Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Thực trạng phát triển các dịch vụ Logistics ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.33 KB, 10 trang )

Thực trạng phát triển các dịch vụ Logistics ở nước ta hiện
nay( lấy nhà máy nhôm Đông Anh làm ví dụ)
I. Quá trình phát triển dịch vụ logistics nói chung và dịch vụ logistics ở các
doanh nghiệp nước ta hiện nay.
1. Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy nhôm Đông Anh
Là đơn vị trực thuộc công ty cơ khi Đông Anh.
Được thành lập theo quyết định số 482/QĐ/TCT –HĐQT Ngày 02 tháng
08 năm 2004 của tổng công ty Xây Dựng và Phát Triển Hạ tầng LICOGI. Số
đăng kí kinh doanh là: 0116000339 do Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà nội cấp
ngày 01 tháng 09 năm 2004.
Quy mô nhà máy:
- Quy mô nhân lực : Tổng số cán bộ nhân viên của nhà máy là 320 người.
Trong đó có
+ 85 người lao động gián tiếp
+ 235 người lao động trực tiếp.
+ Khoảng 30% người lao động trong nhà máy có trình độ đại học
+ Khoảng 55% người lao động trong nhà máy có trình độ cao đẳng.
+Khoảng 10% người lao động trong nhà máy có trình độ trung cấp
+ Khoảng 5% người lao động trong nhà máy là lao động phổ thông
Đội ngũ cán bộ trẻ, nhiệt tình, năng động, có trình độ, trong đó có nhiều
kỹ sư được đào tạo tại các nước có nền công nghiệp tiên tiến, sản xuất nhôm với
trình độ cao như hàn Quốc, Italia, Đài loan…
- Quy mô đầu tư: Nhà máy được xây dựng khép kín trên khuôn viên với
tổng diện tích 28000 m2
Địa điểm: tại Khối 2A, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Tổng mức vốn đầu tư cho thiết bị và nhà xưởng là 170.000.000.000 VNĐ
- Quy sản xuất: Với 3 phân xưởng sản xuất và một xưởng gia công kết
cấu được trang bị hệ thống dây chuyền thiết bị hiện đại đồng bộ gồm :
+ Phân xưởng dùn ép thanh nhôm định hình chất lượng cao
+ Phân xưởng anode xử lý và trang trí bề mặt thanh nhôm bằng phương
pháp sơn tĩnh điện và phủ film.


Với hệ thống thiết bị hiện đại và đồng bộ, được bố trí khoa học, dảm bảo
cho nhà máy vận hành đạt công suất 10.000 tấn/năm.
- Thiết bị thí nghiệm và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Nhà máy đã đầu
tư mới các trang thiết bị thí nghiệm hiện đại để kiểm soát chất lượng sản phẩm.
Sau mỗi công đoạn sản xuất, tất cả các bán thành phẩm đều được kiểm
soát bằng hệ thống các thiết bị kiểm tra như:
+ Máy phân tích thành phần của sản phẩm của Thuỵ Sỹ.
+ Máy kiểm tra khuyết tật đầu vào và đầu ra của sản phẩm của Hoa Kỳ.
+ Máy thự độ bền kéo, thử độ bền uốn, Máy đo độ cứng bề mặt, Máy xác
định chiều dày của lớp phủ bề mặt, Máy thử độ mất màu của Italia.
- Vật tư:
+ Nguyên liệu cho khâu đùn ép – Billet 100% nhập từ Australia, Thái lan
và một số nước công nghiệp tiên tiến, Billet đều được biến tính Bo và Ti, và
đồng hoá, đều được kiểm tra khuyết tật trước khi đùn ép, đảm bảo tạo ra được
những sản phẩm nhôm thanh định hình chất lượng cao đáp ứng được các công
trình có yêu cầu cao về chất lượng.
Mạng Lưới Hoạt Động:
- Phạm vi phân phối về mặt địa lý: Hiện nay mạng lưới phân phối sản
phẩm của Nhà máy nhôm Đông Anh được thiết lập trên 64 tỉnh thành phố trong
cả nước thông qua các kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp, xuất khẩu ra thị
trường các nước Châu Âu, Châu Mỹ và á.
- Đối tượng khách hàng: Khách hàng của Nhà máy nhôm Đông Anh đa
dạng với nhiều lĩnh vực khác nhau:
+ Lĩnh vực xây dựng Dân dụng
+ Lĩnh vực Trang trí Nội thất
+ Lĩnh vực Công nghiệp ôtô
+ Lĩnh vực Công nghiệp điện tử
+ Lĩnh vực Giao thông
+ Lĩnh vực Công nghiệp Đóng tàu
+ Lĩnh vực Giáo dục, Văn phòng.

