LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thực
hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tức là nguồn vốn của NHTM chủ yếu là
nguồn vốn huy động từ nền kinh tế thông qua các cá nhân, các tổ chức kinh tế
trong và ngoài nước. Do đó vấn đề huy động vốn như thế nào cho hợp lý, đồng
thời quản trị tài chính, phân bổ sử dụng, bảo đảm và phát triển vốn như thế
nào để đảm bảo hoạt động kinh doanh Ngân hàng an toàn và hiệu quả cao là
lẽ sống còn đối với mỗi Ngân hàng đặc biệt trong điều kiện vô cùng phức tạp
của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ hạch toán kinh
doanh nên mọi giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều thông qua thị
trường. Lúc đầu hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giản là các dịch vụ đổi tiền, nó
chỉ phù hợp với buổi bình minh của nền sản xuất hàng hóa. Ngày nay khi nền
kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao của nền kinh tế hàng hóa thì Ngân
hàng có một vị trí và nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài chức năng
thông thường của mình, Ngân hàng còn là công cụ để Nhà nước thực thi các
chính sách tiền tệ kinh tế vĩ mô quản lý và điều tiết nền kinh tế có hiệu quả. Một
nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có hệ thống Ngân hàng
phát triển ổn định và vững mạnh nhưng Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp
tự chủ tài chính rất thấp vì vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn và là
loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro. Tất cả mọi vấn đề an toàn trong kinh
doanh, đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo mục tiêu hoạt động “khả năng
sinh lời” và hoạt động quản trị đều được đặt dưới sự giám sát, kiểm soát bằng
hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ của Nhà Nước nói chung và Ngân hàng
nói riêng bởi sự rủi ro trong thanh toán dẫn đến khủng hoảng “phá sản” của
một Ngân hàng sẽ kéo theo rủi ro trên toàn hệ thống từ đó dẫn đến khủng
hoảng kinh tế tài chính của một quốc gia. Điều đó đã phản ánh rõ nét vai trò
hết sức to lớn của nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy động trong quá trình
hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng.
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài. Ngay nửa đầu thế kỷ XI, ở châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên
mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này Ngân hàng
phát triển ở trình độ thấp, hoạt động của Ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực
giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế,
hoạt động của NHTM cũng từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển
hóa dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay chưa có khái niệm thống nhất
về NHTM do các nhà kinh tế nhận thấy có những khó khăn trong việc định
nghĩa “Ngân hàng”, bởi quan niệm Ngân hàng thay đổi theo không gian (tập
quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo đà tiến triển kinh tế-
xã hội). Theo một số chuyên gia về Ngân hàng trên thế giới thì Ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường được quan niệm như sau: “Ngân hàng là một
doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo
pháp luật theo đuổi mục tiêu lợi nhuận”. Theo luật của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa X,
kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Theo tính chất và hoạt động, các loại hình Ngân hàng
gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân
hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác”.
1.1.2. Đặc điểm của NHTM
Trước hết hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt
động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh
doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức
khác nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận. Ngân hàng thương mại là người “đi vay để cho vay”. Các hoạt
động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về
tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán để cam kết thực hiện công việc
nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí
dịch vụ hoặc hoa hồng.
Hai là, hoạt động của NHTM phải tuân theo pháp luật nghĩa là chỉ khi
NHTM thỏa mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật quy định như điều
kiện về vốn, phương án kinh doanh…thì mới được phép hoạt động trên thị
trường.
Ba là, hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn
nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc
tới các ngành khác và cả nền kinh tế. Rủi ro đến từ phía Ngân hàng, khách
hàng vay tiền và từ các yếu tố khách quan. Để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra
Chính phủ các quốc gia đã đặt ra những đạo luật riêng nhằm kiểm soát, đảm
bảo cho hoạt động của Ngân hàng được vận hành an toàn và đúng quy trình
của nó.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Cùng với sự phát triển của NHTM, hoạt động và các dịch vụ của NHTM
ngày càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung thì có ba hoạt động chính mà
NHTM thường làm đó là:
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của NHTM. NHTM bản
chất là một tổ chức trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không
phải bằng nguồn vốn chủ sở hữu vì vậy để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp
vốn cho nền kinh tế thì NHTM phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hay từ NHTW.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Sau khi huy động vốn, để bù đắp được chi phí huy động vốn và có lợi
nhuận thì NHTM phải tìm cách sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi.
