Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NHTM ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG LÀ DOANH NGHIỆP LỚN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.02 KB, 23 trang )

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NHTM ĐỐI
VỚI KHÁCH HÀNG LÀ DOANH NGHIỆP LỚN.
1.1. Doanh nghiệp lớn trong nền Kinh tế Quốc dân.
1.1.1. Khái niệm và tiêu chí đánh giá doanh nghiệp lớn.
Ở mỗi nước, trong mỗi thời kì khác nhau, tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể
của nền kinh tế mà pháp luật quy định mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh thích hợp.
Doanh nghiệp được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tuy nhiện nó vẫn bao gồm những
điểm chung cơ bản nhất. Theo luật doanh nghiệp 2005 tại điều 4 ghi rõ “Doanh nghiệp
là những tổ chức kinh tế có tên riêng có trụ sở giao dịch ổn định được đang kí kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh”
Trên cơ sở đó doanh nghiệp được chia làm nhiều loại khác nhau như doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài … tùy
theo hình thức phân chia theo quy mô, hình thức sở hữu, theo ngành nghề kinh doanh

Doanh nghiệp lớn là một bộ phận của doanh nghiệp được hình thành và phát
triển trong nền kinh tế chung. Để phân loại được dạng doanh nghiệp này chúng ta dựa
theo quy mô của doanh nghiệp. Nền kinh tế của mỗi nước có sự phát triển khác nhau
nên chỉ số của các tiêu chí phân loại của mỗi nước là khác nhau để phù hợp với sự phát
triển của các doanh nghiệp. Các tiêu chi được sử dụng thường là doanh thu, tài sản, số
lượn lao động, lợi nhuận … Ở Châu Âu doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có trên 250
lao động và có tổng tài sản lớn hơn 50 triệu Euro. Mỗi nước sẽ có những tiêu chi riêng
của mình để xét các doanh nghiệp. Tại Việt Nam theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
ngày 30/6/2009 của Chính phủ quy định doanh nghiệp có số lượng lao động từ 200 đến
300 và có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đến 100 tỷ đồng là doanh nghiệp vừa. Như vậy
doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có số lao động vượt quá 300 người và tổng nguồn
vồn trên 100 tỷ đồng. Mặc dù có những tiêu chí để phân biệt nhưng nhìn chung các
doanh nghiệp lớn là những doanh nghiệp mũi nhọn, có quy mô lớn trong nền kinh tế.
Năm 2009 công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) công
bố bảng xếp hạng VNR500 - TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Đây là năm
thứ 3 liên tiếp, bảng xếp hạng VNR500 được chính thức công bố để ghi nhận và tôn


vinh những thành quả mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đạt được.
Bảng 1: Top 10 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam
STT TÊN DOANH NGHIỆP
1 Tập đoàn dầu khí Việt Nam.
2 Tổng công ty xăng dầu Việt Nam.
3 Tập đoàn điện lực Việt Nam.
4 Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam.
5 Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam.
6 Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn.
7 Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Việt Nam.
8 Tổng công ty dầu Việt Nam - PVOIL.
9 Tổng công ty viễn thông quân đội.
10 Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam - VINASHIN
Nguồn: />1.1.2. Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Cũng giống như các quốc gia khác trên toàn thế giới, ở Việt Nam số lượng
doanh nghiệp Lớn chỉ chiếm một số lượng ít trong tổng số các doanh nghiệp trong nền
kinh tế.
Về tính chất sở hữu, hầu hết các doanh nghiệp lớn ở nước ta đều xuất phát từ
doanh nghiệp nhà nước. Trong bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp qua các năm gần đây
nhất thì có hơn một nửa là cấc doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là điểm nổi bật của
của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta, lấy nền kinh tế nhà nước làm
chủ đạo. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của khối doanh nghiệp nhà nước thì sự phát
triển của các khối doanh nghiệp còn lại ngày càng mạnh mẽ, không ngừng tăng lên về
số lượng cũng như quy mô để trở thành doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp lớn có thể phân biệt với các doanh nghiệp khác bằng quy mô về
vốn, doanh thu, số lao động và sự đóng góp cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Các
doanh nghiệp lớn thường là các doanh nghiệp khai thác kinh doanh tài nguyên khoáng
sản như: dầu khí, than và các ngành kinh tế nhà nước nắm thế độc quyền như: Hàng
không, ngân hàng, tài chính, viễn thông, điện lực… Bên cạnh đó là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài về lĩnh vực chế tạo và sản xuất, một lĩnh vực đòi hỏi vốn và

