn 1.600m3/h một vài nhà máy
cơ khí lớn của Việt Nam có thể chế tạo được. Trong thời gian qua khơng ít các
doanh nghiệp Liên doanh như sơn tàu biển Jotun-Haiphong, Vinapipe... đã tiến
hành hoạt động xúc tiến chuẩn bị đầu tư sản xuất hoặc chuyển đổi sản phẩm để
có thể trở thành nhà thầu phụ cho các nhà máy đóng tàu. Việc xuất khẩu được
sản phẩm CNTT cũng đồng thời mang ý nghĩa gián tiếp mở rộng thị trường xuất
khẩu sản phẩm cho các ngành cơng nghiệp khác.
Như vậy, có thể nói việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm với ngành CNTT
không chỉ là vấn đề chiến lược chuẩn bị cho việc hội nhập quốc tế và đảm bảo
hiệu quả đầu tư của ngành này trong tương lai, mà nó cịn là vấn đề cấp thiết vấn
đề thị trường của các doanh nghiệp cơ khí-cơng nghiệp khác. Vấn đề mở rộng thị
trường xuất khẩu không chỉ cấp thiết cho một doanh nghiệp một ngành nào mà là
vấn đề sống cịn cho tồn bộ nền sản xuất hàng hoá quốc gia.

Hai là : Hiện nay đang có sự chuyển dịch ngành cơng nghiệp đóng tàu từ
các nước Châu âu sang các nước có nền công nghiệp tàu thuỷ đang phát triển ở
những quốc gia có giá nhân cơng thấp . Qua hình thức bán cho các quốc gia trên

các hợp đồng đóng tàu cỡ nhỏ hoặc những loại tàu phù hợp với năng lực đóng
tàu của các quốc gia trên ;hai là tiến hành hợp tác với các nước trên tham gia
đóng mới hồn chỉnh một con tàu tại nước có giá nhân cơng thấp cịn nước có
nền cơng nghiệp đóng tàu lâu năm tiến hành cung cấp máy móc động cơ hoặc
một số thiết bị hiện đại khác . Như vậy các quốc gia có nền cơng tàu thuỷ phát
triển nhường quyền đóng mới các loại tàu cỡ nhỏ cho các quốc gia có nền cơng
18


nghiệp đóng tàu cịn non kém , thậm chí nhường cả những tàu cỡ lớn do ngành
này có tính chất lao động nặng nhọc và đòi hỏi nhiều lao động . Các quốc gia
này chuyển sang chế tạo máy móc động cơ chính . Vậy đây là cơ hội cho nước ta
tham gia xuất khẩu tàu có tính khả thi cao hơn .

Ba là :Tạo thị trường đầu ra cho ngành CNTT tăng trưởng và góp phần
tăng kim ngạch xuất khẩu, thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Vấn đề "thị
trường đầu ra" đối với các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam trong một vài
năm qua đã trở thành vấn đề sống cịn. Khơng một ngành CNTT của quốc gia
nào được xây dựng mà chỉ dựa vào nhu cầu của một hai chủ tàu trong nước.
Có ý kiến cho rằng, ở đây đang nảy sinh một nghịch lý, bởi hiện tại nhu
cầu của thị trường nội địa là không nhỏ; Ngành CNTT nên tập trung vào thoả
mãn nhu cầu trong nước trước. Ví dụ: trong thời gian 03 năm, từ 1998 đến 2000
chỉ riêng Tổng công ty Hàng hải Việt Nam-VINALINES đã nhập khẩu 19 tàu
vận tải biển cũ, tuổi tàu bình quân là trên 15 tuổi với tổng trọng tải 249.347 Tấn;
trị giá 102.770.00USD ; Trong số các tàu đã nhập có 10/19 tàu thuộc các loại mà
các nhà máy đóng tàu trong nước đủ năng lực chế tạo. Cũng theo kế hoạch đầu
tư của Tổng công ty Hàng hải thì tiếp theo trong giai đoạn 02 năm 2001-2002
Tổng công ty sẽ đầu tư tiếp 135.000.000USD để mua 17 tàu, trong đó dự kiến
đóng mới trong nước chỉ có 02 tàu trị giá 22 triệu USD (7)(8) . Sở dĩ các chủ tàu
trong nước thường có xu hướng muốn đề nghị để được Nhà nước chấp nhận cho

đi mua tàu cũ nước ngồi mà ngại đóng tàu trong nước do yếu tố tâm lý và hạn
chế về vốn đầu tư. Các chủ tàu trong nước thường muốn nhận được tàu ngay, giá
hạ và yêu cầu người cung cấp có tín dụng kèm theo. Điều này hiện tại các nhà
máy đóng tàu trong nước khơng thể đáp ứng, ngoại trừ tìm phương án gia cơng
xuất khẩu trước rồi qua đó lấy lại niềm tin với các chủ tàu trong nước.
Hơn nữa, nếu khơng mau chóng triển khai cơng tác chuẩn bị cạnh tranh
ngay để hội nhập từ bây giờ thơng qua các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu thì các
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam sẽ khơng cịn chỗ
19



×