Đây là hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho NHTM.
NHTM sử dụng vốn theo các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư
chứng khoán, đầu tư mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân
quỹ trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng nhất bởi vì nó đem lại phần lớn
thu nhập cho Ngân hàng.
1.1.3.3. Các hoạt động trung gian của NHTM
Bao gồm hoạt động thanh toán, hoạt động quản lý tài sản cho khách hàng,
hoạt động phát hành chứng khoán, hoạt động mua bán và bảo quản chứng
khoán, hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh
nghiệp…Các hoạt động này không phải đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho
NHTM nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt động huy động và
sử dụng nguồn vốn, đồng thời đa dạng hóa hoạt động, giảm bớt rủi ro và tăng
thu nhập cho Ngân hàng.
Tuy ba nhóm hoạt động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ
mật thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị
Ngân hàng không được coi nhẹ hoạt động nào mà phải luôn đặt mối quan hệ
giữa chúng trong khi đề ra chiến lược cũng như lập kế hoạch kinh doanh để
đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động.
1.1.4. Vai trò của NHTM
Đã từ lâu vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế trở nên vô cùng quan
trọng nhất là khi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu,
yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc độ đầu tư, từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
lâu.
1.1.4.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra trong quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế vì vậy muốn tăng vốn phải tăng thu
nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng
nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế.
Thông qua hình thức cấp tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh
nghiệp trong những nấc thang cạnh tranh cao hơn, cạnh tranh càng mạnh mẽ,
doanh nghiệp càng có những tiến bộ trong cách thức sản xuất dẫn đến cải
thiện đời sống của nhân dân thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập,…làm cho
kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn NHTM đã trở
thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Thị trường ở đây bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Để
tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào doanh nghiệp cần phải tham
gia vào thị trường đầu vào, nơi cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết cho việc
sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện thành công chiến lược 5P:
- Products: sản phẩm
- Price: giá cả
- Promotion: giao tiếp, khuếch trương
- Place: địa điểm
- People: con người
Từ đó tiếp cận mạnh mẽ thị trường đầu ra, đó là nơi tiêu thụ sản phẩm để
tìm kiếm lợi nhuận. Để quá trình trên diễn ra liên tục và bình thường thì doanh
nghiệp cần có “vốn”, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng
về tài chính và NHTM là nơi cần thiết giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình đó.
1.1.4.3. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền tài chính thế giới
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này của
NHTM ngày một thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi
quốc gia khi mở cửa hội nhập với bên ngoài phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi
mặt đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Để có thể hòa nhập với các quốc gia khác
trên thế giới, hệ thống NHTM trong nước có khả năng cung cấp nhiều loại hình
dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài vào trong nước như:
thanh toán quốc tế, cho vay ủy thác đầu tư,…giúp cho luồng vốn ra, vào một
cách hợp lý. Đây là điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các
quốc gia trên thế giới.
