Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.89 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
I. Tổng quan về vốn đầu tư
1. Khái niệm
Ở giác độ vĩ mô, vốn sản xuất luôn được biểu hiện dưới dạng hiện vật, phản
ánh năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Trong nền kinh tế của một nước để có thể
tạo ra được những tài sản vật chất cụ thể, nhất thiết phải sử dụng vốn đầu tư thông qua
hoạt động đầu tư. Theo chức năng vốn đầu tư được chia làm hai loại: Vốn đầu tư sản
xuất và vốn đầu tư phi sản xuất.
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng
mức vốn sản xuất - giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện trực tiếp
phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ bao gồm vốn đầu tư vào tài sản cố định và
vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư tham gia vào quá trình sản xuất thông qua
hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư (
1
): Là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản
xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, nói một cách khác đó là quá trình thực hiện
tái sản xuất các loại tài sản sản xuất. Hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết xuất phát từ 3
lý do:
Thứ nhất: Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản cố định tham gia nhiều lần vào
quá trình sản xuất, giá trị bị giảm dần và chuyển dần từng phần vào trong giá trị sản
phẩm. Trái lại, đối với tài sản lưu động lại tham gia một lần vào quá trình sản xuất và
chuyển toàn bộ giá trị vào trong giá trị sản phẩm. Vì vậy, phải tiến hành đầu tư để bù
đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ nguyên vất liệu cho quá trình sản
xuất tiếp theo. Nói cách khác, đầu tư nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn tài sản sản
xuất.
Thứ hai: Nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải tiến
hành đầu tư nhằm tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động
tức là thực hiện tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất.
Thứ ba: Trong thời đại của tiến bộ công nghệ diễn ra rất mạnh mẽ, nhiều máy


móc thiết bị…nhanh chóng rơi vào trạng thái lạc hậu công nghệ. Do đó phải tiến hành
đầu tư mới, nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình.
Hoạt động đầu tư thường được thực hiện dưới hai hình thức: Đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp.
1( ) Giáo trình kinh tế phát triển, nhà xuất bản lao động - xã hội, 2005.
Đầu tư trực tiếp: Là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào
quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương
thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể thực hiện
dưới các dạng: hợp đồng, liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đầu tư gián tiếp: Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại
hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho toàn xã hội, nhưng người có vốn
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường thực hiện
dưới dạng: cổ phiếu, tín phiếu… hình thức này thường ít gặp rủi ro hơn so với đầu tư
trực tiếp.
2.Bản chất của vốn đầu tư
Về bản chất nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy
mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Khẳng
định này đã được chứng minh ở hầu hết các trường phái kinh tế học như: kinh tế học cổ
điển, kinh tế học chính trị Mác-Lênin và kinh tế học hiện đại.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith đã khẳng định:
“Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy
cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết
kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”
Sang thế kỷ XIX, theo quan điểm của Mác, con đường cơ bản và quan trọng về
lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong
sản xuất và tiêu dùng, hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ
có thể đáp ứng được do sự gia tăng sản xuất và tích lũy của nền kinh tế
Quan điểm này tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh trong
tác phẩm nổi tiếng: “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (The General
Theory of Employment, Interest, and Money) của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh

John Maynard Keynes (1883 – 1946). Ông cho rằng đầu tư chính là phần thu nhập mà
không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần
dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Điều này có nghĩa là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song
phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và một bên là người tiêu dùng.
Thu nhập chính là chênh lệch giữa tổng doanh thu cung cấp dịch vụ, bán hàng với tổng
chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm phải được bán ra cho người tiêu dùng hoặc các nhà
sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất
mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà
người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người
ta gọi là đầu tư
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong
nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ
cũng được thiết lập. Phần tích lũy của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại
nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược
lại, vốn tích lũy của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải
huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết
kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lãi.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Trong nền kinh tế mở nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy của nền kinh tế dẫn
đến tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi
đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguốn vốn đầu tư
quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong
nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia có thể đầu tư ra nước
ngoài hoặc cho các nước khác vay nhằm sử dụng vốn hiệu quả hơn.

II. Cơ cấu vốn đầu tư
Chia theo khu vực thể chế thì tiết kiệm hay còn gọi là vốn đầu tư được phân
thành tiết kiệm của chính phủ (bao gồm vốn NSNN, ODA), tiết kiệm của doanh nghiệp
(bao gồm cả tiết kiệm của doanh nghiệp nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp tư nhân) và tiết kiệm của hộ gia đình. Trong tiết kiệm của chính phủ gồm
có: Vốn ngân sách, vốn đầu tư phát triển và vốn của các doanh nghiệp nhà nước.
1. Vốn ngân sách
Vốn ngân sách là vốn huy động từ ngân sách, nó có vị trí rất quan trọng trong
việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế
theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật.
1.1 Vốn ngân sách Nhà nước
1.1.1 Khái niệm
Ngân sách Nhà nước (
2
): Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một
bộ phận trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng
rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về NSNN lại chưa
2( )
thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về NSNN tùy theo các trường phái và
các lĩnh vực nghiên cứu.
Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản
thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia.
Trong Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Thu ngân sách Nhà nước: Thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nước
huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất,
thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong
quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập

trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình.
Chi ngân sách Nhà nước: Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử
dụng quỹ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực
chất của nó là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ.
1.1.2 Phạm vi thu và nhiệm vụ chi của Ngân sách Nhà nước (
3
)
 Phạm vi thu của Ngân sách Nhà nước
Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của xã hội
dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước (quỹ NSNN)
để đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Dựa vào nội dung kinh tế và tính
chất các khoản thu có thể chia thu ngân sách thành hai nhóm:
Nhóm 1, thu trong cân đối ngân sách: Gồm các khoản thu mang tính chất thuế
(thuế, phí và lệ phí) và thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước
+ Khoản thu mang tính chất thuế (thuế, phí và lệ phí): Là các khoản thu mang
tính chất bắt buộc do nhà nước quy định. Trong đó thu từ thuế chiếm tỷ trọng cao trong
tổng thu NSNN.
+ Thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước: Nhà nước tham gia các hoạt
động kinh tế bằng việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức góp vốn vào
các doanh nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần. Khi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang lại lợi nhuận thì lợi tức thu được phụ
thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà nước, cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.
3( ) Luật NSNN số 01/2002/QH11,
Nhóm 2, thu bù đắp thâm hụt của ngân sách: Gồm các khoản thu do Nhà nước
vay và nhận viện trợ để bù đắp bội chi NSNN.
+ Thu từ vay nợ trong và ngoài nước: Nhà nước vay nợ trong nước bằng cách
phát hành trái phiếu chính phủ dưới các hình thức: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho
bạc và trái phiếu công trình. Vay nợ nước ngoài theo điều kiện thương mại và lãi suất
thị trường.

+ Thu từ nhận viện trợ nước nước ngoài: Viện trợ nước ngoài bao gồm viện trợ
không hoàn lại và viện trợ có hoàn lại với lãi suất thấp và thời hạn trả nợ dài hơn so với
các khoản vay trên thị trường quốc tế.
 Nhiệm vụ chi của NSNN
Trong điều kiện nguồn vốn NSNN có hạn, Nhà nước chỉ chi vào những mục
nhằm giải quyết các vấn đề xã hội như: Nghèo đói, thất nghiệp, lạm phát…Và các lĩnh
vực mà các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, không có khả năng đầu tư
hoặc không được phép đầu tư. Do đó chi NSNN tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực, dự
án sau:
+ Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội do địa phương quản lý; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; Chi bổ sung dự trữ nhà
nước và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
+ Chi thường xuyên: Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y
tế xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý; Quốc phòng,
an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa phương); Hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương; Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội – nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật; Thực hiện các chính
sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý; Chương trình quốc gia do
Chính phủ giao cho địa phương quản lý; Trợ giá theo chính sách của Nhà nước; Các
khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Vốn ngân sách địa phương (
4
)
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tức là ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện
và ngân sách cấp xã.

Thu ngân sách địa phương bao gồm: Các khoản thu ngân sách địa phương
được hưởng 100%; Các khoản thu phân theo tỷ lệ (%) giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương.
4( ) Luật NSNN số 01/2002/QH11,
+ Các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100% gồm có: Các khoản
thu từ thuế (thuế nhà, đất; thuế tài nguyên; thuế môn bài; thuế sử dụng đất nông nghiệp;
thuế chuyển quyền sử dụng đất), Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt nộp vào ngân
sách địa phương, các khoản tiền (tiền sử dụng đất, cho thuê đất, cho thuê và tiền bán
nhà thuộc sở hữu nhà nước), các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản
viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của Pháp luật.
+ Các khoản thu chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương: Thu bổ sung từ ngân sách trung ương; Thu từ huy động đầu tư
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
Chi ngân sách địa phương gồm có: Chi đầu từ phát triển và chi thường xuyên
chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư; chi bổ sung quỹ dự trữ tài
chính của cấp tỉnh và chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
+ Chi đầu tư phát triển:Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội do địa phương quản lý; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật.
+ Chi thường xuyên: Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y
tế, xã hội, văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý; Quốc phòng,
an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa phương); Hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương; Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật; Thực hiện các chính
sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý; Chương trình quốc gia do
Chính phủ giao cho địa phương quản lý và trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
2. Tiết kiệm của các doanh nghiệp

Tiết kiệm của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở doanh thu và các khoản
chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp nhà nước.
Doanh thu của doanh nghiệp (TR) là các khoản thu nhập của công ty do tiêu
thụ hàng hóa hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình
sản xuất. Tổng chi phí (TC) thường bao gồm các khoản: Trả tiền công, trả tiền thuê đất
đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận
trước thuế của các doanh nghiệp.
Pr trước thuế = TR – TC

×