công nghệ cao.
Tuy gần đây chúng ta đã có bảng xếp hạng doanh nghiệp để khích lệ, đồng thời
công nhận đóng góp của các doanh nghiệp vào nền kinh tế nói chung nhưng việc xác
định doanh nghiệp lớn ở Việt Nam vẫn chưa cụ thể, chưa có quy định pháp luật rõ rang
thế nào là một doanh nghiệp lớn, cũng chưa có tổ chức cụ thể nào để hướng dẫn sự phát
triển của doanh nghiệp lớn.
Mặc dù chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh
tế tuy nhiên các doanh nghiệp lớn lại giữ những ngành kinh tế quan trọng, có những
đóng góp to lớn cho nền kinh tế và ngân sách nhà nước. Theo thống kê doanh nghiệp
lớn tạo ra GDP gấp nhiều lần các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra. Chính vì những lí do
đó mà các doanh nghiệp lớn luôn được xem là bộ phận trọng yếu của nền kinh tế quốc
dân. Nó luôn là đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của nền kinh tế, chúng ta có thể xem xét rõ
hơn vai trò của doanh nghiệp lớn trên các khía cạnh sau:
Vai trò về mặt kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội, vấn đề quan trọng được đặt ra là đưa nền kinh tế nhanh chóng thoát ra
khỏi tìn trạng nghèo nàn lạc hậu lên trình độ sản xuất tiên tiến, có quan hệ sản xuất phát
triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Để thực hiện được nhiệm vụ công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, các doanh nghiệp lớn – thành phần chủ đạo là các
doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục thể hiện vai trò của mình trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp lớn với lợi thế về quy mô, thương hiệu nên có thể dễ dàng huy
động vốn từ nhiều nguồn phong phú nên dễ dàng tiếp cận được với trình độ khoa học kĩ
thuật phát triển, nâng cao sức cạnh tranh do đó dễ dàng tiếp cận với khoa học công
nghệ, nâng cao sức cạnh tranh do đó có công đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Chỉ
riêng tính 50 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam đã đóng góp gần 40% tổng thu ngân sách
nhà nước, với tổn tài sản nắm giữ của các doanh nghiệp đã vượt qua GDP của nước ta.
Vai trò về chính trị: Đất nước chúng ta đang đi theo con đường chủ nghĩa xã hội,
nền kinh tế nhà nước là nền kinh tế chủ đạo. Các doanh nghiệp lớn của nước ta đều
xuất phát là các doanh nghiệp nhà nước, chính vì vậy nó luôn có ý nghĩa chính trị vô
cùng quan trọng. Nó là bộ phận giúp định hướng về mặt kinh tế, đồng thời là công cụ
để nhà nước thông qua đó thực hiện các chính sách của mình. Nó có tác dụng định

hướng sự phát triển của các doanh nghiệp khác, cung cấp nguồn lực chủ yếu cho đất
nước. Đồng thời nó là công cụ hữu hiệu thúc đẩy nền kinh tế theo đúng định hướng và
thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội do chính phủ đề ra. Đặc biệt nó còn đóng vai
trò tối quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước, ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia như năng lượng, vận tải, quốc phòng …
Vai trò về mặt xã hội: Các doanh nghiệp lớn đã và đang nêu cao vai trò của mình
trong các công tác xã hội. Bên cạnh việc sử dụng lao động, tạo công ăn việc làm ổn
đinhm tăng thu nhập cho người lao động, các doanh nghiệp lớn còn tích cức tham gia
vào các công tác xã hội.
1.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
lớn trong nền kinh tế Quốc dân.
1.2.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và hệ thống tài chính trên toàn thế giới hệ thống ngân
hàng bao gồm nhiều loại, trong số đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất, nhất là về quy mô tài sản, thị phần, và số lượng các ngân hàng.
Qua quá trình hình thành và phát triển của nền sản xuất xã hội, ngành ngân hàng
đang ngày càng phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng hoạt động. Mặt khác chính sự
phát triển của ngành ngân hàng, cùng với các nghiệp vụ của mình nó đang là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Nhìn chung các ngân hàng thương mại có các
hoạt động cơ bản sau đây:
a). Mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua
bán) ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác
và hưởng phí dịch vụ.
b). Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi
cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi
thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo
quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và

dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng
cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân
hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
c). Cho vay.
• Cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vayđối với người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để
lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người mua),
giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bơỉ vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay
đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau
chiến tranh thế giới thứ 2, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín
dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển
• Tài trợ cho dự án.
• Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên
năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành
công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
d). Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và tài sản
khác cho khách hàng trong két ( vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng
thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng
khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển
cùng vời nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán
lãi hoặc cổ tức hộ...
e). Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản
mà còn thục hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu

cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân
hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết phiếu chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến
ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn,
nhanh chóng, chính xác, tiếtkiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và
nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán
qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều lợi ích hơn. Điều này đã khuyến khích
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát
triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ...
f). Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng.
Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân
hàng đã ccung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng
ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư
tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách
hàng cần tiền mặt để thanh toán.
g). Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách
trong khi thu không đủ, chínhphủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay
của ngân hàng. Ngày nay, chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các
ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam
kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.
Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
h). Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát

triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá
và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác ...
i). Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn.
Nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể
mua( do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách
hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,
trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải
trả tới hơn 70% hoặc100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng
cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
j). Cung cấp dịc vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên
gia về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác
vay hộ , uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... Thậm chí, các ngân
hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng
đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng
còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn về tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn
về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
k). Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các
ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ
hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp các
ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung
cấp dịch vụ môi giới.
l). Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều
đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm

con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết
kiệm hưu trí...
m). Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh
hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp
dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các
chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.2.2 Hoạt động tín dụng của NHTM.
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa
khách nhau, đối với từng hoàn cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung
riêng. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể được hiểu theo các nghĩa sau:
• Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể
thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho
vay sang người đi vay.
• Trong quan hệ tài chính cụ thể tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn
trả giữa hai chủ thể.
• Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay và định chế tài chính cung cấp cho khách
hàng.
Nói tóm lại trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín
dụng được hiểu như sau:
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng
– một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức,
cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay”.
Hiện nay có ba loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm
:
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài nước.
Tín dụng ngân hàng là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, điều tiết

và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Mặt khác
sự phát triển của nền kinh tế, tín dụng ngày càng phát triển cả về nội dung lẫn hình
thức. Các quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng hơn, ban đầu là quan hệ giữa các
cá nhân với nhau, sau đó là giữa cá nhân với tổ chức, tổ chức với tổ chức, quan hệ với
nhà nước và cao nhất là quan hệ tín dụng quốc tế. Trong quá trình phát triển lâu dài đó
quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển qua các hình thức sau:
 Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:
• Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, tín dụng ngắn
hạng được phần chia thành các loại: Cho vay bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ có giá; cho vay đáp ứng
nhu cấu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống với hộ tư nhân, cá thể.

×