1.1.4.4. NHTM là công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát
qua con đường tín dụng và hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm
phát: NHTM sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng và bảo
lãnh còn NHTW sẽ tác động vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu
hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các NHTM thay đổi lượng tiền
trong lưu thông. Từ đó Ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp để ổn định sức
mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.1.5. Chức năng của NHTM
Tầm quan trọng của NHTM còn thể hiện ở chức năng của nó. Các nhà
kinh tế học đã ví NHTM là trái tim của nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm
tiền đi vì thế nguồn vốn nhàn rỗi được khơi thông đưa từ nơi thừa đến nơi
thiếu tiền thúc đẩy quá trình lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các chức
năng đó bao gồm:
1.1.5.1. Trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, Ngân hàng chính là “cầu
nối” giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế: trong nền kinh tế có những chủ
thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ
như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng
muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần
tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau
và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho
vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh
lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn do sự phát triển của thị
trường tài chính làm xuất hiện các khía cạnh khác của chức năng này với việc
phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,…NHTM có thể làm trung gian giữa công ty
và các nhà đầu tư, chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm
nhận việc mua trái phiếu công ty…Hơn nữa tín dụng Ngân hàng là một trong
những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, là cầu
nối giữa tiết kiệm, tích lũy và đầu tư.
Chức năng tín dụng của NHTM được hình thành rất sớm, ngay từ lúc hình
thành các NHTM. Ngày nay thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM
đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội
được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
1.1.5.2. Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Chức năng này có nghĩa là Ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi các khách hàng gửi tiền vào
Ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện
thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có
giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó
khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).
Chức năng này của NHTM ngày nay đã phát triển đến mức đa dạng,
không chỉ là trung gian truyền thống như trước mà còn quản lý các phương tiện
thanh toán. Đây là chức năng ngày càng quan trọng phù hợp với sự phát triển
và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng tạo
ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy
chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu
thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng
hóa. Ở các nước phát triển, phần lớn các công tác thanh toán ở trong nước
được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh toán trong nước được
thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM. Với phương pháp
công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính
và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện cho thanh toán bù trừ được
nhanh chóng, giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Ngoài ra việc thực hiện
chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán đã tạo cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển
tiền bằng điện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không
sử dụng séc Ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng
cách nối mạng các máy vi tính của các Ngân hàng thương mại trong nước
nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách
nhanh chóng.
1.1.5.3. Nguồn tạo tiền
Vào cuối thế kỉ XIX hệ thống Ngân hàng hai cấp được hình thành, các
Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó
Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng, là Ngân hàng
của các Ngân hàng. Các Ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động
trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát
hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các Ngân hàng thương mại
trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền
tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng tại Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền
được sử dụng trong các giao dịch.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
Ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông
qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng sử dụng số vốn huy động được
để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống Ngân hàng
thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp
ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền
giao dịch không chỉ là tiền giấy do Ngân hàng trung ương phát hành mà còn
bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các Ngân hàng
thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng và lưu
thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà Ngân hàng thương mại cho vay làm
tăng khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền
cung ứng.
Từ ba chức năng cơ bản trên có thể thấy được vai trò to lớn của NHTM
trong nền kinh tế. Hoạt động của NHTM đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm
chi phí giao dịch, và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn
nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn. NHTM
còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách
tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động của NHTW
và các chính sách của Nhà nước.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
“Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là hoạt động
mà trong đó các Ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể
khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo
đúng các quy định pháp luật”
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện
sớm nhất trong hoạt động của các NHTM. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt
động Ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các
tài sản có giá nhằm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí
là người gửi tiền chứ không phải là các Ngân hàng, các khoản tiền chỉ được
xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn
vốn đối với các Ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ
theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra
được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ Ngân hàng phát triển,
vị thế đó bị đảo ngược, Ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả của
tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn
vốn khả dụng và lớn nhất của các NHTM hiện nay. Chính vì vậy, trái ngược với
quá khứ, Ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây,
Ngân hàng là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các
Ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này
và chính vì vậy các phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng,
phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là
một trong những hoạt động hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn
của các NHTM.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự
phát triển của các NHTM, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã
có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn
nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này
cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc
biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh
khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không
chuyên, đặc biệt là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm
huy động vốn được sử dụng ở đây đối với hoạt động của các NHTM có thể nói
là hẹp và không rõ ràng nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất
trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, khái
niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng nhất của
các NHTM, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất, cụ thể là
nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác.