Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin và hiện đại hóa hoạt động hải quan tại cục hải quan đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.75 KB, 105 trang )

c thông tin khai báo Danh mục nguyên liệu, vật tư nhập khẩu đã đảm bảo yêu cầu, công chức
tiếp nhận Danh mục tiếp nhận thông tin trên hệ thống và cấp số tham chiếu cho các bảng danh mục nguyên
liệu vật tư nhập khẩu”. Cán bộ tiếp nhận đăng ký danh mục chỉ có thể thực hiện đăng ký danh mục cho doanh
nghiệp và chấp nhận khai báo, tại ô “số tham chiếu” cán bộ không thể thực hiện cấp số tham chiếu cho bảng
danh mục được
Đơn giá trong khai điện tử loại hình gia công nhập khẩu hoặc xuất khẩu Doanh nghiệp truyền đến không thể
hiện trên giao diện Hải quan, do đó Doanh nghiệp phải nhờ cán bộ tin học hỗ trợ nhập vào để có dữ liệu
Doanh nghiệp khai điện tử khi truyền Danh mục sản phẩm đến cán bộ tiếp nhận Danh mục không dò được
danh sách sản phẩm theo thứ tự ABC. Đối với lọai hình SXXK và gia công định mức khi Doanh nghiệp
truyền đến bao gồm nhiều mã sản phẩm, mỗi sản phẩm bao gồm nhiều mã NPL khác nhau, các NPL này khi
truyền đến DN cũng không sort được theo thứ tự ABC do đó gây mất nhiều thời gian để kiểm tra thủ công
Phần định mức có tỷ lệ hao hụt trên 3% Doanh nghiệp không có phần để giải trình hoặc nêu các thông số liên
quan hoặc scan trên bảng điện tử để cán bộ tiếp nhận kiểm tra đối chiếu do đó Doanh nghiệp phải tự mang
bảng giấy đến để cán bộ tiếp nhận kiểm tra tính phù hợp.
Do chương trình quản lý tên hàng theo mã nguyên vật liệu nên không cho phép nhập thêm thông tin phần mở
rộng như thông tin tiếng Anh, ký mã hiệu,… nên không thể diễn giải thêm thành phần, cấu tạo, công dụng của
nguyên vật liệu nhập khẩu theo quy định tại Thông tư 49/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính.

Chương trình không hiển thị số định mức đã đăng ký. Nên cán bộ sau khi duyệt định mức phải vào chương
trình SXXK để tìm số định mức đã cấp.
II. Về phía doanh nghiệp
1
Khi khai báo và truyền dữ liệu về định mức nguyên vật liệu loại hình SXXK, phần tỷ lệ hao hụt không có mặc
định sẵn tỷ lệ phần trăm như chương trình khai báo từ xa, do đó doanh nghiệp phải chia thành tỷ lệ phần trăm
trước rồi mới truyền dữ liệu gây bất tiện
2
Đối với loại hình xuất gia công, doanh nghiệp chỉ khai báo được trị giá FOB, không khai báo được trị giá gia
công và cả 02 trị giá này phải thể hiện trên tờ khai điện tử in. Vì khi thực thanh toán doanh nghiệp chỉ thanh
toán trị giá gia công nên đối chiếu chứng từ thanh toán với tờ khai hải quan là chưa phù hợp.
3
Trường hợp công ty TNHH Akema xuất khẩu sản phẩm từ nguyên vật liệu nhập khẩu nhưng còn để ở kho


doanh nghiệp tại nước ngoài theo điểm 8. điều 117 của Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/04/2010. Tuy
nhiên, chương trình phía doanh nghiệp trong trường hợp này sẽ không hay chưa có số liệu chi tiết được khai
báo như: thông tin khách hàng, số và ngày hợp đồng, phương thức và thời hạn thanh toán, điều kiện giao
hàng, đơn giá và trị giá hợp đồng,... Do đó, sẽ không khai báo và thông quan hàng hoá được khi thực hiện hải
quan điện tử.
12


101

4
5
6

Chương trình gia công giao diện tờ khai điện tử chỉ có 03 dòng hàng, khi in tờ khai giao diện không thể hiện
trị giá tổng cộng. Trường hợp tờ khai có 2 hay 4 dòng hàng trở lên thì có thể hiện trị giá tổng cộng
Theo quy định, hàng hóa là sản phẩm dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phải nhập mã HTS, tuy nhiên
giao diện tờ khai XGC không có tiêu chí mã HTS để nhập.
Giao diện tab “Thông tin chung của tờ khai” ô 12 không cho phép thể hiện chi tiết đối với phương thức thanh
toán TTR (vd: TTR 30 ngày, TTR 60 ngày; TTR 90 ngày…).

Hiện nay, Packing List DN chưa khai báo được thông tin dữ liệu điện tử và DN phải scan packing list đính
kèm khi khai báo. Những tờ khai có nhiều trang packinglist doanh nghiệp không thể scan được do dung lượng
cho phép quá ít
8
Khi cơ quan hải quan đang kiểm tra hồ sơ của doanh nghiệp truyền đến thì phía doanh nghiệp không được mở
dữ liệu này lên để điều chỉnh hoặc từ chối khai báo; đồng thời chương trình phải có thông báo nội dung "cơ
quan Hải quan đang kiểm tra xử lý dữ liệu". Vì thực tế, tại Chi cục có phát sinh trường hợp cán bộ đang xử lý
dữ liệu khai báo và chấp nhận khai báo thì phía doanh nghiệp lại xử lý từ chối khai báo. Do vậy, đầu hải quan
có số tờ khai nhưng phía doanh nghiệp thì không có tờ khai (phát sinh cụ thể đối với TKHQ số 5883/XSX

ngày 18/06/2010 của Công ty Arkema).
B. Về quy trình thủ tục:
1
Căn cứ tiết 1 điểm VI muc I, phần I QĐ 2396/QĐ –TCHQ ngày 09/12/2009 về việc ban hành quy trình thủ tục
hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có quy định: “Chi cục trưởng quyết định cho phép chuyển
cửa khẩu và được thể hiện tại ô số 15 tờ khai hải quan điện tử xuất khẩu, ô số 18 tờ khai điện tử nhập khẩu.
Trường hợp Chi cục hải quan nơi thực hiện thủ tục hải quan điện tử thay đổi hình thức mức độ kiểm tra, quyết
định cho phép chuyển cửa khẩu được in tại ố số 9 phiếu ghi kết quả kiểm tra chứng từ giấy”. .
2
Theo Thông tư 222/2009/TT-BTC khi thực hiện thủ tục xuất khẩu doanh nghiệp phải nhập liệu thông tin của
hợp đồng phát sinh thêm thủ tục và thời gian so với thủ tục truyền thống chỉ có packing list
Tờ khai được phân luồng đỏ ngẫu nhiên nhưng trước đó trong quá trình chuyển đổi dữ liệu từ chứng từ giấy
sang dữ liệu điện tử có sai sót nên doanh nghiệp xin sửa chữa tờ khai (về sửa đổi phương thức thanh toán, số
kiện, trọng lượng,…). Lãnh đạo Chi cục xem xét chấp nhận cho doanh nghiệp sửa chữa nhưng sau đó hệ
3
thống lại phân luồng là xanh. Do quy định hiện nay tờ khai chỉ được chuyển luồng có độ rủi ro thấp lên cao,
không được chuyển luồng từ có độ rủi ro cao xuống thấp
7



×