2. Quá trình phát triển dịch vụ Logistics nói chung.
Theo ESCAP ( Econmic and Commission for Asia and Pacific - Uỷ ban
Kinh tế và xã hội châu á - Thái Bình Dương ) Logistics được phát triển qua 3
giai đoạn:
Giai đoạn 1: phân phối vật chất
Vào những năm 60, 70 của thế kỷ thứ 20, người ta bắt đầu quan tâm đến
vấn đề quản lý một cách có hệ thống những hoạt động có liên quan với nhau để
đảm bảo cung cấp sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng một cách có hiệu quả.
Những hoạt động đó bao gồm : vận tảI, phân phối, bảo quản, quản lý tồn kho,
bao bì đóng gói, phân loại, dán nhãn… nhữnghoạt động trên được gọi là phân
phối, cung ứng sản phẩm vật chất hay còn có tên gọi là Logistics đầu vào.
Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics
Đến những năm 80, 90của thế kỷ trước, các công ty tiến hành kết hợp
quản lý 2 mặt: đầu vào( gọi là cung ứng vật tư) với đầu ra (phân phối sản
phẩm), để tiết kiệm chi phí, tăng thêm hiệu quả của quá trình này. Sự kết hợp đó
được gọi là hệ thống Logistics.
Giai đoạn 3: Quản trị dây truyền cung ứng.
Đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi nối tiếp các hoạt
động từ người cung cấp - đến người sản xuất – khách hàng tiêu ding sản phẩm,
cùng với việc lập các chứng từ có liên quan, hệ thống theo dõi, kiểm tra làm
tăng thêm giá trị sản phẩm. KháI niệm này coi trọng việc phát triển các quan hệ
với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung cấp, với người
tiêu ding và các bên có liên quan, như : các công ty vận tải, kho bãI, giao nhận
và cung cấp công nghệ thông tin ( IT – Information Techology). Logistics phát
triển quá nhanh tróng, trong nhiều ngành nhiều lĩnh vực, ở nhiều nước, nên có
rất nhiều tổ choc nhóm 7 tham gia nghiên cứu, đưa ra nhiều định nghĩa khác
nhau, cho đến nay chưa có được kháI niệm thống nhất về Logistics.
Trong lĩnh vực sản xuất, người ta đưa ra định nghĩa Logistics một cách
đơn giản, ngắn gọn nhất là cung ứng, là chuỗi hoạt động nhằm đảm bảo nguyên
nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị, các dịch vụ… cho hoạt động của tổ choc,

doanh nghiệp đươc tiến hành liên tục, nhịp nhàng và có hiệu quả; bên cạnh đó
còn tham gia vào quá trình phát triển sản phẩm mới.
Ngài ra còn có thể định nghĩa “Logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí,
vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung
ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động
kinh tế”.
Ở Việt Nam hiện nay, khi nói đến Logistics người ta chú tâm vào cấp độ
hai – tức là khâu vận chuyển và lưu trữ.
3. Thực trạng chung về dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ Logistics ở Việt Nam
Nằm trong khu vực chiến lược ở Đông Nam á, với vị trí địa lý rất thuận
lợi cho vận tải quốc tế, lại có bờ biển dài và cảng nước sâu, Vịêt Nam được
đánh giá có tiềm năng lớn về phát triển dịch vụ Logistics. Tuy nhiên,trong xếp
hạng của ngân hàng thế giới về chỉ số hiệu quả hoạt động Logistics năm 2007,
Việt Nam vẫn đứng thứ 53 thế giới và thứ 5 ở ASEAN. Theo đánh giácủa hiệp
hội giao nhận, kho vận và vận tải biển thế giới. Đến năm 2015 Logistics Việt
Nam chiếm 15% GDP với kim ngạch XNK 200 tỷ USD. Nhưng cho tới nay con
số các doanh nghiệp kinh doanh Logistics Việt Nam mới đáp ứng được 20%
nhu cầu và tạm nhường sân cho các doanh ngiệp nước ngoài đầu tư và thu rất
nhiều ngoại tệ ở lĩnh vực này.
Theo tính toán của cục hàng hải Việt Nam cho đến nay Việt Nam mới
đáp ứng được 25% nhu cầu thị trường dịch vụ logistics đang ngày càng phát
triển. Cụ thể, dịch vụ quan trọng nhất là vận tảu biển, các doanh nghiệp mới đáp
ứng được 18% tổng lượng hàng hoá sản xuất nhập khẩu. Đây thực sự là một
thua thiệt lớn, khi có đến 90% hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng
đường biển.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hơn 800 doanh nghiệp Việt Nam tham gia
dịch vụ này nhưng chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay số doanh nghiệp đủ sức để
tổ chức và điều hành toàn bộ hoạt động logistics. Các doanh nghiệp Việt Nam
đa phần đều nhỏ bé hạn chế về vốn, công nghệ và trình độ nhân lực, có thể vì

thế nên chỉ đủ khả năng làm thuê một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ mà
các doanh nghiệp nước ngoài dành được ngay trên thị trường Việt Nam.
Trước tới thời điểm trước khi Việt Nam gia nhập WTO do có sự bảo hộ
nên có một hãng logistics nước ngoài tham gia vào lĩnh vực này với đầu tư đồng
bộ và cung cấp đầy đủ tất cả các dịch vụ liên quan đến logistics một cách
chuyên nghiệp mà chỉ dừng lại ở việc sử dụng đại lý để handle hàng ở Việt Nam

×